Ads 468x60px

.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan




Nguyễn Công Hoan là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam.

Ông sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, Hưng Yên,
mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội.


Các bạn có thể đọc tại đây (lấy trên Internet)
- Các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan,
- Các bài viết về Nguyễn Công Hoan.

Mời xem: Bách Khoa Toàn Thư mở - Wikipedia
♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣


Video: Nhà văn Nguyễn Công Hoan (Thực hiện: Trí Dũng, Ngọc Oanh, Huy Hoàng, Thúy Lành, Thùy Trang, Tuấn Anh - Trang thông tin điện tử Đài Phát thanh & Truyền hình Hưng Yên)

Featured Posts

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2024

Nghe đọc Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan - Yêu Ngữ Văn


Nghe đọc Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan

Yêu Ngữ Văn


Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: Yêu Ngữ Văn

Mời nghe đọc tại YouTube - #nguyenconghoan
Diễn đọc: Yêu Ngữ Văn

Xin nhấp chuột vào truyện ngắn muốn nghe




Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2024

Về truyện ngắn "Mất cái ví" của Nguyễn Công Hoan


Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 - 1993)

Về truyện ngắn "Mất cái ví"
của Nguyễn Công Hoan

Văn Tâm


Từ trước Cách mạng tháng Tám, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã có một khối lượng tác phẩm đồ sộ: hơn 20 chuyện dài, số truyện ngắn nhiều gấp mười - tác giả cũng tự hào: "Về số lượng sách, nếu tôi có thua, thì chỉ thua Lê Văn Trương thôi”(1). Tổng kết về đề tài chủ yếu trong sáng tác của cây bút hiện thực phê phán này, các nhà nghiên cứu phê bình văn học trước và sau 1945 đều thống nhất nhận định: “Sự xung đột giữa kẻ giàu người nghèo là cái cốt của hầu hết các truyện ngắn truyện dài Nguyễn Công Hoan”(2), “Hầu hết truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công Hoan đều xoay quanh sự đối chọi giữa kẻ giàu và người nghèo”(3)... Những ý kiến đó đúng đắn, nhưng là kết quả của góc độ cảm nhận đặt trên cơ sở một phương thức khám phá nghệ thuật có phần đã chững lại.

Ở đây, bài viết này muốn nhìn nhận nội dung sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước 1945 (chủ yếu qua truyện ngắn Mất cái ví) từ góc độ khác, nhằm đóng góp thêm một phương thức tiếp cận và nhận diện cây bút hiện thực phê phán nổi tiếng ấy.

Trò diễn mất cắp tiền của ông Tham - nhân vật trung tâm trong truyện ngắn Mất cái ví của Nguyễn Công Hoan - nhằm mục đích: “... để bận sau ông (ông cậu ruột - V.T) đừng ra chơi nữa. Tốn kém lắm!...” là một "thao tác" tích lũy theo "bản chất sinh vật". Hành động ấy tuy không phạm pháp, nhưng vô đạo (với ý nghĩa: không còn khả năng tự hình thành, tự kiểm tra các nghĩa vụ đạo lý đòi hỏi bản thân phải thực hiện và đánh giá những hành động theo nghĩa vụ đó).

Với vốn sống phong phú, khả năng nhạy cảm trước tâm địa, tâm trạng con người, óc quan sát lọc lõi..., Nguyễn Công Hoan đã xây dựng được trong truyện ngắn - kịch Mất cái ví hai hình tượng nhân vật đặc sắc có "nét nhân cách" đột xuất: thứ nhất, ông Tham, do sự thúc đẩy của bản năng tích lũy mà mất nhân phẩm, trở thành "đồ đểu", thậm chí "chó đểu" (thú vật hóa) như ông cậu ruột đã nói và nghĩ; thứ hai, cụ già cậu ruột ông Tham, một người có vẻ còn sót lại tự thuở nào: giàu tình cảm họ hàng, chất phác và khái tính, nạn nhân của thú tính kẻ đồng loại - hơn nữa: kẻ có quan hệ huyết mạch gần gũi có thể xem là đồng tôn tộc ("cậu cũng như mẹ" như cụ già đã quan niệm giản đơn và có phần bất cập trước "tình rừng" điên đảo bấy giờ).

Xây dựng hình tượng nhân vật ông Tham, một vị tân trí thức có trình độ học vấn cao (tham tá thời Tây thường đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học), cương vị xã hội cũng không thấp (thường được gọi là "quan": "quan tham"), nhưng lại cư xử tàn tệ với họ hàng bề trên kiểu như vậy; trước hết, tác giả muốn vạch ra mấy nghịch cảnh nhãn tiền đương thời: mâu thuẫn giữa danh (thượng lưu trí thức) với thực ("chó đểu"); và sự thấp cao của thân thế con người không có liên quan gì đến bản chất xấu tốt của họ (tương tự các truyện: Sóng Vũ Môn, Kép Tư Bền...).

Ông Tham, người soạn kịch bản, giàn dựng lớp lang và đảm nhiệm vai chính trong trò diễn "mất cái ví" quả là một kẻ khôn khéo có trí khôn lưu manh (Ai cũng rõ bọn trộm cắp lọc lõi đều có trí khôn: trước khi nắn túi đã biết nắn tâm lí nạn nhân - về một phương diện nào đó, chúng là các nhà "tâm lí học thực nghiệm", từ chỗ "chẩn đoán tâm lí" chính xác, tiến đến việc sử dụng các "công cụ tâm lí" thích hợp mà sắp xếp đạo diễn, tự đóng vai chính trong các trò diễn bịp bợm linh hoạt bất ngờ, chúng biết chớp thời cơ hành động rồi "thoát hiểm" với con đường tối ưu...). Ông Tham với thứ trí khôn tương tự ít nhiều mang tính bẩm sinh (ông cậu đã nhận xét: “Tôi biết ông ấy từ thuở để chỏm chòe bằng ngần này, nên tôi hiểu cả giọng nói”) đã xua ông cậu ruột ra khỏi nhà mình cho đỡ “tốn kém” một cách khéo léo tinh vi, khiến đối với miệng lưỡi thiên hạ (trừ bà Tham "đầu gối tay ấp"), ông hoàn toàn là người "ngoại phạm" trước một điều khoản trong khế ước xã hội: cung dưỡng các bậc thân cựu.

Mở màn tấn kịch, với những câu nói thớ lợ trong cuộc điều tra tại chỗ: “Chúng bay làm gì mà to mồm thế, nói khẽ cho cụ ngủ”, “ấy mợ khẽ để ông ngủ...”; một mặt ông đã tự tô vẽ được tấm lòng son trước đám gia nhân; mặt khác, thực hiện được những động tác giả khiến ông cậu thực thà bán tín bán nghi về tâm địa người cháu ruột. Thế rồi trong quá trình hỏi cung đám người làm, tường trình về tình huống vụ trộm cắp, và đối thoại với mọi người, ông đã gián tiếp thông báo kết quả phương pháp loại trừ (như một điều tra viên chuyên nghiệp) cho ông cậu rõ: “thằng xe”, “thằng bếp” không thể là thủ phạm bởi chúng ngủ cả ở nhà dưới, nhà trên suốt đêm cài cửa cẩn thận, sáng ra khi chưa mở cửa, ông đã phát hiện ngay được chuyện "mất cái ví"; “con vú em” cũng không thể là kẻ gian, mặc dù ngủ chung với bà Tham ở phòng trong của nhà trên, vì ông đã khẳng định mười mươi về tính nết lương thiện truyền thống của người giúp việc đáng tin cậy này: “Tao thì tao không ngờ cho con vú em đâu. Nếu nó có tính tắt mắt, thì tao mất nhiều lần rồi. Mọi khi tao ngủ để bừa bãi cả tiền nong ra bàn, nhưng sáng dậy vẫn còn nguyên, một trinh cũng không suy suyển”; bà Tham hẳn vô can, vì không có lý do gì lại ăn cắp tiền của chồng; cuối cùng đến ông Tham, thì chẳng lẽ ông ăn cắp tiền của... chính mình - một đầu óc bình thường khó có thể tưởng tượng cái chuyện oái oăm phi lý đến mức ấy... Kết quả phương pháp loại trừ xem ra rất khoa học của quan Tham thì rút cuộc chỉ còn trơ khấc lại: ông cậu ruột!... Phương pháp loại trừ được chủ nhà kết hợp lửng lơ mà chặt chẽ với sự phát hiện những hành động khả nghi của một người ("cụ thức khuya", "lủng củng mãi mới chợp mắt đấy") trong một hoàn cảnh dễ gây án: “Tao nhớ rằng khi tao đi nằm, tao còn mở ví ra để đếm lại giấy bạc, rồi tao gối ở đầu giường chỗ này. Tao nằm bên cạnh cụ. Vì thức khuya nói chuyện, nên tao mệt, tao ngủ say lúc nào không biết. Tao chắc lúc đếm tiền, có đứa nào trông thấy”... Theo dõi sít sao quá trình điều tra vụ án sát bên tai, ông cậu ruột đã bị cháu dùng các "công cụ tâm lý" để chi phối phản ứng. Lúc đầu cụ thấy: “trái tai”, “phân vân”..., rồi cụ “thở dài, cựa mình một cái”, tiếp đó: “ông cụ thấy khó chịu”, “hơi tức đầy đến ngực”... Kịp đến khi ông cháu chủ nhà quý hóa điều tra viên như cũng phát uất lên mà buông ra một câu hỏi đầy tính uyển ngữ: “Thế thì chúng bay bảo tao ngờ cho cụ à?”... thì cụ bị quá tải: “... tự nhiên như có cái gì nó giật nhổm ông cụ ngồi dậy. Cụ hỏi dồn: “Cái gì? Cái gì? Thế nào? Thế nào?”....” Chỉ chờ có thế, đấu pháp của người cháu biến hóa kịp thời theo đúng tinh thần kịch bản - "nhũn như con chi chi":

“Ông Tham dịu ngay nét mặt lại, nói:
- Không ạ.
Rồi ông bảo bọn người nhà:
- Cho chúng mày xuống nhà”.


"Bọn người nhà" diễn viên vô tình (đồng thời lại là khán giả) được ông Tham ra lệnh rút khỏi sân khấu nhà trên, để đạo diễn nghiệp dư này chuyển lớp (scène): cho nhân vật ông cậu xuất hiện, ông Tham biết trước phản ứng dữ dội của ông già khái tính nếu đám gia nhân chứng kiến cảnh tượng đó nhiều nghi ngờ thắc mắc ắt xuất hiện trong đầu óc họ; và như thế sẽ không ảnh hưởng được tâm lý của họ; sẽ rách việc, thậm chí vở kịch - ảo thuật có thể bị lộ tẩy.

Than ôi! cụ già tình nghĩa cũ kỹ đâu phải là đối thủ xứng đáng của ông cháu tân nhân vật. Thêm một vài thao tác tâm lý nữa của ông Tham; nếu có ai chứng kiến sẽ thấy cụ đã tự đưa mình vào tình huống có vẻ "không khảo mà xưng": “Chính anh nghi cho tôi”, để rồi ông Tham có cơ hội chụp ngay lấy câu nói đó mà vỗ tuột được tội vu oan giá họa: “Tự ông đổ cho ông đấy”... Tiếp theo, ngòi bút “tả chân tuyệt khéo” (Vũ Ngọc Phan) của tác giả Mất cái ví như vẽ ra trước mắt người đọc những hành động, cử chỉ đầy vẻ bi hài của cụ già thực thà khí khái bị lăng nhục:

“Nói đoạn, ông cụ chạy đến mắc áo, giật cái áo trắng dài và cái áo the xuống rồi rũ rõ kỹ. Rồi cởi tuột cái áo cộc ra, lộn các túi. Xong rồi, lại tháo cả thắt lưng đưa cho ông Tham xem. Giá có tiện, có lẽ cụ cũng tụt phăng cả cái quần ra nốt, cho cháu tin rằng tất cả trong mình không dấu diếm cái ví vào chỗ nào cả. Nhưng cụ cũng cứ lấy hai tay, nắn bóp khắp hai đùi thật kỹ, từ trên xuống dưới”. Chứng tỏ xong với chủ nhà phẩm chất lương thiện của mình, cụ thề: “Tao thề rằng từ nay tao không họ hàng gì với vợ chồng mày nữa!”. “Nói đoạn, ông cụ hầm hầm cắp ô đi” và “cút thẳng”.

“Ông Tham ung dung tủm tỉm cười”; cười vì kịch bản của ông đã được trình diễn đến phút hạ màn với hiệu quả mĩ mãn; cười để tự tán thưởng cách hành động “ba que”; cười vì người cậu ruột đầy tinh thần tự trọng “từ nay” sẽ kệch đến chết (cụ đã thề rồi) không bao giờ còn bén mảng thăm hỏi gia đình ông, khiến vợ chồng ông “Tốn kém lắm!...” - khó tích lũy, không khá giả được - ông tham tá chủ nhà đã thắng. Đó là sự thắng thế của “bản chất sinh vật” (“chó”) và hành động “ba que” (“đểu”) đối với tình nghĩa (ăn ở theo đạo lý làm người) và lương tâm (sống lương thiện, tôn trọng khế ước cộng đồng) trong một xã hội mà nhà văn hiện thực phê phán Vũ Trọng Phụng đã khái quát như tác giả Mất cái ví là: “cuộc đời chó đểu”.

Tương tự nhiều truyện ngắn khác của mình, ở Mất cái ví, Nguyễn Công Hoan khắc họa tính cách nhân vật cũng như dẫn chuyện một cách "khách quan" cho đối tượng miêu tả và sự việc tự nói lên ý nghĩa của nó, chứ ít khi xen vào những lời thuyết minh, bình phẩm vô bổ thiếu nghệ thuật. Khi sáng tạo nhân vật; ta thấy với "con mắt tinh đời", Nguyễn Công Hoan như đã "đi guốc vào bụng" thiên hạ qua những biểu hiện bên ngoài tưởng chừng không tải của họ: một câu nói lấp lửng, một cử chỉ vu vơ, thậm chí dại dột... - Hình tượng nhân vật ông Tham khó quên trong Mất cái ví quả có khả năng lột mặt nạ được nhiều kẻ ăn ở thất đức đối với người thân. Đó cũng là một trong những biểu hiện tài năng bẩm sinh của tác giả - một nhà văn nhạy cảm về tâm lý người đời và vốn sống phong phú, một nhà văn có trí nhớ tốt và giàu tưởng tượng.

Giọng kể “có duyên” (như nhiều người thừa nhận) tương tự phần lớn truyện ngắn của tác giả, kết hợp với thủ pháp "do thiển nhập thâm" (đi từ nông đến sâu, từ nhẹ đến nặng...) khiến đoản thiên Mất cái ví tăng thêm sức hấp dẫn người đọc.

Về các phương diện hư cấu cốt truyện, kết cấu diễn biến nội dung, sử dụng hình thái ngôn ngữ..., thì cũng giống hàng trăm truyện ngắn khác của ông, Mất cái ví đậm đà chất kịch:

- Cốt truyện chứa đựng một tình huống mâu thuẫn xung đột, với “động tác duy nhất”(4)
- Kết cấu gồm 3 phần: khai đề, khúc thắt và giải đề.
- Hình thái ngôn ngữ: có nhiều câu thoại giữa các nhân vật (những câu thoại gần gũi ngôn ngữ kịch: vừa cá tính hóa nhân vật, vừa có công năng động tác hóa nội dung: thoại làm bùng nổ tình tiết, thúc đẩy vụ việc diễn biến).


Tính kịch trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan còn mang thêm màu sắc truyện tiếu lâm Việt Nam: phần giải đề (dénouement) thường chứa đựng thủ pháp đột biến (coup de théâtre) có khả năng làm bật ra tiếng cười lớn để hạ màn câu chuyện - Nguyễn Công Hoan rất quan tâm đến ngôn ngữ hạ màn (coup de rideau) kiểu này: “Viết truyện không khác gì đánh cá bằng lờ ở chỗ nước chảy. Người đánh cá cắm dăng chăng lưới, rồi gõ cạch cạch. Tất cả những việc ấy đều quy vào một mục đích là lừa cá, cho nó chui tọt qua cái hom. (...) Câu kết truyện của tôi là cái lờ. Nó thường làm cho độc giả đột ngột, cũng như đến chỗ hẹp, nước chảy mạnh, thì cá bất thình lình bị đẩy tuột vào hom” (ĐVVCT, tr. 294) - các nhà nghiên cứu phê bình văn học cũng đã khẳng định sự thành công của cái "tiếng nói nghệ thuật" ấy: “Một trong những thủ thuật hóm hỉnh nhất của nhà văn là dùng những chi tiết đánh lạc hướng độc giả khỏi cái đích thực sự của câu chuyện. Người đọc càng bị lạc xa bao nhiêu thì khi truyện kết thúc, càng bị bất ngờ bấy nhiêu. Đây là chỗ mà nhà trào phúng có thể nghĩ ra đủ thứ “cạm bẫy” thú vị” (Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn, tư tưởng và phong cách, tr. 129).

Trong truyện ngắn Mất cái ví, độc giả hẳn đã bắt gặp sự tình “đột ngột” mà cười to lên (dẫu là cười cay đắng) khi đọc đến đoạn hạ màn đột biến:
“- Tôi vờ thế, chứ ví đây này, có mất đếch đâu!
Vừa nói, ông móc trong túi quần, quẳng cái ví đánh bẹt xuống mặt phản. Bà Tham trố mắt nhìn chồng:
- Rõ khéo khỉ, thế có phải là ông giận không?
- Mợ không hiểu. Tôi chỉ cốt làm thế để bận sau ông đừng ra chơi nữa. Tốn kém lắm!...”


Đáng tiếc là trong Mất cái ví, về thủ pháp nghệ thuật sở trường của tác giả hằng tâm đắc và nhiều cây bút nghiên cứu từng tán thưởng này; lại còn sót một hạt sạn không nhỏ. Thông thường trong truyệnkịch, thủ pháp đột biến được đi kèm (trước nó) với thủ pháp báo trước (có tính phục bút). Báo trước thì phải mơ hồ lấp lửng để độc giả (và khán giả) dự đoán đến nhiều khả năng diễn biến, kết thúc. Trong truyện ngắn Mất cái ví, tác giả không làm như vậy. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã trực tiếp miêu tả nội tâm ông bà Tham khi điều tra đám gia nhân là: “Ông Tham, bà Tham thấy chúng nó quả quyết, cũng không biết xử trí ra sao. Nhưng vẫn không sao bỏ được lòng ngờ”. Với tư cách tác giả, người dẫn chuyện một tác phẩm hư cấu (nghĩa là người nắm được mọi chuyện, thấu hiểu nội tâm mọi nhân vật), thì qua mấy câu ấy, tác giả mặc nhiên đã khẳng định chắc chắn với người đọc rằng: ông Tham không phải là thủ phạm ăn cắp cái ví (người viết giới thiệu rõ ràng: ông Tham “không sao bỏ được lòng ngờ” đám gia nhân). Độc giả tin tưởng theo tác giả. Nhưng đến khi kết thúc câu chuyện, tác giả lại trình bày sự thật rằng: chính ông Tham tự ăn cắp ví của mình. Sự tiền hậu bất nhất ấy trong quá trình giới thiệu nhân vật và dắt dẫn câu chuyện biến thành một kiểu đánh lừa người đọc, chứ không phải đã sử dụng thủ pháp đột biến theo lôgich tất yếu. Hạn chế nghệ thuật này trong Mất cái ví phải chăng là do có lúc Nguyễn Công Hoan đã viết “ẩu” - như về sau ông cũng thừa nhận trong hồi ký: “Tối tối, tôi vừa viết tiểu thuyết vừa chầu rìa tổ tôm, hoặc đánh vật lá ba tam cúc. Có hôm, tôi vừa viết, vừa rút bất. Kể lại việc này, tôi cũng thấy là tôi ẩu” -, và nói chung là “do vô tâm với nghề”: “Chưa bao giờ tôi ước mong một ngày kia, lớn lên cũng làm thơ, làm văn” (ĐVVCT, tr. 69)...

Về một số phương diện mà nói, truyện ngắn Mất cái ví có thể xem như tác phẩm tiêu biểu cho toàn bộ sáng tác của Nguyễn Công Hoan - mặt đặc sắc cũng như hạn chế.

V.T. (TCSH54/03&4-1993)

---------------------------
(1) Đời viết văn của tôi, tr. 103 - Nguyễn Công Hoan (Nxb Văn học, 1971).
(2) Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại, quyển tư, tập hạ, tr. 45-46, NXB Tân dân, 1945).
(3) Nguyễn Đăng Mạnh - Đọc lại truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, in trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách, tr. 121 (NXB Văn học, 1983).
(4) Nguyễn Công Hoan rất quan tâm đến nghệ thuật “lập ý” duy nhất trong đoản thiên tiểu thuyết - Ông kể chuyện cũ: “Khi viết một truyện ngắn, tôi chỉ nêu một ý thôi, hoặc ngược lại, mỗi một ý chỉ được tôi dùng để viết một truyện” (ĐVVCT, tr. 307); kinh nghiệm này về sau được đúc kết thành lý luận sáng tác trong cuốn Hỏi chuyện các nhà văn: “... mỗi truyện cần có một ý, một ý thôi. Ý ấy là ý chính của truyện, nhưng thực ra nó là ý định của tác giả viết để làm gì” (tr. 176).





Xem:
Giảng văn Văn học Việt Nam (tái bản lần thứ sáu) -
Phần ba: Văn học hiện đại -
I - Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng Tháng Tám 1945 -
Bài 11: Mất cái ví - Văn Tâm

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

GIỚI THIỆU SÁCH - “Nhớ gì ghi nấy” của Nhà văn Nguyễn Công Hoan - Ký ức về Hà Nội đầu thế kỷ XX


GIỚI THIỆU SÁCH
“Nhớ gì ghi nấy” của Nhà văn Nguyễn Công Hoan
- Ký ức về Hà Nội đầu thế kỷ XX

Phòng Địa chí


Nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903-1977), quê ở làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Ông là người đặt viên gạch đầu tiên xây nền móng cho dòng văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam. Hơn nửa thế kỷ cầm bút ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam hơn 300 truyện ngắn, hơn 20 tiểu thuyết và nhiều ông trình nghiên cứu văn học có giá trị. Nhiều tác phẩm và truyện ngắn của ông đã được chuyển thể sang sân khấu và điện ảnh. Ông là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên. Năm 1996 ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học.

Trong những bản thảo của nhà văn để lại, có một tập 7 quyển vở nhỏ ghi chép từ năm 1970 cho tới trước ghi mất về những điều trải qua, tai nghe mắt thấy trong đời lên tới 600 đoạn ghi chép. Lần in năm 1978, nhà xuất bản Tác phẩm mới chỉ chọn in một số đoạn trong tập bản thảo của nhà văn lấy tên “Nhớ và ghi” gồm 132 trang. Theo Nhà xuất bản, những điều ghi chép của ông chia làm 3 loại:
1. Những việc xảy ra trong đại gia đình mà nhà văn có lẽ muốn cho con cháu biết.
2. Một số nhân vật (những tên Tây thực dân, quan lại, địa chủ, tư sản mại
bản) mà tác giả nghe biết và ghi lại.
3. Những điều tai nghe mắt thấy phần nhiều vào đầu thế kỷ này khi nhà văn đương tuổi thanh niên. Đó là những ghi chép về Hà Nội, những nơi nhà văn đã ở, làm việc và đi qua.

​Năm 1993, nhà xuất bản Hà Nội chọn tiếp những đoạn chưa công bố và xếp những sự việc theo một mạch trong những tiêu đề mà nhà xuất bản đặt tên, để giúp bạn đọc dễ theo dõi như: Vua quan ta Toàn quyền tây; Những chí sĩ yêu nước; Nghề làm sách báo; Buôn bán kinh doanh; Phố phường kẻ chợ. Lần in này gồm 173 trang mang tên “Nhớ về một thưở (Nhớ gì ghi nấy)”.

​Năm 1998, Nhà xuất bản Hội Nhà văn in bản đầy đủ tập bản thảo với độ dày 770 trang và mang tên “Nhớ gì ghi nấy”.

​Ngoài ra, Nhà xuất bản Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 chọn những trang viết ông dành riêng để nhớ về Hà Nội xưa cũ vào những thập niên đầu của thế kỷ XX với tên sách “Nhớ và ghi về Hà Nội” gồm 263 trang.

Qua những trang sách, có thể nhận thấy sự hồn nhiên, tinh nghịch, phá vỡ quy tắc của cậu học sinh trường Bưởi Hà Nội khi chưa đầy mười tuổi.

Mặt khác, từ nhỏ, Nguyễn Công Hoan đã quen với nhân tình thế thái người phường phố, thành thạo sự đời, và chả coi cái gì làm quan trọng. Thành thử, tuy không bao giờ phải trực tiếp đả động tới chuyện Hà Nội, nhưng trong cái nhìn của ông, chất Hà Nội rất rõ. Toàn bộ đời sống của Hà Nội thời nửa thuộc địa nửa phong kiến đã hiện lên rõ nét: các phương tiện giao thông đương thời; các trường học; nghề in, các nhà in và tình hình xuất bản; nghề ảnh; các rạp hát và chiếu phim; các hội; chuyện buôn bán; chuyện cô đầu…

Số lượng các nhân vật được đề cập đến trong tác phẩm là khá lớn từ Toàn quyền Pháp đến vua quan ta, những tay tư sản Pháp hay tư sản người Việt, các chủ nhà in, các nhà văn, nhà thơ đương thời, các nghệ sĩ… cho đến thằng ăn cắp, người đi đòi nợ thuê.

Nhà văn dành một số trang để nói về doanh nhân Bạch Thái Bưởi, luật sư Phan Văn Trường, dịch tả ở Hà Nội hè năm 1914, chuyện năm 1918 đường Cổ Ngư (Thanh niên) vẫn thắp đèn dầu hỏa, nạn vỡ đê Gia Lâm các năm từ 1924 đến 1926, tên một số đường phố thời người Pháp cai trị, hội Khai Trí Tiến Đức, hiệu mũ Hai Chinh, trang phục thời kỳ này… Qua tác phẩm, bạn đọc biết rạp chiếu bóng đầu tiên của Hà Nội là rạp ở phố Hàng Quạt. Rồi đến rạp Pathé Frères ở miếng đất sát đền Bà Kiệu, sau đó là rạp Palace ở Tràng Tiền giá vé đắt hơn vì sang hơn. Vở kịch nói đầu tiên của Việt Nam "Chén thuốc độc" do Vũ Đình Long, chủ nhà in, nhà xuất bản Tân Dân và nhiều tờ báo có tiếng ở Hà Nội lúc bấy giờ viết và đăng trên tạp chí "Hữu thanh" năm 1921. Hồi Nguyễn Công Hoan còn đi học, phố Hàng Giấy còn là phố cô đầu, các cô đầu sau mới chuyển xuống phố Khâm Thiên. Phố Phùng Hưng, nhà số 25 chuyên cho thuê nhà làm đám cưới những đôi vợ chồng mà chồng người quê vợ người Hà Nội, chuyện nghĩa trang Hợp Thiện… Chuyện về Hà Nội của tác giả trong tác phẩm còn rất nhiều và không thể kể hết trong khuôn khổ một bài giới thiệu.

Những bản in mà chúng tôi giới thiệu ở trên hiện đang có tại:
Thư viện Hà Nội
- 47 Bà Triệu, Hoàn Kiếm
- 2B Quang Trung, Hà Đông

Xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc.

Tài liệu tham khảo:
1. Nhà văn Việt Nam hôm nay với Hà Nội: Kể chuyện đời sống văn học / Vương Trí Nhàn. - H.: Nxb. Hà Nội, 1986. -177tr.; 19cm
2. Nhà văn Việt Nam hiện đại. - H.: Hội nhà văn, 1997. - 809tr ; 25cm



Không gian đô thị và cảm quan hiện thực trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan


Không gian đô thị và cảm quan hiện thực trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan

Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trường Cao đẳng Hải Dương



Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

Không chỉ là “cái lò gạch cũ”!


Không chỉ là “cái lò gạch cũ”!

Nguyễn Thanh Tú


Nam Cao đưa đến bản thảo “Cái lò gạch cũ”, nhà xuất bản bèn đổi tên, có thể còn có một lý do sau: nhà văn Nguyễn Công Hoan trước đó vừa cho in một truyện “đình đám” có tên “Cái lò gạch bí mật”. Hẳn nhiên có lý vì dù thế nào cái tiêu đề tác phẩm na ná nhau, nhất là lúc bấy giờ Nam Cao chưa có tên tuổi gì, trong khi đó tác giả Nguyễn Công Hoan đã rất ấn tượng với độc giả!

Với phong cách trào phúng đặc sắc, nhất là một cách kể rất “hóm”, truyện “Cái lò gạch bí mật” ra đời là một cách nhại truyện trinh thám đang được ưa chuộng như một “mốt” thời thượng lúc bấy giờ. Nhân vật chính tên Trinh (cũng là lối nhại “trinh thám”) vì đọc quá nhiều truyện điều tra mà mắc bệnh hoang tưởng, nhìn cái gì cũng ra “hình sự” cả.

Hôm ấy “điều tra” một vụ “giết người” Trinh yêu cầu ba người bạn nữa, trong đó có “tôi” – người kể chuyện, đi “thi hành công vụ”. Theo hiệu lệnh của Trinh, đang đêm họ bí mật đi ra cánh đồng rồi cả bốn trèo lên bốn góc cái lò gạch cũ. Đây là cái nhìn và suy nghĩ của “tôi” trước khi “bắt quả tang”, một vụ án, theo Trinh là vụ “giết người ghê gớm”, có thể nổi tiếng nhất nhì xứ Bắc Kỳ về độ nguy hiểm:
“Trông bốn thằng chồm chỗm, đen ngòm, ngồi trên bốn góc thành tường cũng đen ngòm, tôi nghĩ ngay đến cái xe đám ma. Mà cũng may, nghĩ vậy, tôi tự nhiên thấy phấn chấn trong lòng. Vì nếu cảnh này giống cái xe đám ma thì sao chả có một cái xác chết. Cái xác chết ấy bao giờ cũng ở giữa xe. Thế vị chi là thằng giết người chốc nữa nó chui vào giữa lò. Thế thì nó chết. Chúng tôi sống!”…
“Nó” chui vào thật! “Nó” loay hoay. “Nó” ngồi xuống. Chưa thấy hiệu lệnh… Chắc là Trinh, “trưởng toán điều tra” muốn “cất mẻ vó” to hơn! Nhưng rồi “nó” đứng dậy. “Nó” ra cửa lò. Một hiệu lệnh vang lên… Hẳn nhiên là tên “giết người” đã chạy mất vì các “điều tra viên” không “chuyên nghiệp” lại không “ăn khớp” với nhau. Cả bốn chỉ còn “nước” tìm “tang vật”. Rồi cũng tìm thấy:
“Theo ngón tay trỏ, ngọn đèn bấm của Trinh to ra một tia lửa sáng như ban ngày. Tang vật đó to bằng vành khăn đàn bà, cuộn khoanh lù lù trên mặt đất thành một bãi, đầu hình búp măng, màu vàng, mà đích là có hơi ngạt…!!!”…
Vì là truyện “nhại” nên nó phải tìm đến phương tiện cái tục để gây cười, để châm biếm, mỉa mai. Ai cũng hiểu cái “tang vật” kia là gì… Bạn đọc được mẻ cười. Còn các nhà văn “trinh thám” thì được bữa… tím mặt…

Cái lò gạch ấy nay đi vào dĩ vãng rồi. Nhưng chỉ chừng hai ba chục năm trở về trước thì vẫn thấy hiện hữu ở nhiều nơi, thường là vùng đồng bằng, giữa cánh đồng lúa. Vì nơi đó mới có đất sét để làm gạch, phơi gạch, khi đốt không ảnh hưởng đến dân cư…

Đó là những lò gạch thủ công được xây kín, thường có một cửa ra vào để đưa gạch, bên trên có mái che. Thế là những lò gạch cũ thành địa điểm “lý tưởng” để người ta cần làm những việc “kín đáo”. Kết truyện “Chí Phèo” là chi tiết Thị Nở “thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua…” để dành cho bạn đọc “liên tưởng”: Thị lại sẽ ra nơi ấy rồi đẻ một “Chí Phèo con”… Cái vòng luẩn quẩn lại tiếp diễn nếu người ta không thay đổi được hoàn toàn cái môi trường tha hóa phi nhân tính của chủ nghĩa thực dân nửa phong kiến kia!

Cái lò gạch tất nhiên để sản xuất gạch, ở đây là loại gạch đỏ xây dựng, quen thuộc với bất cứ người dân nào trong thời buổi đô thị hóa đang diễn ra chóng mặt. Loại gạch này được làm từ đất sét nung. Theo lịch sử ngành xây dựng thì gạch đã được loài người sử dụng khoảng 7.500 năm trước Công nguyên, dành cho các công trình xây dựng có tuổi thọ hàng ngàn năm. Đất sét được đào lên, tưới nước, nhồi (giáo) nhuyễn rồi đưa vào khuôn thành viên (gạch mộc) phơi thật khô rồi xếp vào lò. Ngày trước nhiên liệu để đốt là củi, rơm rạ, sau là than đá trộn với bùn. Lò được đốt liên tục hàng tuần liền cho đến khi gạch “chín”, chuyển sang màu đỏ hoặc nâu sẫm. Lò được tắt đến khi nguội thì dỡ gạch, dỡ sớm gạch dễ vỡ vì giòn. Là nguyên liệu chính để xây nhà nên thời hiện đại viên gạch được chuyển nghĩa sang tu từ ẩn dụ ví người nào đó có công lao hoặc công việc gì đó quan trọng mang tính tiền đề, tiên phong thì được gọi là “một viên gạch đặt nền móng”…
Một cái lò gạch cũ!


Là một chứng nhân văn hóa “biết nói” bền bỉ với thời gian, xem viên gạch nhà khoa học khảo cổ sẽ hình dung ra được phần nào “bộ mặt” của thời đó!

Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (tập 32, số 1S, 2016) có đăng bài báo “Về vấn đề tồn tại của quốc gia Đại Cồ Việt thế kỷ X-XI” của nhà nghiên cứu Nga Polyakov Alexey Borisovich (Đại học Tổng hợp quốc gia Matxcova). Căn cứ vào chứng cứ khảo cổ học tại Hoa Lư, thủ đô của các triều Đinh, Tiền Lê, Hậu Lý là các viên gạch “có màu đỏ, độ nung cao, nhiều viên có chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây thành quân đội nước Đại Việt – NTT) được in nổi vào gạch ướt sau khi đóng khuôn… Kích thước 30cm X 16cm X 4cm… được xác định là gạch của thời Đinh”. Dựa trên căn cứ này bài báo rút ra kết luận quan trọng: quốc hiệu Đại Việt đã có từ thế kỷ X. Vấn đề còn đợi sự thẩm định của giới sử học, từ góc nhìn văn hóa, bài viết chỉ xin khẳng định mỗi viên gạch càng xa trong quá khứ càng là những mã văn hóa rất quý giá.

Không chỉ là hòn đất nung mà mỗi viên gạch có khi giá trị tương đương với vàng (tính theo trọng lượng). Đấy là trường hợp “gạch vàng” để lát nền ở Tử Cấm Thành. Thậm chí giới nghiên cứu khoa học xây dựng còn cho rằng gạch lát sàn trong Tử Cấm Thành có giá trị hơn vàng bởi để có loại gạch này cần đến 720 ngày, qua nhiều công đoạn cực kỳ phức tạp, tinh vi. Được làm từ lò gạch ở làng Lục Mộ (Tô Châu) vì đất ở đây chất lượng đặc biệt tốt, có điểm kỳ lạ đặc trưng là âm thanh phát ra khi gõ vào gạch giống như âm thanh phát ra khi gõ vào vàng hay đá quý. Thế nên gọi là “kim chuyên” (gạch vàng).
Tử Cấm Thành - cung điện xa hoa xây bằng "gạch vàng"!


Riêng công đoạn xử lý đất phải đủ 7 quy trình: đào, vận chuyển, phơi khô, đập đất, nhào trộn, mài và sàng. Đất được loại bỏ “tạp chất”, loại bỏ hết bọt khí, cho vào khuôn đã tạo sẵn, phơi khô trong 7 tháng liên tiếp rồi mới nung. Dùng rơm rạ và trấu để loại bỏ hết hơi ẩm trong đất rồi dùng củi đốt tiếp một tháng, sau cùng, dùng cành thông đốt tiếp 40 ngày. Gạch ra lò có bề mặt sáng bóng, trơn nhẵn, có khả năng thấm nước cao nên mùa hè rất mát, tạo cảm giác dễ chịu, thoải mái. Nếu đặt hoa quả trên nền gạch này sẽ tươi rất lâu, ăn sẽ ngon và mát hơn…

Trên bề mặt những viên gạch ấy luôn được khắc dấu của phủ Tô Châu và ghi rõ niên hiệu của từng thời kỳ như Vĩnh Lạc, Chính Đức, Càn Long!

Văn hóa kiến trúc đền đài Việt Nam góp với thế giới kỳ quan Tháp Chăm có từ thế kỷ XI – XII. Ngoài độ điêu luyện về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, sự hài hoà trong tiếp biến phong cách nghệ thuật Chămpa và Khmer, sự độc đáo của chất liệu xây dựng là những viên gạch Chăm kỳ lạ. Cũng làm từ đất sét nhưng bí ẩn đến mức ngày nay vẫn chưa rõ đó gạch mộc hay gạch nung. Chỉ biết ngoài đất sét còn biểu hiện của sự gia thêm vỏ trấu, vỏ sò, vỏ ốc…

Tại sao có vỏ trấu? Vì khi nung (nếu có) thì vỏ trấu cháy đi để lại những lỗ rỗng, dễ thoát nước nhưng vẫn đủ độ chắc. Nếu là gạch nung thì các công đoạn như thế nào để có những viên gạch thật sự quý hơn vàng này vẫn còn là những câu hỏi. Tìm ra dấu vết của những “lò gạch cũ” là việc rất cần thiết. Nhưng người ta đã khảo sát, khảo cổ dưới mặt đất, trong văn bản cổ xưa, trong truyền thuyết dân gian… vẫn chưa tìm ra manh mối. Cũng chỉ biết trong những viên gạch Chăm có nhiều bã thực vật và thành phần silic cao hơn gạch thông thường ngày nay. Rất đặc biệt là những viên gạch bị rơi ngoài cấu trúc của tháp, dù không còn nằm trong cơ chế rút nước tổng thể nhưng do cấu tạo đặc biệt nên không bị mục.

Đã rất nhiều nhà nghiên cứu đầu ngành trên thế giới ở các chuyên ngành xây dựng, kiến trúc, vật liệu… từ cổ điển đến hiện đại cũng chưa trả lời được những viên gạch tháp Chăm dán chặt vào nhau theo cơ chế gì vì giữa chúng không có mạch vôi vữa. Thậm chí có một phỏng đoán người xưa xếp gạch mộc thành hình như tháp hiện nay, xây một cái lò gạch khổng lồ bao quanh rồi… đốt theo quy trình đặc biệt. Sau đó phá bỏ cái vỏ lò để giữ lại cái lõi!!!

Còn biết bao những giả thuyết khác. Còn bạn, xin mời có ý kiến!?

Nguyễn Thanh Tú





Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2024

80 năm truyện ngắn 'Thịt người chết'!


80 năm truyện ngắn 'Thịt người chết'!

Bùi Hoàng Tám


Hiện trường vụ tai nạn khiến em Y. tử vong
(Ảnh: Phạm Diện/Báo Thanh niên)


Dư luận tuần qua dậy sóng xung quanh câu chuyện một cháu bé 12 tuổi đi xe máy cán qua dây cáp quang bị trượt té, đúng lúc bị một xe tải chạy cùng chiều va chạm dẫn đến tử vong.
Sau đó, người thân của em đã liên tục xin đi xin lại các loại giấy tờ xác nhận của cơ quan công an, bệnh viện… nhằm làm thủ tục chứng tử cho nạn nhân. Thế nhưng 11 ngày sau (7/12 - 18/12), gia đình vẫn bị cán bộ phường Tân Phước Khánh (TX Tân Uyên, Bình Dương) từ chối. Lý do, "giấy tờ làm tầm bậy, tầm bạ", "công an xác nhận nội dung không đúng".

Cứ tưởng “quá tam ba bận”, nhưng ở đây thì đến lần thứ tư, sau khi lo đầy đủ giấy tờ theo yêu cầu đến cho cán bộ phụ trách, người thân của nạn nhân xấu số vẫn tay trắng đi về.

Thậm chí đến sáng 19/12, khi phóng viên tìm đến để tìm hiểu vụ việc thì ông Chủ tịch UBND phường này vẫn khẳng định cán bộ của phường làm đúng theo quy định. Phóng viên phải dẫn quy định pháp luật ra thì lãnh đạo phường mới thừa nhận cấp dưới của mình "thiếu sót" và mong được "thông cảm".

Khi thông tin được đăng tải, nhiều ý kiến cho rằng nguyên do gia đình em bị gây khó khăn, người chết 12 ngày không xin được giấy chứng tử để đem đi chôn là bởi thiếu cái thủ tục… “đầu tiên”.

Những ý kiến này, làm nhớ lại một truyện ngắn của nhà văn trào phúng xuất sắc Nguyễn Công Hoan cách đây hơn 80 năm (1938) có tên “Thịt người chết”.

Truyện kể về anh nông dân có tên là Xích vì “vô học, ngu dốt” nên đã không biết chọn cho mình cách chết và giờ chết.

Xích chết một cách đầy “bí ẩn” ở chính cái ao sen nhà mình mùa hoa nở sau một bữa nhậu say lúy túy ở sân đình và vào ngày thứ 7.

Thế là cả một đám quan lại từ hương lý, chánh tổng đến quan phụ mẫu trên phủ huyện bu quanh cái xác ấy như một lũ kền kền.

Đau đớn thay, cái xác chết ấy cứ ngày một trương phềnh lên, tỏa mùi nồng nặc trong sự lăn lộn, van xin của gia đình tang quyến.

Câu chuyện vừa bi hài, vừa cay đắng qua ngòi bút thiên tài của nhà văn Nguyễn Công Hoan đã có đoạn kết, ông Cửu (bố Xích) bằng lòng khấn quan bảy mươi đồng mới được đem xác con đi chôn:
“Và một giờ sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngơ. Chúng nó biết đâu rằng quan huyện tư pháp đã tranh mất món mồi ngon của chúng”.
Hi vọng rằng câu chuyện của 80 năm trước không tái hiện ở Tân Phước Khánh.

Bùi Hoàng Tám



Thứ Ba, 18 tháng 6, 2024

Nghề làm báo - thủa ban đầu


Nghề làm báo - thủa ban đầu

Vương Trí Nhàn blog


Về mặt số lượng mà xét, giờ đây không mấy ai còn phải tỏ ý phàn nàn: Báo ở ta đang ra nhiều đến mức cả những bạn đọc có nhiều thời giờ cũng than phiền là không sức đâu đọc hết. Thế nhưng cái sự đã như là thừa ấy một phần cũng lại là do chất lượng. Giả sử thế giới có một bảng xếp hạng, hẳn có thể đoán là tay nghề của các nhà báo ở ta, cũng như bóng đá mà hàng ngày chúng ta vẫn xem, chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn.

Điều này hoàn toàn là có thể hiểu được nếu biết rằng nghề báo mới chỉ du nhập vào xã hội VN từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XIX sau đó trở thành một hoạt động bình thường trong xã hội từ nửa đầu thế kỷ XX, và ngay từ thời ấy nhiều người làm nghề đã tỏ ý chưa thoả mãn với trình độ của các đồng nghiệp. Trở lại với nghề làm báo thời tiền chiến có lẽ cũng là một dịp tốt để chúng ta nhận chân trình độ báo chí hôm nay.

Dẫu rằng nghề làm báo vốn từ Tây phương truyền sang, song những người đứng ra viết báo đầu tiên lại ở xứ ta (rõ nhất là ở Hà Nội) lại là các cụ đồ nho biết chữ Tàu. Nói gì thì nói các cụ cũng có một căn bản văn hoá nào đó. Chữ quốc ngữ lại dễ học với mọi người. Các cụ tìm thấy trong việc làm báo một điều kiện tốt để thực hiện cái chí đã hấp thụ từ đạo thánh hiền “nhất ngôn khả dĩ hưng bang”, nói nôm na như con người ngày nay tức báo chí có thể là một công cụ tốt để đóng góp cho xã hội và trước tiên là giáo dục quần chúng.

Bên cạnh những tờ báo do chính quyền thuộc địa lập ra thì báo chí Việt Nam ban đầu chủ yếu đã là báo chí tư nhân hoặc mang danh những hội ái hữu nọ kia nhưng thực chất là do tư nhân thao túng. Người đứng ra xin phép mở toà báo không chỉ muốn làm một công vịệc có tính cách khai hoá (tên một tờ báo do Bạch Thái Bưởi chủ trương), mà còn muốn xem báo chí là một cơ quan kinh doanh có lãi. Trong hoàn cảnh ấy, họ giữ tư cách những ông chủ, còn ký giả thì là kẻ làm thuê. “Chủ báo quan niệm rằng ký giả là người làm công, ngày hai buổi đến toà soạn để viết xã luận đưa tin tức trám cho đầy các cột báo”. Đấy là ghi nhận của Hoàng Tích Chu, một người có công lớn trong việc hiện đại hoá báo chí. Nguyễn Công Hoan trong Đời viết văn của tôi kể lại một chuyện khá vui:

Những người thực thi việc làm báo cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Tiếp tục cái ý bảo họ là kẻ làm thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi, Hoàng Tích Chu nói thêm “Những người làm công nói trên tìm ở đâu ra? Đa số là những nho sĩ nghèo và dốt, những người kiến thức nông cạn nhưng muốn loè thiên hạ với những câu văn hoa bóng bảy”. Câu khái quát xanh rờn ấy, như chúng ta nói bây giờ, có cái cơ sở thực tế của nó. Bởi sự thực là người có gan sang tận Pháp để học nghề như ký giả họ Hoàng, số đó đếm chưa đầy năm đầu ngón tay. Còn lại toàn vừa làm vừa học, đại khái trông vào các tờ báo viết bằng tiếng Pháp mà học theo. Tin thế giới thì dịch theo bản tin yết ở nhà bưu điện. Tin trong nước toàn việc vặt nào là quan chức thuyên chuyển, vợ chồng đánh ghen, toà án xử rượu lậu... Bên cạnh những tin tức hổ lốn ấy là những bài thơ phú cuối mùa đặc giọng thù tạc hoặc những bài xã luận đại cà sa, không ai muốn đọc.

Để hình dung ra công việc hàng ngày của một người làm báo, không gì bằng đọc lại các hồi ký viết về Tản Đà lúc làm An nam tạp chí. Tạp chí lay lắt chết đi sống lại mấy lần. Mà ngay lúc đang sống nó cũng ốm rề ốm rệt. Toà soạn chỉ có một mình Tản Đà, ông vừa viết bài vừa đi nhà in vừa thu tiền bán báo. Mà lại rất thích tiếp khách. Gặp người tương đắc, ông có thể sai mấy cậu nhỏ đi mua đồ nhắm về khề khà chén rượu nói chuyện với khách hàng buổi. Cái cảm giác về thời gian đang trôi - điều cần nhất với nhà báo - thì Tản Đà chẳng coi ra gì. Chẳng bao lâu đã tới cái ngày Xuân Diệu về sau còn nhớ mãi: ở Quy Nhơn tác giả Thơ thơ mỏi mắt trông đợi mà mãi chẳng thấy báo ra và càng ngóng càng thấy vô vọng. An nam tạp chí cũng yểu mệnh như người chủ trì của nó vậy.
Hình ảnh nhà báo trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Trong khi hướng cặp mắt quan sát người đời tác giả Bước đường cùng không quên dừng lại ở giới báo chí. Ông có hai thiên truyện khá sắc sảo đó là Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báoÔng chủ báo chẳng bằng lòng.

Truyện trên tố cáo cái lý do mỹ miều mà nhiều nhà giàu đương thời xông vào làm báo, đó là tính hiếu danh. Chẳng những không quan tâm tới sứ mệnh của ngòi bút mà cả đến cái thực chất của báo chí họ cũng không hiểu gì cả. Ngày họ đảm đương cái chức danh chủ báo là ngày họ nhận ra mình bị lừa: Bài vở kém cỏi, người viết xoàng xĩnh, báo ế. Cách duy nhất để họ thoát ra khỏi cảnh phá sản là đi lừa những anh háo danh và kém hiểu biết như mình hôm qua để thay mình chèo lái.

Còn truyện dưới thì tố cáo cái mánh khoé xoay tiền của giới làm báo. Họ sẵn sảng đánh quả tù mù đưa tin theo lối nhỏ giọt bôi ra trong nhiều số, cốt để câu khách. Ai không làm thế bị coi như tay nghề kém cỏi.

Trong khi công kích bọn người lừa đảo mọi kẻ giàu sang phú quý đang phất lên, một số ký giả lại biến thành một kẻ làm tiền, lo bán được báo với bất cứ giá nào, chứ chẳng có gì gọi là tâm huyết với trách nhiệm cả.


Và trong một mẩu chuyện vui của Vũ Trọng Phụng

Trong các tiểu thuyết của nhà văn này như Giông tố, Vỡ đê... người ta đã loáng thoáng nhận ra hình ảnh của kẻ làm báo với sứ mệnh điều tra sự thật từ đó đóng góp vào việc làm sáng rõ hình ảnh một xã hội vốn nhiều bóng tối. Song là một ngòi bút hoài nghi, Vũ Trọng Phụng không quên đặt một dấu hỏi khá to trước tư cách người làm nghề viết báo đương thời. Sao mày không vỡ nắp ơi là tên một bài viết trên báo Loa 1934 (mới được sưu tầm và in lại trong tập Vẽ nhọ bôi hề in ra năm 2000). Để nói về tài đổi trắng thay đen của người cầm bút, họ Vũ dùng bút pháp thậm xưng kể chuyện một nhà báo kiếm ăn quanh một người chết. Ban đầu anh ta dựng chuyện người kia bị bức tử để tống tiền. Không được anh ta đánh bài chuồn bằng cách kể rằng hồn người chết vừa báo mộng cho biết người ấy tự tử vì một cớ vớ vẩn khác. Mọi chuyện được giải quyết gọn ghẽ tới mức viên tri huyện có liên quan xem xong phải thì thào “Này, sang năm về hưu tôi cũng muốn mở báo. Vậy thế nào ngài cũng về giúp việc cho tôi nhé !”.


Trên cái nền chung của một nghề nghiệp

Trước 1945, trong hoàn cảnh một nước thuộc địa, ở VN đã có đại học, song các trí thức trẻ sau khi học xong mấy trường như trường luật trường thuốc phần nhiều gia nhập vào đội ngũ quan lại hoặc công chức cao cấp lương cao bổng hậu, nhường việc làm văn làm báo cho các loại trí thức lơp dưới. Nhà văn đồng thời là nhà báo Vũ Bằng có lần nhận xét báo chí thời ông là một thứ nghề không thày không trường, cốt biết học lỏm bắt chước là được. Thành thử, nếu như số phận của những người làm nghề ở đây có phần giống với số phận những người làm ở các ngành nghề thủ công như làm tranh dân gian, thêu ren, in ấn, làm đồ gốm, hoặc các đèo kép trong mấy gánh hát rong... thì cũng là chuyện tự nhiên. Còn cần cho mọi người thì còn tồn tại. Rât nhiều người có tài có năng khiếu. Song nhìn chung thì vẫn là cách làm cách nghĩ manh mún luộm thuộm và không ai đủ khả năng đưa nghề nghiệp lên mức hoàn thiện của một ngành công nghiệp hiện đại như người ta vẫn thấy ở các nước phát triển.


Vương Trí Nhàn blog





Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2024

Nghĩ về những người giầu ở Việt Nam hôm nay


Nghĩ về những đại gia hôm nay

Vương Trí Nhàn
Nhân bài viết Cọp, gấu và đại gia

TT - Một người ăn mày trong cơn đói phải tranh ăn với con chó của một gã nhà giàu, lỡ tay đánh gãy hai chiếc răng của con chó. Gã nhà giàu nọ lên ôtô phóng đuổi theo người ăn mày với ý nghĩ:
- À, mày đánh gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!


Thiên truyện mang tên Răng con chó của nhà tư sản mà tôi vừa tóm tắt được Nguyễn Công Hoan viết đúng 80 năm trước (1929). Thú thật lần đầu đọc lên tôi hơi ngờ ngợ, liệu có người ác, vô lương tâm, coi con chó hơn cả sinh mệnh của đồng loại? Nhưng rồi thực tế cho tôi biết là có một hạng người như thế với cách cư xử như thế. Dân ta gọi họ là trọc phú. Sau khi giàu lên họ coi cuộc đời chỉ còn ý nghĩa ở sự hưởng thụ và càng ngông nghênh thách thức với đời càng thích. Hơn thế nữa - như Nguyễn Công Hoan đã nói trong truyện ngắn trên - đó là những con người càn rỡ, những nhân cách kỳ dị, bề ngoài lên mặt với đời nhưng cuộc sống nội tâm lại cực kỳ nghèo nàn, nhạt nhẽo.

Trên báo chí ta gần đây, hình ảnh những đại gia cũng bắt đầu xuất hiện. Và ta lại thấy ở không ít đại gia hôm nay những nét của đám trọc phú xưa. Đúng là trong các đại gia gần đây không ít người có chất hãnh tiến, khinh thế ngạo vật, trơ tráo tàn nhẫn. Họ gợi lại hình ảnh đám giàu xổi đã thành một bộ phận đáng ghét hằn lên trong tâm lý cộng đồng Việt bao đời nay mà văn học đã ghi nhận.

Song tôi không nghĩ rằng tất cả họ đều là trọc phú.

Thông minh sáng láng, khao khát tự khẳng định, quyết đoán dám làm cả những việc động trời, họ nhiều phen gợi cho tôi niềm kính phục.

Nhiều khi cách sống, cách nghĩ, tư thế khai phá sáng tạo của họ đã đánh thức tinh thần năng động của xã hội và mở ra lối thoát cho những tình thế bế tắc.


Nhiều phen họ đã phải lấy cái xấu để vượt lên sự trì trệ. Cuộc vật lộn hằng ngày quá quyết liệt tước đi gần hết của họ cả những niềm vui hồn nhiên lẫn những giây phút hướng thượng cao đẹp.

Nhìn một cách bao quát, tôi chỉ thấy tiếc. Nếu được sự dắt dẫn của trí tuệ, lẽ ra họ có thể tìm được những định hướng khác. Tài năng và sức lực của họ sẽ được huy động để trở nên có ích hơn cho cộng đồng, và như vậy tên tuổi họ còn có khả năng ở lại với tương lai, với lịch sử, chứ không phải chỉ được truyền tụng kèm theo bao lời chê trách như hiện nay.

Huy Thọ có nhắc tới cách sống và tồn tại của nhiều đại gia nước ngoài Warren Buffett, Bill Gates, Morita Akio (cha đẻ Sony). Tôi đọc trong đây một sự gợi ý để suy nghĩ về lý do đang có quá nhiều mặt hư hỏng ở các đại gia VN hôm nay. Một thời gian dài, đất nước trong thế cô lập, và giá trị duy nhât được đề cao là những gì có ích cho chinh chiến. Luẩn quẩn trong cuộc sống tù đọng, doanh nhân VN, cũng như anh như tôi lúc ấy, tìm cách đánh bóng tên tuổi qua cách chơi trội so với chung quanh, và lấy việc học đòi bắt chước được sự phá phách cuồng loạn của thiên hạ làm niềm tự hào. Hoàn cảnh hôm qua đã quy định cho con người như thế, ta nên hiểu cho nhau. Nhưng trong hoàn cảnh hội nhập , nếu cứ diễn mãi nếp sống của đám chúa đất, và do đó nêu tấm gương xấu cho lớp trẻ, thì đó lại là điều đáng trách, đúng hơn là có tội.

Vương Trí Nhàn


Đã in ở Tuổi Trẻ - 14/09/2009
(có bổ sung thêm đoạn cuối)






Thứ Hai, 3 tháng 6, 2024

Thử bàn về hát bội


Thử bàn về hát bội

Lê Minh Quốc


Tự dưng chiều nay lại nhớ đến ông bạn già - nhà thơ Phạm Thiên Thư. Đã lâu, chừng hơn mươi năm trước đang thất tình thất điên bát đảo, lên bờ xuống ruộng, trần ai khoai củ, tóm lại là đang buồn nên lúc ấy thường vác xác lên nhà ông tìm nơi tâm tình.

Có những lúc ông an ủi bằng cách đưa ra chừng dăm quyển vở học trò chép đầy thơ. “Q đọc đi”. Bèn đọc. Những bài thơ này, ông chép tay như nét chữ học trò. Rõ ràng. Dễ đọc. Gió chiều lồng lộng. Đường vắng. Quán cà phê Hoa Vàng.
“Rằng, xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng nhớ nhau”.
Tên quán là lấy theo câu thơ của chính ông.


Nhớ Phạm Thiên Thư

Thời điểm này, Phạm Thiên Thư đã “lậm” sâu vào phương pháp dưỡng sinh với tên gọi “phathata” do ông sáng lập. Đại khái, ông chủ trương:
“Luôn biết mình dốt
Để gọt tính kiêu
Để yêu như mới
Để cởi mối hiềm
Để thêm tinh tiến”.
Và cũng vì say mê cuồng nhiệt, trung thành với phương châm này, ông đã viết nhiều bài thơ tứ tuyệt. Mỗi lần ghé chơi, ông thường đưa ra cho đọc. Sau đó, dần dà y ít lui tới. Tại sao thế? Đơn giản chỉ vì vết thương lòng đã lành, đã có thể vi vu trăng hoa tình ái với cảm hứng yêu đời dào dạt, yêu người da diết nên y đã… quên béng ông bạn già.

Thế đấy. Có những nơi khi rầu rầu tâm sự, buồn buồn sương khói ta thường tìm đến; ngoặt một cái, lúc giông gió đã qua, biển đã yên, sóng đã lặng, ô hô, ta lại chẳng thèm nhớ đến nữa. Tệ đến thế là cùng.

Chẳng sao. Vẫn còn có cách “sửa sai”, ấy là bằng mọi cách lục lọi lại tập sách Từ điển cười Tiếu liệu pháp của Phạm Thiên Thư - bao gồm những bài thơ mà ngày ấy, y đã từng đọc. Nay, đọc một lèo và cảm thấy khoái! Trên cõi đời, nếu được cười một cách sảng khoái, còn gì thú bằng? Ngược lại, đã cười mà cười gượng gạo đành lòng, cam chịu nhưng tỏ ra vui vẻ thì còn gì là cười?

Sực nhớ, trong một truyện ngắn nọ, nhà văn Nguyễn Công Hoan kể lại có anh chàng dân đen được quan trên cử đi trừ bọn cướp. Với lòng quả cảm, nghĩa hiệp anh ta đã khám phá ra ổ trộm, nhờ đó, làng xóm bình yên. Sự thành công này rực rỡ đến độ cô vợ anh… phải góa chồng. Tất nhiên, quan lớn hứa thưởng công, đền bù công lao xứng đáng cho một người bỏ mạng vì việc làng, việc nước.

Cũng an ủi phần nào, vì sau khi chồng chết gia đình ngày càng túng quẫn, kiệt quệ. Chờ đợi mãi, dăm ba tháng sau, mừng quá chị nhận tờ sức của ông lý trưởng. Mời đi nhận tiền thưởng? Không, mời nhận cái bằng… truy tặng cửu phẩm bá hộ! Ấy là ngậm cười chăng?

Nếu người khác chỉ viết làm dăm ba bài thơ trào phúng để cười cho đỡ buồn, ông Phạm Thiên Thư đã làm hẳn một cuốn sách dày trên 1.000 trang. Nội lực sáng tạo và lao động bền bỉ về cái cười cỡ này, thiệt đáng nể. Thế thì cười là gì?

Để trả lời, chỉ có thể viết luôn một quyển sách, chẳng hạn trước kia, bác sĩ Dương Tấn Tươi có viết quyển Cười (nguyên nhân và thực chất) in năm 1968, dày 370 trang, nay cũng thuộc loại quý hiếm mà chơi sách cũ săn lùng dữ lắm.

Thế nào là cười? Trước mắt, ta hãy lấy định nghĩa ngắn gọn của Việt Nam tự điển do Hội Khai trí tiến đức khởi thảo năm 1931: “Nhách môi, há miệng lộ sự vui vẻ hay ý tứ gì ra”.

Trước đó nữa, Đại Nam quấc âm tự vị (1895) giải thích: “Ấy là cách hả miệng, nhích mép, hoặc có tiếng hoặc không có tiếng, tỏ ra mình vui vẻ hay có ý gì. Cũng có nghĩa là chê bai: Nó cười tôi”.

Có lẽ, “định nghĩa” chuẩn nhất về cười, theo y, thuộc về ông Rabelais - một nhân vật đồ sộ của thời Phục hưng: “Thay vì bàn đến khóc, tốt hơn là viết về cười, vì cười là đặc tính của con người”. Đúng thế, không con vật biết nào biết cười, chỉ có con người.

Tuy nhiên, y biết có một con bò cũng biết cười là khi nó được… xuất hiện trên bao mỳ pho mát Pháp. Hình ảnh ngộ nghĩnh, vui tươi, dễ gây thiện cảm. Con bò đó cười thế nào?

Chắc chắn không phải là kiểu cười mà ông Phạm Thiên Thư đã miêu tả:
“Tức quá gằn lên một tiếng cười
Cười như ngầm dọa: “Biết tay” thôi
Cười ông - có lúc ông cười lại
Cười lại là bay chết bỏ đời!”.
Cười này là cười gằn.


Nhớ qua hát bội

Đã lâu, lâu lắm rồi, có đọc bài thơ tứ tuyệt xưa lắc xưa lơ, xét ra là một lối cười xỏ xiên thâm trầm, ý vị, nay chép lại cho vui. Vui là tốt rồi, được thế đã là may, còn hơn phải chìm đắm trong lo âu sầu não. Bài thơ này của ông thi sĩ Lãng Ba.

Thơ rằng:
“Sân khấu hẹp hòi múa hát vang
Ăn lương bầu gánh sợ ông làng
Làm vua làm tướng chi chi đó
Thì cũng do “nhưng” núp dựa màn”.
Xét về câu chữ, rõ ràng tác giả là người miền Nam. Thử hỏi, câu cuối có từ “nhưng”, vậy nghĩa là gì? Ta bàn sau. Dám nói rằng, ông làng là cách gọi chung về ông tổ hát bội. Nhiều từ điển và sách vở xưa nay đã giải thích rành rành. Liệu chừng có đúng? Không hẳn đâu.

Một khi nói chắc nịch như thế ắt có người cãi. Dứt khoát sẽ cãi lại cho bằng được. Tránh cãi cọ lôi thôi, chi bằng hãy nghe chuyên gia hàng đầu nghiên cứu nghệ thuật hát bội là GS Hoàng Châu Ký giải thích:
“Ông làng là những tượng nhỏ được thờ với các vị tổ trong những gánh hát bội ngày xưa. Trên bàn thờ tổ có một cái tráp gỗ sơn đỏ, có cửa mở đóng, bên trong có mười tượng gỗ nhỏ, đầu bịt khăn đỏ, mình mặc áo lục, là tượng các vị tổ của nghề hát bội. Trước mười tượng này lại có hai tượng khác cũng khăn áo như vậy nhưng đứng hai bên chiếc ngai, đó là hai ông làng hát bội”
(Tự điển nghệ thuật hát bộ Việt Nam, Nguyễn Lộc chủ biên - Nxb KHXH Hà Nội - 1998, tr.448).
Rõ ràng ông làng chỉ được thờ chung chứ không phải ông tổ hát bội. Thế nhưng xưa nay người ta vẫn gọi và xếp chung vào hàng ông tổ, xét ra thiệt… éo le! Mà cũng phải thôi, theo truyền thuyết ông làng vốn là hai hoàng tử trẻ con, hỉ mũi chưa sạch, mặt búng ra sữa, còn ham chơi và cực kỳ mê hát bội.

Một hôm dù đang ốm nhưng cả hai vẫn trốn đi xem hát, núp một chỗ không ai nhìn thấy, bị cảm lạnh rồi chết. Đáng khen là sau đó, hai ông hoàng này luôn phù hộ cho các gánh hát bội nói chung nên từ đó về sau, đào kép đã thờ họ cùng với ông tổ. Từ “ông hoàng”, trải qua năm tháng đã dần dần nói trại thành “ông làng”.

Do còn trẻ con nên hai ông hoàng này… khoái mùi thơm của trái thị, vì lẽ đó, ngày xưa người ta kiêng kỵ đem trái thị vào giàn hát/ rạp hát là vậy, vì rằng, mùi thơm của trái thị khiến hai ông hoàng xao nhãng mà quên giúp đỡ cho đào kép.

Nhân đây xin nói luôn, theo ghi chép của nhà nghiên cứu Thy Hảo Trương Duy Huy về tượng ông làng:
“Thường được đẽo bằng gỗ vông, lớn bằng bắp tay, gặp những tích tuồng có vai người mẹ sinh con, người ta đưa ông làng ra đóng bé sơ sinh, chứ không mượn trẻ con thật đóng tuồng”.
Khi bàn về ông làng, y nhớ đến bài Vịnh hát bội Quảng Nam, nhà thơ Tú Quỳ viết:
“Nhỏ mà không học lớn làm ngang
Trống đánh ba hồi đã thấy quan
Ra rạp ngồi trên ba đứa hiệu
Vào buồng đứng dưới cặp ông làng”.
Về ông làng, ta đã biết, còn “ba đứa hiệu” là quân chạy hiệu, tức lính cầm cờ, sai đâu chạy đó, thuộc hạng lóc cóc leng keng. Sự đời cũng oái oăm thiệt, cũng vì câu thơ “Ra rạp ngồi trên ba đứa hiệu” mà ông Tú Quỳ mang họa vào thân.

Hiệu là tên của anh hùng Nguyễn Duy Hiệu (1847-1887) - lãnh tụ xuất sắc của phong trào Nghĩa Hội chống Pháp ở Quảng Nam. Có giai thoại, ông Hiệu đã sai lính về làng bắt Tú Quỳ lên hỏi tội vì câu thơ xách mé đó, nhưng rồi vì tiếc tài của một người giỏi chữ nên ông tha cho. Về sau, Tú Quỳ còn có dăm ba bài vè, văn tế chế giễu cuộc kháng chiến của nghĩa quân Cần vương.

Nhà “Quảng Nam học” Nguyễn Văn Xuân bình luận:
“Ở thời điểm này, ta chỉ có thể khép Tú Quỳ vào hạng người lạc hậu, bảo thủ và ông đã bị các nhà trí thức tiến bộ thời ấy khinh thường”
(Thơ văn Tú Quỳ - Nxb Văn hóa thông tin - 208, tr.256).
Đây chính là lý do khiến người đương thời không muốn nhắc đến Tú Quỳ nữa, về sau thơ văn của ông mai một dần, nay ít ai biết đến.

Thế thì, vấn đề đặt ra ở đây là gì?

Với người cầm bút, ngoài cái tài/ tài năng còn là quan điểm, thế đứng, cách nhìn, sự lựa chọn, thái độ của họ về thời cuộc, về thời đại họ đang sống. Bằng không, văn chương chữ nghĩa dù tài hoa, dù hay bằng trời đi nữa, có là gì chăng?

Thì đấy, chỉ đơn cử một hai thí dụ, ai dám bảo thơ văn của Tôn Thọ Tường không gấm thêu? Ai dám bảo kiến văn của Lê Tắc không giỏi? Thế nhưng đương thời, thời sau thiên hạ đã nhìn nhận họ bằng cái nhìn thế nào? “Rằng hay thì thật là hay”.

Hóa ra, bản lĩnh sống, tư cách sống, thái độ sống của người cầm bút cũng quan trọng không kém gì tài năng trời cho, đúng không nào? Xét ra, cái nghề sống bằng chữ nghĩa nhọc nhằn và nặng nề lắm.

Một người thợ làm xong cái bàn, cái ghế, cái tủ… sau khi bàn giao hoặc bán đi là xong. Nhẹ nhàng phủi tay. Không phải bận tâm gì nữa. Nhưng người cầm bút lại khác, rất khác. Với những gì đã viết, đã công bố dù một dòng, một chữ dẫu sau này đã chìm sâu dưới ba tấc đất, họ vẫn còn phải chịu trách nhiệm lấy nó.

Hãy quay trở lại với câu thơ của Lãng Ba vừa nêu trên: “Thì cũng do “nhưng” núp dựa màn”. Dám chắc rằng, chẳng mấy ai có thể giải thích được từ “nhưng”. Nó vô nghĩa? Nó sai moras. Nghĩ thế, bèn lật từ điển tra cứu xem sao.

May quá, Đại Nam quấc âm tự vị (1895) giải thích: “Nhưng hát bội: Người thuộc tuồng làm thầy hát bội, thầy tuồng”. Vậy suy ra, “nhưng” cũng là “thầy tuồng”? Liệu chừng có đúng? Không hẳn đâu.

Một khi nói chắc nịch như thế ắt có người cãi. Dứt khoát sẽ cãi lại cho bằng được. Tránh cãi cọ lôi thôi, chi bằng hãy nghe chuyên gia hàng đầu nghiên cứu nghệ thuật hát bội là Tuần Lý Nguyễn Khắc Dụng giải thích:
“Trong gánh hát bội, thầy tuồng là nhân vật quan trọng, cai quản nội bộ. Thầy tuồng là người thông chữ nho, biết đặt tuồng mới, soạn tuồng xưa, tập tuồng, sắp xếp cho có đầu đuôi, thứ lớp. Trong ban hát, ai cũng kính nể ông thầy tuồng”.
Nói nôm na, thầy tuồng chính là soạn giả và kiêm luôn cả đạo diễn.
“Nhân vật thứ hai, kế tiếp thầy tuồng là chú nhưng, chuyên việc nhắc tuồng cho diễn viên còn non nớt. Chú nhưng là một kép già lão luyện, thuộc hầu hết các tuồng thầy”
(Hát bội - Nam Chi tùng thư XB năm 1970 - tr.326).
Rõ ràng, “nhưng” chỉ là người nhắc tuồng.
“Làm vua làm tướng chi chi đó
Thì cũng do “nhưng” núp dựa màn”
. Câu thơ vọng lên tiếng cười xỏ xiên, châm biếm. Đọc xong, khiến ta lại nhớ đến… nghệ thuật chơi múa rối nước. Với con rối, mọi cử động của nó là do người chơi, núp phía sau điều khiển.

Thật ra, thời buổi nào cũng có hạng người cầm bút chẳng khác gì con rối. Chữ nghĩa múa may quay cuồng những tưởng tâm huyết lắm, những tưởng đau đời lắm nhưng chỉ là cái loa phát thanh cho “nhưng” núp dựa màn, giấu mặt ở phía sau. Hạng cầm bút này, gọi là gì?

Y không biết, chỉ biết văn hào Lỗ Tấn gọi loại người thuộc “nhị hoa diện”, nói nôm na là “anh hề nhì”.

Khác với hề kiểu cũ ở chỗ:
“Anh ta là trí thức. Anh ta biết chỗ dựa của mình là núi băng, nhất định không bền lâu, tương lai mình còn phải xu phụ người khác, cho nên được nuôi nấng, chia sẻ oai thừa, anh ta cũng phải giả vờ làm như mình không phải cùng một phường với tên công tử đó”
(Lỗ Tấn tạp văn, bản dịch của Trương Chính - Nxb VHTT - 2003, tr.511-512).
Có bàn luận gì thêm không?

Dạ, đã đủ rồi ạ.

Lê Minh Quốc



Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2024

Thói hư tật xấu người Việt: Khôn lỏi - Ranh vặt - Tinh tướng


Thói hư tật xấu người Việt:
Khôn lỏi - Ranh vặt - Tinh tướng

Vương Trí Nhàn

(Thethaovanhoa.vn) - Một người đã sống qua ở Nhật cho biết người Nhật trong khi giao thiệp, nhất là trong khi làm kinh tế cũng có nhiều quái chiêu không thể thương được. Đầu cơ, móc ngoặc, hối lộ, nói chung là đi đường tắt... trò gì cũng có cả.

Nhiều người trong đám dân đi chào mời tiếp thị (gọi là “mizu shobai”), như có bùa mê thuốc lú, làm cho người ta phải xiêu lòng, rồi sau mới biết mình bị lừa.

Bài viết so sánh: “Cái tinh ma thâm độc của họ khác với cách xảo trá ngô nghê hay dối quanh của người Việt, nên lúc đầu rất khó nhận ra”.

Có chút gì đó vừa “vui” vừa buồn khi nghe nhận xét trên đây. “Vui” vì không phải chỉ người Việt thích lừa lọc nhau, thiên hạ cũng xấu chẳng kém gì ta. Mà buồn vì hóa ra người Việt mình rút cục chỉ biết mẹo vặt, chứ không có cái mưu đồ sâu xa, cái thâm trầm như thiên hạ.

Hơn bù kém, thấy đáng buồn hơn vui. Người bị lừa vừa bật cười vừa bực mình – đến lừa mà cũng vụng dại hớ hênh, thì còn làm được cái gì nên hồn (!).

Người nước ngoài thường nhận xét nói chung người Việt mình thông minh lanh lợi. Nhưng họ cũng thấy ngay sự nhạy cảm nhanh nhẹn trong phản ứng này không dựa trên một sự suy nghĩ chắc chắn mà có gì đó nông nổi vội vã. Trong sự chủ động lại như mang sẵn yếu tố thị động.

Bản thân chúng ta không phải không biết điều đó.

Trong tiếng Việt từ “khôn” không hàm ý sâu sắc trong tư duy và uyên bác trong kiến thức, mà ngã sang một sự tính toán lặt vặt dễ gây phản cảm.

Đó là nghĩa của “khôn” trong những câu tục ngữ “khôn ăn người, dại người ăn”, “khôn văn tế, dại văn bia”, “khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời”, “khôn sống, mống chết”, “khôn nên quan, gan nên giàu”, “khôn ngoan chẳng lọ thật thà – lường thưng tráo đấu chẳng qua đong đầy”…

Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “khôn” là khả năng suy xét để một người tìm ra một cách xử sự có lợi nhất, tránh được những gì có hại đến quyền lợi các mặt của anh ta. Khôn lỏi – ranh ma – láu cá… đều là thực dụng và vụ lợi.

Tuy không dùng đến từ khôn, nhưng câu “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” thật đã thâu tóm đủ cái tài tính toán của người mình và minh họa cho định nghĩa nói trên.

Tồn tại trong suốt lịch sử, công thức này đã thành một thứ “chân lý mặc định”, người Việt dùng nó để “minh triết bảo thân” và việc truyền dạy trong các gia đình được xem là hoàn toàn tự nhiên. Không ai mang nó ra phê phán bao giờ.
Gặp một người hành động theo nguyên tắc đó, chúng ta hoàn toàn thông cảm, trong bụng hiểu rằng ai cũng phải xử sự thế thôi, trông người khôn ta phải học theo để khi khác áp dụng.

Cả trong truyện kể dân gian lẫn trong chính sử, người xưa còn ghi lại nhiều mưu mẹo vặt của người mình trước sứ Tàu. Nguyễn Văn Tố trong Đại Nam dật sử (1944) kể khi tiếp Tống Cảo, Lê Hoàn cho xua trâu bò của dân ra để dọa, gọi là quan ngưu, không đầy một nghìn nói khoe là mười vạn. Đấy là khi cần khoa trương thế lực. Còn nói tới việc khoe trí khôn, hẳn ai cũng nhớ sự tích Trạng Quỳnh thi vẽ: Quỳnh chấm cả mười đầu ngón tay vào mực để vẽ giun.

Về khoản khôn ngoan ranh vặt thì Trạng Quỳnh là cả một tượng đài vĩnh viễn. Trong danh sách những điển hình của tính cách Việt, nhân vật này bao giờ cũng đứng đầu sổ.

Thời xã hội mới bước sang giai đoạn xã hội hóa, Nguyễn Công Hoan được biết tới như một ngòi bút giàu chất An Nam bậc nhất. Người Việt trong các tác phẩm của ông đôi khi cũng ngớ ngẩn, ngờ nghệch, nhưng phổ biến và được ông diễn tả hơn cả là loại láu cá và rất giỏi biến báo trong đối xử. Như viên tri châu nọ, trong truyện sáu mạng người, sau khi bắn nhầm mấy người dân đi hái thuốc, thì vu cho người ta là giặc khách để báo lên quan trên lấy thưởng. Như gã nhà giàu nọ, có ông chú từ quê lên chơi, muốn đuổi, liền kêu ầm lên mất ví để buộc ông ta phải bỏ về sớm. Và như trường hợp cụ Chánh Bá có đôi giày cũ, nhân đi ăn giỗ, bắt thằng nhỏ vứt béng ra sau vườn, để bắt vạ nhà chủ, buộc người ta mua đền đôi giày mới.

Các nhân vật nông dân của Nguyễn Khải loại như Tuy Kiền cũng nổi tiếng là ranh ma. Trong việc tính toán giành lấy một chút lợi riêng, họ ở vào thế yếu. Luôn luôn họ phải che giấu, lẩn tránh và tìm ra mưu mẹo để tự khẳng định. Họ thường hiện ra vừa đáng yêu, vừa đáng ghét.

So với “khôn lỏi, “ranh vặt”, thì “tinh tướng” có nghĩa hơi khác một chút, nó được dùng để chỉ những người không những đã khôn mà còn muốn phô ra để cho người khác biết. Đọc Ngô Tất Tố hẳn ai cũng nhớ mẩu chuyện Làm no hay là cái ăn trong những ngày nước ngập. Cái việc khoe rằng, mình có sáng kiến chế biến đất ra đủ các loại thức ăn chính là dấu hiệu của một lối xử thế tinh tướng, dù ở đây, người ta thấy ghét thì ít mà tội nghiệp nhiều hơn.


(còn tiếp)


Vương Trí Nhàn



Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2024

Không hiểu nổi


Không hiểu nổi

Việt Văn


Bạn vừa đi xa về than thở: đúng là tháng “cô hồn”. Mọi việc hỏng bét cả. Có thứ tưởng như có thể với tay lấy nó dễ dàng, rồi bỏ vào túi mà còn vuột đi trước mũi như trêu ngươi. Rồi bạn tự trách bản thân: xét cho cùng, cũng tại mình. Chả hiểu “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” sao, mà lúc đó dốt như một con bò dốt!...

Nghe bạn kể lại ứng xử lúc đó, quả thật tôi cũng phải ngạc nhiên: xưa nay, đầu bạn “nảy số” nhanh mà sao có lúc ngây ngô con gà gô như thế! Chí ít cũng phải là con bò thông minh chứ!

Cũng như ông anh nhà bên, to như con gấu, vốn phong trần, tính khí ngang tàng như Từ Hải, thế mà có ngày tự nhiên như con cún, hạ mình một cách bạc nhược với một cô nàng bé như cái kẹo mút dở. Nó liên tưởng đến việc cả tuần nay chạy bộ ngoài công viên, tôi luôn bắt gặp một phụ nữ có dáng đi mạnh mẽ, uyển chuyển như một cơn bão, bên cạnh là một ông thấp bé nhẹ cân vừa đi vừa chạy để theo kịp. Nhưng người phụ nữ lại luôn mỉm cười thật dịu dàng như khích lệ người đàn ông cố gắng lên.

Ngẫm lại nhà văn hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan từng có hai truyện ngắn cùng tên “Tôi cũng không hiểu tại làm sao” là minh chứng sinh động về việc nhiều khi con người ta cũng chẳng hiểu nổi mình tại thời điểm đó lại có những thái độ, hành vi khác với bản tính thường ngày như thế. Khi cả hai anh chàng công chức mang tên Sinh và Nghĩa đều là người tự trọng, thẳng thắn mà có lúc phải nói dối hay hạ mình xin lỗi sếp một cách “đê tiện” như sau này họ tự nghĩ lại.

Ông hàng xóm là người trí thức, quen nói nhỏ nhẹ hay bị bà vợ to béo bán thịt lợn ngoài chợ, trấn áp vì bà là chủ gia đình xét về phương diện làm ra nhiều tiền. Nhiều khi, ông muốn “vùng lên” lại sợ tan cửa nát nhà, có lần ông thử nói to nhưng không ngờ, bà vợ gào hẳn lên như muốn xơi tái ông “Cái ngữ ông chỉ làm cách mạng trong gầm giường thôi”.

Sáng ra, ông ngồi cà phê mà buồn thỉu, buồn thiu, đành lôi hai câu thơ của nhà thơ dân gian Bảo Sinh ra an ủi ông: “Ước gì mình được là mình. Ước xong lại chẳng biết mình là ai”.


Việt Văn



Không hiểu nổi VIỆT VĂN -

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2024

Thói hư tật xấu người Việt: Những cung bậc của cái hèn


Thói hư tật xấu người Việt:
Những cung bậc của cái hèn

Vương Trí Nhàn


(Thethaovanhoa.vn) - Không cần tìm đâu xa, trong các câu truyện cười dân gian, người ta đã bắt gặp vô số chân dung người Việt hèn.

Anh chàng sợ vợ định nói phét thì gặp vợ về. Thầy đồ ăn vụng, thầy đồ liếm mật. Sư mô cũng gian dâm ăn cắp.

Có đến mấy truyện cổ tích, trong đó có vài phú ông tham vàng bỏ ngãi, định gả con gái cho người này rồi thấy người khác giàu hơn lại hèn hạ bội ước. Cho đến cả chàng Thúc Sinh trong Truyện Kiều, trước cảnh Kiều bị vợ cả là Hoạn Thư hành hạ, cũng chỉ đành đóng vai giả câm giả điếc không dám đứng ra bênh vực con người mà từng thề non hẹn biển.

Dân nghèo nên hèn đâu cũng gặp, kẻ giàu hèn rất nhiều, cho đến cả mấy triều vua cũng tiếp nhau hèn một cách thê thảm.

Đó là vào giai đoạn từ đầu thế kỷ 17 trở đi khi Đàng ngoài rơi vào tình cảnh “vua Lê chúa Trịnh”. Vua bị tước quyền, chỉ ngồi làm bù nhìn, mọi công việc do phủ Chúa quyết định. Đến khi có người hỏi sao lại làm thế thì trả lời đại ý như vậy việc nặng nhọc dồn cả sang vai Chúa, mình được chân nhàn nhã, cũng chẳng là may hay sao(!).

Cũng là một thứ lý sự của kẻ hèn.

Ở phương Đông cũng như phương Tây, thật ra người xưa đã khôn ngoan bảo nhau “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, biết sợ kẻ đáng sợ không phải là xấu.

Điều đáng nói ở đây là cái cách chịu thua và biết sợ của người xứ mình. Trong sự hèn ở đây, có thái quá biến thành khiếp nhược; lại có niềm tin rằng không bao giờ bằng người. Trước một việc lẽ ra phải lấy cái chết để tự khẳng định thì người ta vứt bỏ đạo nghĩa, hi sinh danh dự, miễn sao bảo toàn tính mệnh; từ đây sinh ra cả một cách sống lẩn khuất chui nhủi.

Theo Nguyễn Tất Thịnh (Bàn về văn hóa ứng xử của người Việt - 2006), và một số bạn khác, dân mình có một nhu cầu giấu giếm rất lạ. Đánh nhau kiểu hội đồng sau lưng mà không đối mặt đấu trường. Trên diễn đàn thì ngậm miệng, nhưng bàn nát chuyện ngoài quán. Bao nhiêu tinh lực dành cho sự lẩn lách để tồn tại, bởi vậy, ưa những hình thức phi chính thống. Nói năng cởi mở, nhưng phong cách khép kín. Khi nói chuyện không dám nhìn thẳng. Hay nói nước đôi lập lờ. Giữa đám đông hay thì thào liếc ngang, liếc dọc. Nói chung là tâm lý không ổn định, hay thay đổi thất thường.

Tất cả những thói quen tương tự không chỉ cho thấy nhiều người chúng ta là những kẻ yếu, mà lại tố cáo một điều quan trọng khác sự kèn yếu ở đây tước đi ở con người lòng tự trọng, ý chí ngoan cường vượt lên trên tình thế bi đát trước mắt.

Trong nhiều truyện ngắn Tô Hoài viết trước năm 1945, người ta bắt gặp những đôi trai gái yêu nhau, đã thề không lấy được nhau thì chỉ có chết. Kết cục vài tháng sau, trai đi lấy vợ, gái đi lấy chồng bình thản như không, chả ai chịu chết cho thiệt thân.

Nguyễn Công Hoan vốn nổi tiếng với những truyện ngắn gây cười. Song đến Tôi cũng không hiểu tại làm sao (I và II, 1937) giọng ông trầm tĩnh hẳn đi. Truyện thứ nhất kể về một công chức ăn sáng trong giờ làm việc, bị sếp người Pháp bắt quả tang. Anh này lúc đầu cãi cứng, đến khi bị sếp bảo há mồm ra cho xem thì cũng há, để phô ra cả cái vẻ lố bịch khá thương tâm.

Trong truyện thứ hai, một công chức khác (đồng sự của anh trên), đi làm muộn, đặt một con tính cũng sai, chữa mãi không được, xoay ra cáo ốm và xin nghỉ không lương. Chủ thấy thế dọa cho anh thôi việc luôn. Rốt cuộc cái anh công chức hay bướng đó đành xin lỗi chủ, để rồi ra ngoài tâm sự với bạn, không hiểu tại sao mình có những phút đê tiện như thế.

Các nhân vật trong truyện dân gian hèn một cách bẩm sinh. Đến các công chức ở đây, cái hèn của họ vẫn tự nhiên, song bước đầu con người đã nhận thức được tình thế, ít ra đã tự mình đặt câu hỏi tại sao mình lại hèn vậy. Đây là sự vận động trong tâm lý mà chỉ con người hiện đại mới có, nó là cơ sở để người ta trưởng thành dần dần.

Song, ở con người hiện đại, cái hèn còn có một hướng phát triển khác. Nên biết là trong các từ điển Tiếng Việt được soạn nghiêm túc, chẳng hạn từ điển Hoàng Phê, hèn không chỉ có nghĩa là sự nhát yếu, thấp kém, mà còn có nghĩa là cách làm kém bản lĩnh, đến mức đáng khinh, ví dụ cái hèn của một kẻ đánh trộm, cái hèn của một kẻ dùng những mưu kế ít người ngờ đến để đánh bại kẻ mạnh hơn mình. Hèn ở đây là từ phản nghĩa của dũng cảm, đàng hoàng khí phách. Trong tâm lý học, người ta còn nói đến những quá trình tâm lý kỳ lạ khi hai mặt đối lập của cùng một quá trình tâm lý tự nhiên hoán vị cho nhau, ví dụ kẻ tự ti nhút nhát bỗng có lúc tự tin quá đáng, kẻ hèn nhát đến bước đường cùng vụt trở nên liều lĩnh, làm được những việc mà bình thường chỉ người dũng cảm mới làm nổi. Đây là những khía cạnh tâm lý cũng đã thấy ở người Việt hiện đại, có điều còn ít được mưu tả và nghiên cứu.



Vương Trí Nhàn






Thứ Hai, 20 tháng 5, 2024

Giải mã một câu khẩu ngữ


Giải mã một câu khẩu ngữ

Nguyễn Ngọc Tiến


(HNM) - Khi bàn tán về tài nghệ của kẻ cắp, nhiều người hay so sánh
Truyện ngắn "Mất cái ví" của nhà văn Nguyễn Công Hoan đăng trên Báo Nhật Tân số 3 ra ngày 16-3-1933 kể về ông Tham kêu mất cái ví, trong đó có 40 đồng đúng vào hôm cậu ruột ông ở quê ra chơi. Sau khi mắng mỏ và dọa nạt con sen, thằng xe, ông Tham quay ra bảo cậu: "Hôm nay phiên chợ Đồng Xuân, mời cậu lên chơi cho biết chợ". Người cậu xâu chuỗi lời đứa cháu lại và nghĩ bụng: "Nó mời mình lên chợ Đồng Xuân, chắc là nó bảo mình ăn cắp cái ví của nó đây". Như vậy, câu "kẻ cắp chợ Đồng Xuân" có thể do Nguyễn Công Hoan hư cấu nhưng cũng có thể chợ Đồng Xuân có nhiều kẻ cắp thật và nhà văn đưa nó vào tác phẩm. Theo các nhà lý luận và phê bình văn học một thời thì Nguyễn Công Hoan là nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực phê phán, nghĩa là chất liệu cho tác phẩm lấy từ hiện thực thời mà nhà văn đang sống. Như thế chuyện "kẻ cắp chợ Đồng Xuân" là chuyện có thật và họ ăn cắp gì?

Chợ Đồng Xuân ngày nay. Ảnh: Khánh Nguyên


Sau khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp, Ðốc lý Hà Nội là Tirant Gilberts (từ ngày 19-7-1888 đến 7-6-1889) đã ra quyết định mở rộng thành phố bằng việc lấp đoạn sông Tô Lịch từ cửa sông Nhị vào đến chân tường thành cũ. Thay thế chức Đốc lý của Tirant Gilbert là Landes Charles (từ ngày 8-6-1899 đến 15-1-1890), ông này xóa bỏ hai ngôi chợ cũ của Hà Nội vốn họp cạnh đền Bạch Mã và bên Cầu Đông, dồn tất cả về họp ở chợ nhỏ nằm trước cửa đền Huyền Thiên thuộc phường Đồng Xuân và chợ Đồng Xuân ra đời vào cuối năm 1889.

Ban đầu, chợ họp ngoài trời chỗ chợ nhỏ và lan ra cả phố Hàng Khoai, Hàng Gạo. Tuy là chợ hằng ngày nhưng mỗi tháng có một phiên họp vào ngày đầu tháng âm lịch. Chợ phiên đông đúc kẻ mua người bán hơn ngày thường do bà con các vùng ngoại thành mang bán các loại cây giống và súc vật giống như lợn, chó, mèo… Vì số người mua bán quá đông nên chính quyền thành phố cho phép tràn sang khu đất mới lấp. Để bắt tất cả kẻ mua, người bán phải vào chợ và không chiếm đường đi của các phố xung quanh, đồng thời không bỏ sót thuế, chính quyền cho quây xung quanh bằng rào tre với diện tích khoảng 10.000m2. Chợ Đồng Xuân ban đầu không có hàng lối và những người bán cùng một mặt hàng tự ngồi gần nhau để người này không phá giá của người kia. Những người bán hàng vải và tạp hóa sợ mưa chạy không kịp đã tự dựng túp lều bằng phên tre.

Thay thế Đốc lý Defrenel Paul chỉ nắm quyền trong 3 tháng lại là Landes Charles. Thấy thuế chợ Đồng Xuân là nguồn thu lớn nhất cho ngân sách thành phố nên Landes Charles quyết định nâng chợ phiên từ tháng họp 1 lần lên tháng họp 2 lần, đồng thời cho xây lại chợ có mái che. Khung chợ đúc bằng thép từ Pháp mang sang và có 5 bộ kèo, mỗi bộ dài 52m, chiều cao là 19m, mái lợp bằng tôn để che mưa che nắng. Năm 1892, trong kế hoạch xây dựng lại khu vực phố cổ để Hà Nội văn minh hơn, chính quyền thành phố đã cho xây tường mặt cổng ra vào chợ và đến năm 1893 thì xây tường bao xung quanh. Vào chợ có 3 lối, cổng chính là mặt phố Đồng Xuân hiện nay với 3 cửa, cổng bên phố Hàng Khoai và một cổng bên phố Hàng Chiếu. Từ Hàng Chiếu vào phải đi qua một ngõ rất dài mà hiện tại gọi là ngõ Đồng Xuân. Cổng chính của chợ có một phòng rộng cho ban quản lý và một viên cảnh sát gồm toàn người Pháp, hai bên có quầy đổi tiền lẻ cho khách (lúc này Hà Nội tiêu tiền France do Ngân hàng Pháp phát hành cho các nước Đông Dương sử dụng). Đồng Xuân trở thành chợ lớn nhất Bắc kỳ và không chỉ là chợ bán lẻ mà còn là chợ bán buôn cho người các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra về cất hàng. Từ khi có đường tàu điện chạy qua cửa chợ lên Bưởi thì chợ càng đông hơn vì lượng khách thăm thú cũng lắm.
Cuối thế kỷ XIX, hàng hóa ở chợ Đông Xuân không chỉ có các mặt hàng sản xuất trong nước mà còn bán rất nhiều sản phẩm tiêu dùng nhập từ nước ngoài vào, trong đó có táo, lê nhập từ San Fransico (Mỹ), vải từ Anh, hàng tiêu dùng từ Pháp, từ Hồng Công, Thượng Hải (Trung Quốc) nên người ta bắt đầu chia thành từng dãy và quy định cụ thể khu vực này bán hàng gì, khu vực kia bán hàng gì. Thẳng cổng chính vào là dãy bán vải, bên trái là bán hoa quả, kế đó là bán tạp hóa rồi đến các quầy bán thịt, rau, đồ sắt, ăn uống và có cả khu vực dành cho những người xem bói. Trong bài xẩm "Vui nhất là chợ Đồng Xuân", người ta liệt kê ra rất cụ thể chuyện này. Đầu thế kỷ XX, rau quả từ Đà Lạt chuyển ra theo tàu hỏa, su hào, bắp cải từ Sa Pa chuyển về bằng ô tô và nhiều mặt hàng sản xuất từ Sài Gòn chuyển ra như xà phòng Cô Ba, nước hoa, bàn chải, dầu nóng… Người buôn bán được trọng nhất là người bán hoa quả và bán vải. Người buôn trong chợ nể họ vì có nhiều vốn mới buôn được hàng này, không những thế, họ có người giúp việc và phụ bán hàng, chủ chỉ việc thu tiền, tiếp khách và ăn quà vặt. Quản lý chợ cũng tôn trọng vì họ nộp thuế cao nhất. Bán vải đa phần là dân xã Đông Ngạc, sáng ra các bà, các cô đi xe tay xuống chợ, chiều thì ngất ngưởng trên xe tay về làng.

Vì là chợ lớn, lại đầy đủ các mặt hàng nên sáng sáng, đàn bà con gái người Pháp, me Tây, Nhật kiều, Ấn kiều muốn mua sắm cái gì đều phải lên Đồng Xuân. Nhà sang có ô tô đưa đi, tầm khá giả thì đi xe tay và bình bình thì đi tàu điện. Những đối tượng trên khá giả nên kẻ cắp nhắm vào họ? Thực ra không thể lấy được của cánh đàn ông bởi ví của họ đút túi sau quần Âu có khuy cài, lại thêm sợi xích móc vào đỉa quần nên không dễ lấy. Còn các bà đầm cầm ví ở tay và nếu kẻ gian cướp của họ, chỉ cần một tiếng kêu lập tức ban quản lý cho đóng ba cửa chợ và sau đó không lâu thì cảnh sát bốt Hàng Đậu sẽ khám xét cả chợ. Từng có chuyện đó nên kẻ gian không dám liều. Hay kẻ gian ăn cắp của mấy bà bán hàng ở quê ra? Cũng không được, bán được cái gì các bà cho vào túi vải có dây thắt miệng rồi vận vào cạp quần. Vậy kẻ cắp chợ Đồng Xuân ăn cắp cái gì?

Phục vụ những người bán hàng và người mua hàng có hẳn một đội quân bâté (phu chuyên khiêng hàng thuê). Để bảo vệ nhau và giữ độc quyền, họ lập thành phường. Các phường bâté này có một đội trẻ em cả trai lẫn gái dưới 16 tuổi chuyên cắp rổ theo người đi chợ, họ mua cái gì thì bỏ vào rổ của chúng, sau khi mua đủ, chúng sẽ mang ra xe cho họ và nhận tiền boa. Phường bâté này phân biệt với phường bâté kia bằng màu sắc của rổ (sơn đen cả rổ hay nửa đen nửa màu ám khói). Để tranh giành khách, các phường hạ uy tín nhau bằng cách lợi dụng chợ đông, người của phường này thò tay vào rổ của người phường kia đang phục vụ khách lấy trộm và ngược lại. Dù nhiều người đi chợ yêu cầu trẻ cắp rổ theo mình cảnh giác nhưng hàng hóa vẫn bị mất, sự việc diễn ra quá nhiều lần và cảnh sát bốt Hàng Đậu dù bí mật theo dõi cũng không phát hiện được nên người đi chợ nói với nhau: Đúng là kẻ cắp chợ Đông Xuân. Câu nói đó loang ra khắp thành phố và "kẻ cắp chợ Đồng Xuân" như một tiêu chuẩn để chỉ tài nghệ và sự nhanh nhẹn của kẻ cắp.

Trước khi trở thành người giàu có thì Công Tu Nghiệp (người làng Phú Thượng, nay là phường Phú Thượng, quận Tây Hồ) từng là trẻ phụ bán hàng ở quầy vải chợ Đồng Xuân đầu thế kỷ XX. Vợ chồng một người Pháp thấy Nghiệp dễ thương, nhận làm con nuôi và dạy cho nghề nấu ăn rồi từ đó thành đạt và trở thành chủ khách sạn Phú Gia ở 36 phố Hàng Trống trước năm 1954. Lúc còn sống, có người đã hỏi ông về chuyện kẻ cắp chợ Đồng Xuân, ông bảo chỉ có các phường bâté lấy của nhau. Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Hà Nội vào tháng 7-1959, chợ Đồng Xuân không còn là cái "dạ dày" của Hà Nội, các phường bâté cũng bị giải tán, hàng hóa thì lèo tèo, vì thế chợ cũng vắng người...

Sự thể "kẻ cắp chợ Đồng Xuân" chỉ có thế, chẳng có tích nào về chuyện này.


Nguyễn Ngọc Tiến



Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2024

Ngày mỗi phụ thuộc?


Ngày mỗi phụ thuộc?

Vương Trí Nhàn


Không cần là một chuyên gia kinh tế, nhiều người chúng ta cũng biết rằng nền sản xuất và buôn bán của ta phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu hàng nước ngoài. Không chỉ dầu xăng, thép, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh... mà cả nguyên liệu chế biến thức ăn cho gia súc ta cũng phải đi mua. Thời buổi thế giới biến động, nền kinh tế mình như cái phao, biển động nổi gió một tí là dập dềnh theo, thiên hạ vừa hắt hơi một cái là mình đã nước mắt nước mũi giàn dụa.
Nhưng hôm nay tôi muốn nói một khía cạnh khác, một sự phụ thuộc. Giống như một căn bệnh nhẹ, nó có vẻ không mấy đáng ghét, nhưng suy cho cùng vẫn bòn rút sức lực của ta mà ta không biết, lại còn đua nhau vươn cổ cho nó chém nữa. Đó là sự phụ thuộc trong sinh hoạt.

Từ lâu dân Hà Nội đã đồn nhau là mấy khách sạn lớn nhất ở đây thường dùng rau và thịt chuyển từ nước ngoài về, chứ không dùng đồ mua từ các chợ quanh phố như dân bản địa. Mươi năm trước, nghe những chuyện đó, lập tức thấy sao mà họ cầu kỳ và có phần rởm nữa. Sống ở đây mà tách ra như trên một hòn đảo, sao họ lạ vậy? Ai ngờ cái nếp sống đó giờ đây lan ra trong nhiều tầng lớp dân thường, nhất là sau các đợt phát hiện rau quả có phun hóa chất, còn các loại dịch bệnh trên gia súc gia cầm thì hoành hành, cứ chấm dứt được ít lâu lại bùng phát trở lại. Nếu tôi không nhầm thì trong những mặt hàng giảm thuế để tránh lạm phát mới ban hành gần đây, có cả thịt lợn.

Ở đây tôi không dừng lại ở khía cạnh đạo lý của vấn đề mà chỉ vấn vương ở chỗ là hình như chính chúng ta đang không nuôi chúng ta bằng các thứ thổ sản của ông cha; không xài thứ hàng mà chính đồng bào trong nước chúng ta làm ra, mà toàn dùng hàng ngoại. Tại sao tình trạng này ngày một phát triển? Nghĩ tận căn nguyên thấy có hai lý do. Một là hàng ngoại rẻ và tốt. Thứ hai là nhiều khi hàng ngoại đáp ứng được cái nhu cầu sát sườn của mình mà hàng nội không đáp ứng nổi.

Liên quan tới lý do thứ nhất, có một ví dụ tôi nghe từ mấy năm trước thấy rất có ý nghĩa. Là ngay ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh hay Cần Thơ, nhiều người dân đang thích dùng gạo chuyển từ Thái Lan sang. Trời! Giá vài chục năm trước, nghe ai nói thế chúng ta sẽ bảo là chuyện bịa. Làm gì lại ra nông nỗi như thế. Từ Thái sang quá diệu vợi, còn công tàu bè chuyên chở công bốc vác, sao mà rẻ được?! Mà làm gì có chuyện gạo họ ngon hơn, hợp với cái hương vị nồi cơm mà mỗi người chúng mình được thấm từ hồi còn bú mẹ! Hóa ra thời thế thay đổi, việc không ai tưởng là có, nay đều có cả.
Liên quan tới ưu thế của hàng ngoại trong việc đón đường và nắm bắt nhu cầu, sau đây là câu chuyện tôi nghe từ miệng mấy bà bán hàng lặt vặt ở phố chợ Hà Nội (tôi cố ý tránh chữ phố cổ mà thấy gọi là phố chợ có lẽ hợp hơn). Từ lâu người Hà Nội có thói quen là nếu chiến thắng trong các cuộc đua tranh trong thể thao là đổ ra đường ăn mừng. Lúc đó người ta thích mua cờ và các băng khẩu hiệu để trương lên, giá đắt cũng mua. Một số nhà sản xuất Việt Nam cũng biết điều đó, nhưng vốn mỏng không làm được bao nhiêu. Khôn ngoan và biết tổ chức công việc hơn là các nhà sản xuất từ bên kia biên giới. Họ nắm ngay lấy khoảng trống đó. Mỗi lần dân Thủ đô có nhu cầu là hàng từ biên giới phía Bắc tràn về. Rút cục dân buôn mình chỉ thành trung gian bán lẻ cho đồng bào mình thứ hàng mà họ sản xuất.

Không chỉ trong chuyện băng cờ khẩu hiệu mà nhiều mặt hàng khác cũng có tình trạng tương tự. Theo tôi hiểu, đây là cả một xu hướng mà mỗi ngày chúng ta cảm thấy rõ rệt hơn. Mọi dòng nước ngược phản công lại cũng có nhưng không thấm thía gì cả.

Trong Nỗi lòng ai tỏ của Nguyễn Công Hoan, nhân vật chính là một cô gái tân thời. Đang tự nhiên cô suốt ngày thở ngắn than dài bỏ cơm, lên giường thút thít khóc, khiến cho cả nhà phải lo lắng. Cô bảo chỉ có một người bạn gái mới hiểu được cô và giải phiền cho cô. Đến khi người bạn kia tới thì cô nhỏm ngay dậy tâm sự. Sở dĩ cô buổn - buồn - buồn mất mấy ngày, ấy là vì một nhân vật tiểu thuyết cô đang đọc chết, thương quá !

Tôi nghĩ đến những con người thời nay. Chắc hẳn hàng ngày không thiếu cảnh cậu ấm cô chiêu ở các nhà giàu đập chân đập tay hành hạ bố mẹ vì không tìm ra mấy loại xe mới cho họ trưng diện. Nhưng đáng sợ hơn cả những cán bộ bình thường ngủ trưa trên bàn cơ quan và chia nhau suất cơm hộp chục ngàn cũng để hết tâm trí cả vào những Chelsea với lại Real Madrid ở các phương trời xa. Không đủ trình độ phán xét là hay hay dở, tôi chỉ biết cái sự đặt vui buồn trong tay kẻ khác như thế này đang trở thành cách sống thời đại, không ai cưỡng nổi.

Vương Trí Nhàn