Ads 468x60px

.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan




Nguyễn Công Hoan là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam.

Ông sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, Hưng Yên,
mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội.


Các bạn có thể đọc tại đây (lấy trên Internet)
- Các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan,
- Các bài viết về Nguyễn Công Hoan.

Mời xem: Bách Khoa Toàn Thư mở - Wikipedia
♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣


Video: Nhà văn Nguyễn Công Hoan (Thực hiện: Trí Dũng, Ngọc Oanh, Huy Hoàng, Thúy Lành, Thùy Trang, Tuấn Anh - Trang thông tin điện tử Đài Phát thanh & Truyền hình Hưng Yên)

Featured Posts

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2024

Giới thiệu sách " Người ngựa ngựa người"


Giới thiệu sách "Người ngựa ngựa người"

Kim Ngân Châu Thị



Người ngựa ngựa người là một tác phẩm nổi bật của Nguyễn Công Hoan kể về số phận của những người lao động nghèo, thông qua câu chuyện đầy trớ trêu của anh phu xe, tác giả đã chỉ ra những mặt trái của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời.

Không chỉ vậy, câu chuyện còn thể hiện sự đồng cảm, xót thương của nhà văn trước những bất công mà người dân nghèo phải chịu, đồng thời ông cũng thẳng thắn phê phán sự tàn ác của một bộ phận quan lại, quý tộc lúc bấy giờ.







Ai đã “dâm hóa” chiếc áo dài?


Ai đã “dâm hóa” chiếc áo dài?

Song Chi


(Dân trí) - Sự việc ồn ào cả nửa tháng nay, đến bây giờ vẫn chưa thể có hồi kết. Dù Bộ VH-TT&DL đã có kết luận nhưng dư luận vẫn phẫn nộ với bộ ảnh “dâm hóa” chiếc áo dài của hoa hậu Mai Phương Thúy.

Sự việc đã bị thổi phồng, đã bị kéo đi quá xa so với sự thật ban đầu của nó. Lỗi không chỉ thuộc về Mai Phương Thúy. Lỗi đầu tiên (tất nhiên) phải thuộc về… bộ ảnh. Ai bảo có sức hút! Ai bảo đông người xem?! Niềm đam mê của một bộ phận độc giả bây giờ là xem ảnh lộ hàng, ảnh gợi cảm, ảnh “lăn lê bò toài” khoe vòng 1 của các “sao”. Mọi thông tin liên quan đến áo mỏng, lộ hàng… đều có nguy cơ gây nghẽn mạng bởi số lượng độc giả tăng đột biến. Bộ ảnh của hoa hậu Mai Phương Thúy có cả áo mỏng, có cả “lăn lê bò toài” khoe vòng 1, việc gây nghẽn mạng là hoàn toàn có thể tiên liệu. Nếu không đông độc giả, nếu không nhiều người xem, sẽ không bị… thổi phồng câu chuyện.

Lỗi thứ 2 thuộc về… mùa xuân. Ra Tết, nhiều ngành nghề nghỉ ngơi, nhiều “ngôi sao” mải mê đi xem bói, báo chí rơi vào tình trạng hơi bị… đói thông tin. Anh phóng viên mới hối hả ngồi xem đi xem lại bộ ảnh. Với sự nhanh nhạy, sắc bén, anh say mê đặt ra những câu hỏi lớn đầy trăn trở, lớn lao “đây là dáng nằm gì?”, “dáng nằm nay có ý nghĩa gì?” “đây có phải là sự gợi tình? Sự “dâm hóa” áo dài?”....

Bài viết đã gây tiếng vang. Cư dân mạng sôi sục. Tranh cãi quyết liệt, nảy lửa. Từ bức ảnh, người ta hào hứng bàn thêm về đạo đức, nhân phẩm, học thức của Mai Phương Thúy. Từ Mai Phương Thúy, người ta bàn về nhân phẩm của người phụ nữ Việt Nam. Từ người phụ nữ Việt Nam, người ta bàn về quốc hồn dân tộc…! Nhiều bài viết khác liên tiếp được “tung” ra.

Đến lúc này, hoảng sợ quá, hoa hậu Mai Phương Thúy phải viết thư đến các tòa soạn báo ngỏ lời xin lỗi vì đã chụp bộ ảnh kia. Hoa hậu có bày tỏ, bản thân cô và ê-kíp chụp ảnh không bao giờ dám nghĩ đến việc xúc phạm chiếc áo dài, “dâm hóa” chiếc áo dài, hay xúc phạm đến quốc hồn của dân tộc.

Sự bàn tán có vẻ dừng lại một phút nhưng sau đó lại ào lên. Xin lỗi à? Tưởng “dâm hóa” áo dài xong mà xin lỗi là được à?... Hào hứng quá. Đông đảo quá. Nhiều người quan tâm quá. Có người liên hệ với ông trưởng ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu VN (nay đã về hưu) để hỏi ông ấy xem, có nên tước vương miện của Mai Phương Thúy không? Xin lỗi mặc xin lỗi, với tội tày đình như thế, Mai Phương Thúy phải bị tước vương miện!

(Minh họa: Ngọc Diệp)


Người phát ngôn của Bộ Văn hóa- Thể thao- Du lịch cũng được mời vào cuộc. Phát ngôn của ông mang tính cá nhân nhưng đã được giới truyền thông “phù phép” thành phát ngôn của Bộ VHTTDL. Cách viết úp mở khiến dư luận càng trở nên nóng bỏng…!

Trong truyện ngắn “Ông chủ báo chẳng bằng lòng” của nhà văn Nguyễn Công Hoan, ông từng hài hước kể một chuyện, khi thông tin về một ông Tê (đã có vợ) và một bà Ca (đã có chồng) bỗng nhiên mất tích được rất nhiều độc giả quan tâm, tờ báo nọ đã kéo dài nhiều kỳ với câu chuyện ông Tê đã đi đâu? Bà Ca đã đi đâu? Liệu Tê và Ca có đi cùng nhau…? Tờ báo bán chạy suốt nửa tháng với câu chuyện về ông Tê, và Ca. Thậm chí, báo còn mở hẳn chuyên mục- Chuyện Tê Ca.

Cho đến một ngày, anh phóng viên ở Lào Cai của tờ báo chụp được ảnh ông Tê, bà Ca khoác vai nhau đi dạo trong rừng. Tin quý giá, độc đáo khiến cả tờ báo sung sướng. Vào ngày đăng thông tin ông Tê, bà Ca đang vui thú cùng nhau trong rừng, tớ báo đã tăng gấp đôi lượng phát hành, vẫn bán hết sạch.

Nhưng ông chủ báo vẫn chẳng bằng lòng. Ông đi vắng đúng vào ngày phóng viên Lào Cai tìm thấy ông Tê, bà Ca. Ông gọi phóng viên vào mắng té tát, “Tại sao một tin hay như thế mà anh viết gọn lỏn có bấy nhiêu chữ? Tôi mất công nhử mồi độc giả suốt cả nửa tháng nay mà anh giết chết thông tin một cách đơn giản như thế? Tại sao không viết làm nhiều kỳ? Tại sao không thêm bớt vào cho lâm ly bi đát? Tại sao không biết biến ông Tê, bà Ca kia thành những kẻ “gian phu dâm phụ” xấu xa gây tò mò, hấp dẫn với độc giả…?”

Ông chủ báo chê phóng viên Lào Cai kia kém tài.

Ngẫm lại chuyện Tê Ca mới thấy một số nhà báo bây giờ thật tài năng.

Song Chi



https://giaoduc.net.vn/ao-dai-khoe-net-xuan-thi-ai-hon-mai-phuong-thuy-post34688.gd

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2024

Ngựa ô anh khớp…!


Ngựa ô anh khớp…!

Nguyễn Thanh Tú


Ngựa ô hay là ngựa đen, tên Hán Việt là hắc mã chỉ những con ngựa có sắc màu đen chủ đạo, đặc trưng của nó là thân màu đen và đuôi đen, phần dưới tứ chi cũng đều là màu đen, ngọn lông có màu rỉ sét, dưới ánh mặt trời giống màu đỏ pha ánh đen.
Một chú ngựa ô.


Là người Nam bộ hầu như ai cũng thuộc bài dân ca "Lý ngựa ô":
"Ngựa ô anh khớp, anh khớp cái kiệu vàng (ư…)
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen
Búp sen lá dặm, giây cương nhuộm thắm
Cán roi anh bịt đồng thòa...".
"Búp sen lá dặm" không có nghĩa. Đúng ra là "búp sen lá giậm", theo "Đại Nam quốc âm tự vị" của Huỳnh Tịnh Của thì "lá giậm" là "đồ lót hai bên hông ngựa, chính chỗ người ngồi cặp hai vế". Nó phải hình búp sen thì ngồi cưỡi mới chắc chắn.

Giai điệu tươi vui ngộ nghĩnh diễn tả tâm trạng vui phơi phới của chàng trai được cưới vợ. Giai điệu bài hát rộn ràng đi theo nhịp ngựa chạy đón dâu:
"Là đưa ý a đưa nàng, đưa nàng
Anh đưa nàng về dinh
Là đưa ý a đưa nàng, đưa nàng
Anh đưa nàng về dinh...".
Bài hát phổ biến, dân gian hóa đến mức câu "đưa nàng về dinh" trở thành câu cửa miệng của người Nam bộ khi nói về cưới hỏi, hôn nhân...

Lấy cảm hứng từ dân gian mà nhạc sĩ Trần Tiến có "Ngẫu hứng Lý ngựa ô" đầy đam mê, rạo rực:
"Nhớ tiếng vó khớp con ngựa ô
Ngựa ô, ngựa ô ngàn năm vang mãi
Tiếng vó có bao chàng trai về nơi đồng xanh
Ngựa anh đón nàng (ư ư ư ư ư ư ư)
Cho ai yêu thương nhau bên nhau suốt đời".
Chất liệu Rock tươi trẻ càng tăng cường cho bài hát thêm mạnh mẽ, mê say.

Cũng tựa vào dân ca, nhưng lại có cảm hứng ngược lại, "Bài hát ngựa ô lang thang" của nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thạch khai thác chất bi kịch của cuộc đời với chàng trai lỡ tình:
"Lóc ca lóc cóc
con ngựa ô
ô ngựa ô
khớp bạc bông vàng
ai đem câu hát
mơ màng vu quy
ngựa ô
chưa thắng yên vàng
chưa tra khớp bạc
cho nàng về dinh
ngựa anh
mắt lệ hai hàng
ai đem con sáo
bên đàng sang sông
ngựa anh
rơi mất kiệu vàng
xe hoa ai đã
rộn ràng nhà em
ô ngựa ô
hỡi người
em gái quê tôi
sao chê bờ đất
gập ghềnh khó đi...".
Cũng đi theo nhịp ngựa chạy nhưng nhịp điệu lời hát trúc trắc trục trặc, "lóc ca lóc cóc", thật đúng với thất tình!

Ngựa ô hay là ngựa đen, tên Hán Việt là hắc mã chỉ những con ngựa có sắc màu đen chủ đạo, đặc trưng của nó là thân màu đen và đuôi đen, phần dưới tứ chi cũng đều là màu đen, ngọn lông có màu rỉ sét, dưới ánh mặt trời giống màu đỏ pha ánh đen. Miêu tả loại ngựa này đúng, cụ thể, sinh động nhất là nhà văn Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn có tên "Con ngựa già" viết năm 1938, in Báo Phổ thông bán nguyệt san, số 61 ngày 16/6/1940.

Người kể chuyện xưng "tôi", tận mắt chứng kiến, quan sát "bao giờ tôi cũng phải nhìn nó bằng đôi mắt kính phục". Về ngoại hình, tính cách: "Nó cao lớn, trông bề ngoài cũng biết là bất kham"; "Nó dữ, khỏe mạnh và hung hăng lắm". Về sức chạy, thì
"khi con ngựa ô chạy đã xâm xấp mồ hôi, thì nó càng hăng. Nó tế nhanh và dai sức lắm. Có lần nó đã phi ngang xe lửa từ ga Đình Dù đến Phú Thuỵ. Rồi vì tàu phải đỗ ở Phú Thuỵ, nên nó chạy vượt lên. Người bồi nói rằng hôm ấy, hành khách xe lửa, ai cũng phải thò đầu ra cửa để xem cuộc chạy thi của sức máy móc và sức giống vật".
Bằng phong cách trào phúng đẩy đối tượng tăng cấp về hình ảnh, tính chất, con ngựa ô được nhà văn miêu tả thật quý giá:
"Không những con ngựa ấy khỏe mà thôi, nó lại khôn nữa. Ai lại gần nó thì nó hục hặc, cắn đá, nhưng đến ông huyện đứng cạnh, thì nó hiền lành như con bò. Tha hồ ông vuốt ve, thò tay vành răng nó ra, hai tai nó vẫn cứ cúp ra đằng trước một cách ngoan ngoãn. Lính huyện còn ca tụng mãi cái việc nó cứu chủ.

Một đêm, ông huyện cưỡi nó đi tuần. Xảy gặp một toán đông người, có khí giới. Không biết chúng là bọn cướp, hay chúng thù ông huyện, biết ông đến chỗ ấy, nên đón đường định hại. Chúng ồ ra, chặn lối đi. Bị tai nạn bất thần, ông huyện cuống quít. Nhưng con ngựa ô đá vung vít, giải vây được, và cắm đầu tế một mạch về nhà".
Con ngựa ô rất có công với "quan lớn" trong "việc công":
"Lại một lần nữa, trong mùa nước to, lý trưởng làng Lực Điền phi báo ông huyện khúc đê sạt bốn mươi trượng, ông huyện cưỡi con ngựa ô đến chỗ xung yếu thì được độ năm phút, ôtô ông sứ đến. Ông sứ cho là ông huyện chăm chỉ, lấy làm bằng lòng lắm. Giá dùng con ngựa hồng hay bạch, tất ông đến sau ông sứ, và sẽ bị quở trách là lười biếng việc quan"...

Theo truyền thuyết, ngựa vốn "biến hình" từ loài rồng nên loài ngựa ô nào cao to, khỏe mạnh sẽ được gọi là "Ô Long" hoặc "Hắc Long". Có hai loại, loại ngựa ô quạ sắc lông đen mun ngời ánh xanh như lông chim quạ; loại ngựa thông có sắc lông xanh lục đen ánh xám bạc rất hiếm quý, thời xưa rất được các vị vua cả Việt Nam, Trung Hoa ưa chuộng.

Trong "Liêu trai chí dị", Bồ Tùng Linh tả con ngựa Nhàn Lương Thông (trong truyện "Ngũ Thông Thần") được cả vua trên dương gian lẫn dưới âm phủ quý hơn vàng ngọc vì nó rất khôn và tình nghĩa với chủ. Ở nước ta, Hoàng đế Duệ Tông (1337- 1377) có con tuấn mã Nê Thông được nhà vua sử dụng khi thân chinh đi đánh phạt quân Chiêm Thành. "Nê" dùng để chỉ ngựa có hai màu lông trắng đen, còn "thông" là ngựa có sắc lông ánh xanh. Đây là hai sắc lông hiếm gặp. Nê thông là sự kết hợp những nét ưu trội ở cả hai dạng ngựa kể trên.

Loại Ô Truy còn đặc biệt hơn vì là loại ngựa chiến lông đen tuyền, to lớn, rất khỏe mạnh, dũng mãnh. Trong "Sử ký", Tư Mã Thiên kể về Ô Truy của Tây Sở Bá vương Hạng Vũ: "Hạng Vũ còn có một con ngựa quý tên là Ô Truy (một loại ngựa lông có hai màu xanh trắng) và người thiếp yêu tên Ngu Cơ được Hạng Vũ vô cùng yêu quý. Đây là hai vật quý, hai thứ được Hạng Vũ xem trọng nhất đời". Vẫn theo "Sử ký", khi bị đối phương vây, Ô Truy xông vào trận địa cùng 28 kỵ binh khác phá vòng vây. Bại trận, Hạng Vũ đã dùng kiếm tự sát bên bờ Ô Giang. Ngựa Ô Truy cũng liền chết theo chủ. Trước khi chết nó hí lên mấy tiếng ai oán đau đớn rồi nhảy xuống sông mất dạng.

Truyền thuyết khác lại kể sau khi thua trận, Hạng Vũ đâm cổ tự sát, con ngựa quanh quẩn bên ông chảy máu mắt, bỏ ăn mà chết. Chính vì vậy, Ô Truy được đánh giá là loại ngựa trung nghĩa sắt son, hết lòng vì chủ. Người đời sau vẫn nhắc về ngựa Ô Truy như một biểu tượng đẹp của lòng trung thành. Trong "Tam quốc diễn nghĩa" Trương Phi cũng cưỡi loại ngựa này có tên là Vương Truy Mã, có nghĩa là con ngựa đi theo hầu Đại Vương.

Quốc gia Macedonia (nay là Cộng hòa Bắc Macedonia) có một thành phố tên Buchephalus là tên một con ngựa ô do chính nhà vua Alexandre đặt để tưởng nhớ con vật có công với đất nước. Theo truyền thuyết, Buchephalus thuộc giống nhân mã không phục tùng bất cứ một ai trừ vua Alexandre. Khi còn là hoàng tử Alexandre thuần hóa con ngựa bằng tình yêu vô bờ. Chàng đưa tay vỗ nhẹ vào cổ và khẽ lái con thần mã hướng về phía mặt trời để nó không còn sợ bóng của chính nó. Cuối cùng chàng chinh phục được con vật dữ tợn và lên ngôi vua để thôn tính khắp cả vùng Trung Đông.

Tranh vẽ Hoàng tử Alexandre thuần hóa thần mã.

Trong một trận chiến ác liệt, Buchephalus bị thương rất nặng, Alexandre định thay ngựa khác nhưng Buchephalus không chịu, đến trước mặt chủ tướng, nó quỳ xuống cho Alexandre lên yên. Với sức tàn còn lại Buchephalus vùng lên hoàn thành sứ mạng đưa Alexandre chiến thắng trước khi trút hơi thở cuối cùng. Nhà vua an táng Buchephalus với tất cả lễ nghi trọng thể cấp quốc gia!

Trong "Tây Sơn ngũ thần mã" (5 con ngựa thần của nhà Tây Sơn) thì một trong số đó là Ô Du của danh tướng Đặng Xuân Phong. Truyền thuyết kể Ô Du có lông đen như gỗ mun, bốn chân thon nhỏ như chân nai, có hình dạng và dáng đi giống như cọp. Ô Du leo núi và vượt qua những ghềnh núi đá nhấp nhô nhưng người cưỡi có cảm giác như đi trên đất phẳng. Trong lần đầu xuất trận, nhờ Ô Du mà Đặng Xuân Phong chiếm được thành Thăng Bình và Điện Bàn, sau đó đuổi giết được hai tướng chúa Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân. Sau khi vua Quang Trung băng hà, Đặng Xuân Phong liền cáo quan về quê rồi bỏ đi nơi khác. Ô Du cũng biệt tích theo...

Theo huyền thoại thì ngựa sắt của Thánh Gióng cũng là ngựa ô vì được đúc bằng chất liệu sắt. Ngựa sắt phun ra lửa mới hợp lý và thật đích đáng cho kẻ xâm lược khi chúng chết như ngả rạ trước hành động phi thường của người anh hùng. Giặc tan Thánh Gióng cưỡi ngựa bay lên trời. Phải là ngựa đen thì mới in rõ hình trên nền mây trắng trời xanh...!

Trở lại vấn đề, tại sao hình tượng ngựa ô với âm thanh lục lạc, tiếng vó cùng đoàn rước dâu... lại gần gũi với văn hóa vùng Nam bộ hơn là ở Bắc bộ? Xin mời bạn cùng tìm hiểu!

Nguyễn Thanh Tú




Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

Thì vin cành quýt cho cam sự đời


Thì vin cành quýt cho cam sự đời

Lê Minh Quốc


Đôi lúc có những chiều, ngồi thừ người và ngước mắt nhìn lên kệ sách. Chầm chậm lướt qua từng tựa sách. Sách dày. Sách mỏng. Tên tuổi quen. Cây bút mới.

Lại nghĩ, nếu ai đó vào thư viện, thống kê lại trong rừng sách ấy, có cả thảy bao nhiêu chữ? Chắc chắn chẳng một ai có thể làm nổi. Ối dào, chữ của các bậc hiền nhân quân tử xưa nay có thể sánh như cát sông Hằng chăng? Có thể lắm.

Trong số hàng triệu hàng tỷ chữ ấy, không một ai có thể hiểu hết tất tần tật ngữ nghĩa của nó. Đôi khi chỉ một chữ/ một từ nhưng dẫu đằng đẵng canh thâu vò đầu bứt tóc, ngày rộng tháng dài nung nấu tâm can, tập trung suy ngẫm, suy nghĩ, suy luận nhưng rồi cuối cùng cũng chào thua. Khó có thể “chốt hạ” dứt khoát. Thí dụ:

Đào tiên đã bén tay phàm
Thì vin cành quýt cho cam sự đời


Xin hỏi, trong câu thơ này, đại thi hào Nguyễn Du đã kể đến bao nhiêu loại trái cây? Khoan vội trả lời, trước hết, ta hãy dừng lại ở từ bén. Dễ ẹc. Bén còn có từ đồng nghĩa là sắc, ông bà ta từng dặn dò: “Dao sắc không bằng chắc đòn kê”; có câu dù không xuất hiện từ sắc nhưng ta vẫn ngầm hiểu nó rất bén như “Dao thợ cạo, áo cô đầu”.

Bén có nhiều nghĩa, chẳng hạn, một người sau khi vào ăn quán nọ, thở dài: “Ối dào, quán xá quái quỷ gì mà chém bén quá”. Ta hiểu, dao sắc là dao bén, bén lẹm là rất bén mà “chém bén quá” lại được hiểu sau khi ăn xong cầm hóa đơn, thực khách choáng váng bởi giá tính tiền cao ngất. Cao đến độ, họ tối tăm mặt mày, chớ hòng dám… bén mảng tới lần nữa.

Do dao bén, chém đâu là đứt đến đó nên còn gọi là “chém đẹp”. Đẹp đến độ, hễ nghe ai nhắc đến quán đó, họ chạy mất dép. Chạy bén gót. Bén lại còn có cách hiểu khác, tùy ngữ cảnh:

Bao giờ cho gạo bén sàng
Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh


Câu ca dao này có 3 từ bén, ta hiểu bén ở đây là gặp, dính, tiếp xúc, chạm vào nhau như từ bén trong câu thơ Kiều: “Đào tiên đã bén tay phàm”. Nhưng “cho nàng bén anh” còn hàm nghĩa bao giờ nàng “phải lòng” anh, là hợp cạ, ưa thích nhau, dính với nhau như “Quen hơi bén tiếng”, “Bén duyên tóc tơ”, “Lửa bén hương lây” là cách nói bóng gió - nhằm ngụ ý về duyên vợ chồng.

Trái nghĩa với bén / sắc bén là cùn, còn hàm nghĩa kém cỏi, vụn vặt. Lý sự cùn là dù đuối lý nhưng vẫn gân cổ cãi chày cãi cối bằng lý lẽ không có căn cứ, chẳng đâu vào đâu, nghe không lọt lỗ tai, nói như người Quảng Nam đó là lối “cãi dóng”. Nghe lạ tai nhỉ? Nói lái, xem sao.

Ngoài cùn, có thêm từ khác là nhụt - còn hàm nghĩa đã giảm bớt nhuệ khí, không còn hăng hái như trước. Ở Quảng Nam không gọi nhụt mà lại gọi lụt hoặc ra còn có từ đùi, đùi nhây là chỉ cấp độ cao hơn, tức con dao ấy đã cùn, đã lụt, đã nhụt nếu muốn sử dụng phải mài lại cho sắc/ bén. Với các từ trái nghĩa này, ta có thể tìm thấy trong tục ngữ như “Chổi cùn rế rách”, “Dao cùn rựa cụt”, “Dao cùn thớt trũng”…

Về câu thơ “Truyện Kiều”, ta thấy có từ quýt: “Thì vin cành quýt”. Quýt từ quất Hán - Việt mà ra, nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ cho biết.

Tuy nhiên, quýt còn là từ mà ngoài Bắc ngày trước dùng để chỉ đứa trẻ giúp việc nhà, tựa như trẻ gái gọi con sen. “Thằng quýt con sen” là cụm từ như dùng để chỉ osin ngày nay. Bởi thế, trong truyện ngắn “Thằng Quýt” (1931), nhà văn Nguyễn Công Hoan viết: “Ông nuôi một thằng đầy tớ rất nhanh nhẩu, khỏe mạnh. Nó bảo từ thuở bé, nó vẫn tên là thằng Quít.

Cái tên xấu xí ấy, nhiều lần ông Dự muốn đổi, để gọi cho đỡ có vẻ giai cấp. Vì ông khoe rất yêu chủ nghĩa bình dân. Nhưng đến tám tháng nay, có lẽ ông chưa có thì giờ nghĩ, nên tên nó vẫn cứ nguyên văn là thằng Quít”.

Không những thế, người ta còn dùng từ gì khác? Bài thơ “Sai thằng Cam” của Ôn Như Nguyễn Gia Thiều, có câu:

Cam chóng ra thăm gốc hải đường,
Hái hoa về để kết làm tràng.
Những cành với nhánh đừng vin nặng,
Mấy đóa còn xanh chớ bẻ quàng.

Ta hiểu là ông chủ nhà sai thằng bé tên Cam? Không, ngoài nghĩa chỉ về trái cây “Chẳng chua cũng thể là cam/ Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây” thì cam còn có: “Nghĩa nữa là tên thông dụng để gọi những đứa ở trai: Thằng cam thằng quýt” (Việt Nam tự điển, 1931).

Tại sao nhằm chỉ trẻ giúp việc nhà lại sử dụng từ quýt, cam với sen? Câu trả lời không dễ dàng. Do cách gọi này, cũng tựa như “Mới: Tiếng thông tục để gọi thằng mõ trong làng” (Việt Nam tự điển, 1931).

Trong truyện ngắn “Nghệ thuật băm thịt gà”, nhà văn Ngô Tất Tố viết: “Mọi người ngồi yên, một ông đàn anh ra lệnh: “Hàng xóm đã đến đông đủ! Thằng Mới đem làm cỗ đi!”. Thì ra cái người đội mâm xôi gà lúc nãy chính là mõ làng”. Rõ ràng, Quýt, Sen, Cam, Mới không phải là tên riêng, chỉ là mặc định về cách gọi của hạng người đó.

Trở lại với câu thơ: “Đào tiên đã bén tay phàm”, có phải do đã có đào / đào tiên nên ở câu nối tiếp, cụ Nguyễn Du mới sử dụng từ quýt và cam - “Thì vin cánh quýt cho cam sự đời” như một cách chơi chữ?

Xưa nay, nhiều nhà nghiên cứu đã tranh luận nát nước nhưng vẫn chưa ai tâm phục khẩu phục ai. Ở đây, xin đưa ra cách giải thích của cụ Hồ Đắc Hàm - Tư nghiệp Quốc tử giám: “Quýt là cụp xuống, cam là thỏa thích. Hai câu này Giám Sinh nghĩ đào quý hóa của tiên ăn mà đã vào tay mình là người phàm trần, thời mình phải vin cành đào mà quýt xuống cho thỏa thích cái sự đời của mình.

Vậy thời tiếng quýt và tiếng cam không phải là hai thứ cây: nhưng mượn tiếng mà dùng trong câu này để đi sóng với tiếng đào cho vui tai dễ nghe, thế cũng là một lối làm văn gọi là bàng thấn” (Kiều truyện giảng giải, Nhà in Đắc Lập - Huế, 1929, tr.65).

Thế nhưng, hiểu “quýt” theo nghĩa “Quýt là cụp xuống”, thú thật, tôi đã tra cứu nhiều từ điển nhưng không thấy ghi nhận. Phải chăng cụ Hồ Đắc Hàm nghĩ “quýt” cũng chính là “vít”, tức kéo xuống như vít cành cây? Còn vin là gì? “Với tay mà kéo, níu: Vin cành cây hái quả. Nghĩa rộng: Dựa vào, níu lấy: Vin vào lẽ mà cãi cho được” (Việt Nam tự điển, 1931). Với cách giải thích này, ta nhớ đến câu tục ngữ như “Bé chẳng vin, cả gẫy cành”; hoặc ca dao như: “Công anh đắp nấm trồng chanh / Chẳng ăn được quả vin cành cho cam”...

Trong tâm thức người Việt, quýt thường đi chung với cam. “Quýt làm cam chịu”, chính là sự vận dụng mối quan hệ này, ta hiểu là hai loại trái cây, không sai, hiểu theo nghĩa bóng khi người này làm việc chớn cháo gì đó nhưng kẻ kia bị vạ. Cái hay của câu này còn nhấn mạnh cả hai cùng thân phận như nhau, tỷ như, “Con mèo xáng vỡ nồi rang / Con chó chạy lại nó mang lấy đòn”.

Cùng là hạng cam quýt, chó mèo thấp cổ bé họng mà chịu với nhau; chúng mày cùng một bè một giuộc, chứ còn ai vào đây nữa? Oan đấy, kêu lên, ai thèm tin? Một câu nói của người xưa, ngụ ý nhiều điều, từ đó, ta có thể nhìn rộng ra vấn đề khác nữa nhưng nói gì thì nói, thân phận nghèo hèn khi gặp chuyện vẫn thiệt thòi hơn cả.

Với từ quýt, thú thật, tôi rất thích từ quấn quýt. Phải đặt nó trong bối cảnh của tình yêu đôi lứa, lúc trăng non hẹn hò tình ái, lúc “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” (Thế Lữ) thì mới thấy dịu vợi vô cùng:

Anh thương em
Thương quấn, thương quýt
Bồng ra gốc mít
Bồng xít gốc chanh
Bồng quanh đám sậy
Bồng bậy vô mui
Bồng lui sau lái
Bồng ngoái trước mũi
Để em nằm xuống đây
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng
Miệng đắng cơm hôi
Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi
Bây giờ em vinh hiển
Mà em nỡ đoạn rời phu thê

Từ “Thương quấn, thương quýt” bật lên tiếng nấc ai oán làm sao. Nếu quấn đã tách khỏi quýt, quýt tách rời với cam thì đời còn gì vui? Sống ở đời, phải là: “Ăn bưởi lại nhớ đến bòng / Ăn cam nhớ quýt, ăn hồng nhớ nhau”. Câu ca dao này, chơi chữ thiệt hay: “Mẹ em khéo đẻ em ra / Đẻ em gốc bưởi cho ta đèo bòng”. Bởi có bưởi nên mới nảy sinh ra cái ý nhắc đến loại trái tương tự là bòng, nhưng ở đây lại là “đèo bòng” hoàn toàn lái sang nghĩa khác.

Không chỉ cam/quýt; bưởi/bòng; còn có cả “đôi bạn cùng tiến” như vả/sung: “Lòng vả cũng như lòng sung”; hoặc chanh/khế, lựu/lê: “Có đâu chanh khế sánh cùng lựu lê” (Lục Vân Tiên). Thú vị thiệt. Nhưng lan man cà kê dê ngỗng, không khéo “Dây cà ra dây muống”, vậy nên ta hãy quay lại với:

Đào tiên đã bén tay phàm
Thì vin cành quýt cho cam sự đời


Vâng, bấy giờ Mã Giám Sinh đang trong hoàn cảnh hoàn toàn chủ động, có quyền tự tung tự tác nhằm “ăn tươi nuốt sống” nàng Kiều, thì cách giải thích của cụ Hồ Đắc Hàm vừa nêu trên xét ra có lý chứ? Tưởng có lý nhưng thật ra lại không, bởi vì “Đào tiên đã bén tay phàm”, đã bén, đã chạm vào tay rồi thì việc gì phải vin/ níu/ kéo cành quýt cho “cụp xuống”?

Trộm nghĩ, hai câu này diễn ra trong ngữ cảnh khi Mã Giám Sinh gặp Kiều, thấy nàng mơn mởn “ngon lành cành đào”, ngon như “đào tiên”. Hắn ta muốn tận hưởng, muốn giở trò làm liều chiếm đoạt nhưng do còn sợ Tú Bà nên ngần ngừ rồi tự nhủ, tự trấn an đó thôi. Lý lẽ hắn ta vin vào đó, cụ Nguyễn Du dùng cụm từ “cành quýt/ vin cành quýt” là thứ tầm thường đối lập với hạng thượng thặng là “đào tiên”.

Nói cách khác, thứ “quýt” đó, chính là lý lẽ: Ta đây cứ sỗ sàng sấn tới mây mưa, vùi hoa dập liễu, bởi “Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa”. Bọn đó gà mờ lắm, không phải tay nào cũng biết đâu là hoa trinh nguyên đầu mùa phơi phới; đâu là hoa thừa, cuối mùa đã lăn lóc thập thành chung chạ. Vậy, sau đó, “tân trang” lại mấy hồi. Dễ thôi, đơn giản chỉ là:

Nước vỏ lựu máu mào gà
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên


Đáng sợ nhất vẫn là mụ Tú Bà - mụ vợ già này mồm mép xoen xoét, mặt dày mày dạn, già đời buôn hương bán phấn mới khiếp. Nhưng cũng không sao, chuyện này vỡ lở ra, bất quá ta đây chỉ “Liều công mất một buổi quỳ mà thôi”.

Nếu dừng ở đây, diễn tả về tâm lý gã lưu manh họ Mã đã hay nhưng Nguyễn Du còn “cao cơ” hơn một bước nữa là đặt vào trong óc hắn ta suy nghĩ: “Vả đây đường sá xa xôi / Mà ta bất động nữa người sinh nghi”. Ta dẫu không làm gì, chỉ “ngủ chay” đi nữa liệu ai tin? Thiên hạ nghi ngờ khối ra đấy.

Với toàn bộ lý lẽ “cành quýt” này, hắn ta ắt chặc lưỡi: Chà, thôi thì… Sự đời nó vốn thế, dẫu thế nào cũng “cam sự đời”. Cam trong ngữ cảnh này, hiểu theo nghĩa “Chịu, đành, xin bằng lòng” (Việt Nam tự điển, 1931). Một khi làm việc gì đó “cho thỏa thích cái sự đời của mình”, sử dụng từ cam là hàm nghĩa “có chơi có chịu thì liệu mà chơi”, ráng chịu, dẫu có thế nào cũng đành lòng chấp nhận.

Vậy, bạn mình ơi, tóm lại ở hai câu thơ trên có cả thảy bao nhiêu loại trái cây? Xin nhường câu trả lời cho bạn.

Lê Minh Quốc



Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

Thư giãn và nghĩ ngợi


Thư giãn và nghĩ ngợi

Lê Minh Quốc


Thư giãn tốt nhất với y, sau lúc cơm trưa xong, nằm dài trên giường và đọc báo. Nhưng phải là tờ báo có đăng thơ. Nhẩn nha đọc vài câu, dù hay, dù dở vẫn cảm thấy như giữa trưa hè oi bức có làn gió mát thổi qua.

Thời buổi này, còn có bao nhiêu tờ báo in thơ? Chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Hiếm hoi lắm. Cũng chẳng sao. Bèn huy động những câu thơ đã từng đọc, vẫn còn nguyên trong trí nhớ.

Chẳng hạn, “Sống mà phải xã giao nhiều/ Mệt hơn phò phạch phải chiều lắm anh”. Thơ Nguyễn Bảo Sinh - một “ca” đặc biệt trong đa số, vô số, hằng hà sa số lớp người làm thơ hiện nay. Nhiều câu thơ đã phổ biến rộng rãi. Có một chút bỡn cợt, tếu táo, tiếu lâm, tiếu ngạo giang hồ pha lẫn một chút triết lý thiền. Độc đáo. Dễ nhớ.

Hãy dừng lại một chút với “phò phạch”.

Này nọ xọ kia

Trước hết, là từ phạch. Đã nhắc đến từ phạch, như một lẽ tự nhiên, lại nhớ đến đoạn thơ Vịnh cái quạt của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
“Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”.
Theo Việt Nam tự điển (1931) do Hội Khai trí Tiến Đức khởi thảo: “Phạch: tiếng động của vật gì rộng bản đập xuống mà phát ra: "Đập cái quạt đánh phạch một cái". Phì phạch thì sao?

Cứ theo Đại từ điển tiếng Việt (1999) giải thích: “Quạt bằng tay một cách chậm rãi, thỉnh thoảng lại đụng quạt xuống giường chiếu hoặc vào vật gì đó: Nóng quá, quạt phì phạch suốt đêm”.

Thử hỏi, có phải phì phạch là “Quạt bằng tay một cách chậm rãi”?

Chậm rãi mà được à. Hãy xem nhà văn Nguyễn Công Hoan miêu tả động tác phì phạch trong truyện ngắn cùng tên: “Bà nằm sấp, chân co, chân duỗi, úp mặt xuống, nhắm mắt sẵn, thỉnh thoảng giục: “Mạnh vào một tí”. Con Đỏ con ngồi thẳng lại như để lấy hết gân sức, để quạt phành phạch vào bà”. Đấy, con Đỏ quạt bằng cách “hết sức hết gân” thì chậm rãi làm sao? Quạt bằng tay một cách chậm rãi, thiết nghĩ chỉ có thể phe phẩy, chứ không là phì phạch.

Cha đẻ của Kép Tư Bền viết tiếp: “Ngồi luôn một chỗ và làm một việc trong lúc đêm khuya thanh vắng lại tối đèn, đố ai mà không chán, không mệt, không buồn ngủ? Bởi thế, con Đỏ con như thấy chiếc quạt và đôi mi mắt nặng trĩu. Nó phe phẩy chậm, chậm dần... chậm dần. Rồi nó ngoẹo đầu, cánh tay lả xuống, không cử động nữa”.

Về cái quạt cầm tay, dám nói Vịnh cái quạt của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương vẫn ấn tượng nhất. Đọc và liên tưởng vẩn vơ, tủm tỉm cười. Ấy mới là cái thú.

Đọc mà thấy rõ mồn một hình ảnh từ các con chữ đã dựng nên những câu thơ lắt léo: “Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc / Rộng hẹp dường nào, cắm một cay”. Xin lưu ý, “cay” chứ không phải “cây”.

Lâu nay, nào riêng gì trí nhớ tồi tàn của y, ngay cả nhiều bậc thức giả cũng nhớ là cây. Thế, cay là gì? Một từ cũ đã từng quen thuộc ở ngoài Bắc, trong Nam ít nghe thấy chăng? “Cay: Cái phần đuôi dao để cắm vào chuôi: Dao lỏng cay” (Việt Nam tự điển - 1931).

Với câu thơ trên, hiểu nôm na là phần đuôi của các nan quạt “mỏng, dày”, xếp “rộng, hẹp” ấy được cắm vào chuôi / cán quạt. Hiểu vậy, có chính xác?

Và phạch chỉ có thế? Xin thưa, còn có thêm nghĩa khác nữa, chẳng hạn Việt Nam từ điển (1971) xuất bản tại miền Nam: "Phạch: Phành, vạch, banh ra". Kỳ lạ chưa? Phạch này một khi đi chung với phò, trở thành phò phạch thì lại hàm nghĩa hoàn toàn khác nhằm chỉ gái ăn sương, nhảy dù - phụ nữ kiếm sống bằng “vốn tự có”.

Dần dà, phạch rơi rụng đi chỉ còn mỗi phò. Không rõ do cơn cớ gì, đã có thời lại xuất hiện từ bò / bò lạc - để chỉ gái mại dâm tự do. Rồi gì nữa?

Theo Nguyễn Bảo Sinh: “Đậm đà bản sắc chân quê / Thanh lâu xóa sạch, ca ve đầy đường”. Cave là vay mượn từ tiếng Pháp cavalière - nhằm chỉ các vũ nữ ở đăng xinh (dancing) vũ trường. Dần dà đã lái qua nghĩa khác.

Mà, hạng phò phạch thời nào cũng có. Nhìn họ bằng cái nhìn thế nào?

Chữ nghĩa buồn muốn khóc

Ông Vũ Ngọc Phan hoàn toàn có lý, rất nhân văn khi phê phán nhà văn Trọng Lang lúc viết Hanoi lầm than (1938), xin lưu ý nhan đề tập phóng sự ghi “Hanoi” chứ không phải “Hà Nội” - một cách ghi địa danh phổ biến thời ấy.

Ông Phan viết: “Có vài chỗ, tôi không đồng ý với tác giả. Đó là những chỗ tác giả bảo mấy gái hồng lâu là “mấy con bọ bùn sống trong đống rác” và dùng mấy chữ “con lợn sề đang cười” để chỉ một gái thanh lâu. Bọn khốn nạn ấy không khác gì súc vật, nhưng những cảnh lầm than của họ có phải tự cái sức hèn mọn của họ gây ra đâu! Họ phải chìm đắm trong cảnh nhơ nhuốc là lỗi ở xã hội.

Trong một xã hội văn minh, có tổ chức, những việc ấy không thể có được. Vậy họ là những người đáng thương hại mà không đáng bỉ”
(Nhà văn hiện đại, 1942). Từ “khốn nạn” ở đoạn này, chỉ có nghĩa là “thương hại”, chứ thời ấy nó chưa hàm nghĩa như nay ta đã hiểu là đáng khinh bỉ.

Vâng, ông Phan nói đúng lắm. Trách họ thế nào, cái lỗi ấy thuộc về xã hội đấy chứ. Duy chỉ có một điều ông Phan “ngây thơ” khi tin rằng, “Trong một xã hội văn minh, có tổ chức, những việc ấy không thể có được”.

Nghe thế, ắt có tranh cãi? Chẳng nên cãi cọ, tranh cãi, tranh luận làm chi, chuyện của y là bàn về chữ nghĩa. “Đọc sách là nói chuyện với những người thành thật nhất của các thế kỷ đã qua” (Descartes).

Lần này, y chọn lấy Từ điển song ngữ Hán - Việt Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, một quyển sách lưu giữ nhiều nhất dấu tích chữ Nôm và tiếng Việt cổ. Đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng thuận về năm ra đời của quyển sách giá trị này, chỉ biết có thể được khắc in trước thế kỷ XV.

Đãng tử con bãi đánh kình làm sang
Con chơi là cái nữ nương
Tuyết nhi con bợm dạo đường hát ngao.

Đánh kình là cãi vã, đánh lộn; hát ngao là hát rong. Tuyết nhi là con bợm nhưng cũng dùng để chỉ con hát, xướng ca, ca nhi, xướng nhi, kỹ nữ… nói nôm na là nghệ sĩ tài tử, nghệ sĩ tự do khoái đàn ca hát xướng, vượt ra ngoài ràng buộc thông thường. Con chơi, con bợm là từ thuở ấy dùng để chỉ phò phạch như nay ta đã hiểu. Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của A. de Rhodes giải thích: “Bợm, con bợm: gái điếm”.

Hiệp tử con bãi
Tuyết nhi là con bợm chơi

Con bãi cũng thuộc hạng như trên. Từ điển Việt-Bồ-La cũng cho biết: “Bải, con bải đĩ bải: Người đàn bà dâm đãng, người đàn bà mãi dâm; Bợm, con bợm: gái điếm”. Nhưng con bãi cũng hàm nghĩa chỉ người hào hiệp, bạt mạng tùy ngữ cảnh.

Con bãi, con bợm đến thời của Đại Nam quấc âm tự vị (1895) ở miền Nam đã mất dấu vết, không còn ghi nhận. Với bợm, chỉ có bợm bãi: “Người xảo quyệt, hay lường gạt”; thằng bãi: “Thường nói về kẻ trộm; đứa có nghề ăn trộm”...

Này, những từ này, có được các văn nhân tài tử đưa vào thơ văn? Muốn trả lời phải có cuộc khảo sát cụ thể từ văn bản, không thể phán bừa. Thiên hạ “ném đá” có ngày. Vì lẽ đó, trước mắt y chỉ dám nói, con tuyết đã xuất hiện trong thơ quốc âm, ít ra là dưới thời Hồng Đức của vua Lê Thánh Tông (1442-1497).
Cụ thể trong bài thơ Tứ thú tương thoại:
“Đêm rượu, ngày rồi họp bốn người
Cùng bày sở thú bảo nhau chơi
Con trâu tớ béo, cơm ngươi trắng
Đon củi ngươi nhiều, cá tớ tươi
Gặp thuở thái bình, người mến mộ
Chứa lòng ưu ái, tớ cùng ngươi
Cắp cầm, con tuyết tình cờ đến
Bỏ nón, lùi chân khặc khặc cười”.

“Cắp cầm” là cầm đàn. Không rõ, “con tuyết” này có liên quan gì đến con Bạch Tuyết trong hát bài chòi hiện nay? Chỉ là sự trùng tên, hay con tuyết của thế kỷ XV đã “biến hóa” ẩn náu trong trò chơi dân gian của Trung Bộ: “Rủ nhau đi đánh bài chòi/ Để con nó khóc đến lòi rún ra”? Xin dành câu trả lời cho các nhà ngôn ngữ học.

Khi tìm về chữ nghĩa, đôi khi cũng nên tự làm khó mình một chút. Rồi lấy cái cớ đó để tiếp tục mày mò, tìm hiểu thêm. Có thế, mới bõ thời gian ngồi suy nghĩ vẩn vơ giữa bộn bề sách vở. Rằng, thế thì, từ bao giờ các từ đã ghi nhận trong Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa dần dần không còn sử dụng trong lời ăn tiếng nói? Nó đã được thay thế bằng từ khác - một từ “chính danh” rõ ràng ràng mà hiện nay vẫn còn sờ sờ ra đó.

Từ gì vậy Q?

Đĩ.

Cái từ thô tục chăng? Thô kệch chăng? Không hề. Bằng chứng là nó đã hiên ngang đi vào thành ngữ, tục ngữ, ca dao, thiên hạ vẫn còn nói oang oang đấy thôi. Chẳng gì ngượng miệng.

Thí dụ, Đĩ có tông không ai trồng nên đĩ; Nhởn nhơ như con đĩ đánh bồng; Làm đĩ chín phương để một phương lấy chồng; Con sâu làm rầu nồi canh/ Một người làm đĩ xấu danh đàn bà; Đĩ lũa được tha, sư già phải ngục; Đĩ dạc lấy chồng quận công, chính tông lấy chồng thợ giác v.v…

Xin giải thích đôi từ khó hiểu, chẳng hạn, đĩ lũa là loại thập thành, sành nghề, thành thục; đĩ dạc là loại xơ xác, tồi tàn, mòn sút, hết nước hết cái, chẳng còn xơ múi gì. Với từ đĩ, ngay cả nhà văn hiện thực phê phán, căm thù xã hội nhố nhăng vào hạng bậc nhất của nền văn học Việt Nam là ông Vũ Trọng Phụng đã đặt tựa sách cực kỳ gây sốc: Làm đĩ.

Không chỉ có thế, đĩ còn hàm nghĩa khác, hoàn toàn không thể hiểu theo nghĩa cave, phò phạch. Việt Nam tự điển (1931) cho biết: “Đĩ: Tiếng thông thường gọi con gái nhỏ, trái với cu: Thằng cu, con đĩ”. Nhưng nào chỉ có thế, đĩ vẫn còn dùng để chỉ người vợ trẻ, nói như ngôn ngữ thời @ là bỉm sữa.

Nhà văn Nam Cao viết: “Chị đĩ Chuột đành dỗ nó: “Thôi nín ngay, bu ăn xong bu xin thầy cho một miếng mà ăn”. Nếu bỉm sữa dùng chỉ cả người chồng trẻ thì đĩ cũng có “chức năng” này chăng? Vâng, tỷ như cha đẻ của Chí Phèo - nhân vật điển hình nổi tiếng nhất văn học Việt Nam viết tiếp: “Nhưng anh đĩ Chuột bảo: “Cho cả nó đi, kẻo nó khóc”.

Những tưởng một khi tìm về chữ nghĩa, ta chỉ tìm thấy lớp vỏ của chữ đã sử dụng, từng sử dụng của một thời. Nào ngờ, qua đó, còn có thấu hiểu hiện thực xã hội thời ấy nữa đấy. Với những câu vừa trích, ta thấy thêm tình tiết gì nữa?

Chính cái nghèo bức bách, túng quẫn đã đẩy người chồng tự kết thúc cuộc đời bằng sợi dây thừng: “Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợi dây thừng lủng lẳng.

Ở ngoài ngõ, mẹ con chị đĩ Chuột vừa kêu khóc vừa van lạy. Bà Huyện nhất định bắt mẻ gạo mới đong để trừ sáu hào chị Chuột vay từ hai tháng trước cho chồng uống thuốc”.

Buồn quá đỗi. Ôi, chữ với nghĩa.

Muốn khóc.

Lê Minh Quốc



Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

Dối có thể chấp nhận, nhưng gian thì không


Dối có thể chấp nhận, nhưng gian thì không

Lê Minh Quốc


PNO - Một đấng mày râu khi thiết lập mối quan hệ trên cơ sở gian trá, gian xảo, gian tặc, gian tà thì không xứng mặt đàn ông. Khi bị phát hiện, nói như ngôn ngữ bình dân của người Nam Bộ, thì chỉ còn có nước “đội quần”.

Về từ gian dối, Đại từ điển tiếng Việt giải thích: “Không thật thà”, tuy nhiên nếu tách riêng thì gian có nghĩa “dối trá, lừa lọc”, còn dối là “nói sai sự thật, không công nhận thực tế nhằm che đậy điều gì”.

Với từ gian dối, có lẽ nhiều người vẫn còn nhớ đến ca từ
“Với đôi ba lần gian dối
Đời vẫn ban cho ngọt bùi”
.

Còn với từ dối, làm sao có thể quên:
“Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay”.


Theo tôi, trong chừng mực nào đó, thì gian dối và dối, tùy ngữ cảnh, có thể chấp nhận được.

Hiểu rành mạch theo nghĩa vừa nêu, nếu có ai đó cắc cớ đem dối/gian/gian dối áp dụng trong… quan hệ tình cảm yêu đương thì thế nào? Thế nào ở đây là xét ở góc độ, có thể chấp nhận người của mình là gian hay dối.

Trả lời câu hỏi này, có nhiều cách lựa chọn của mỗi người. Xin nói luôn cho vuông, đôi lúc tôi nghiến răng chấp nhận dối, chứ quyết không bao giờ ầu ơ ví dầu với gian. Thiết nghĩ sự lựa chọn này, không phải của riêng tôi. Một đấng mày râu khi thiết lập mối quan hệ trên cơ sở gian trá, gian xảo, gian tặc, gian tà thì không xứng mặt đàn ông. Khi bị phát hiện, nói như ngôn ngữ bình dân của người Nam Bộ, thì chỉ còn có nước “đội quần”. Mắng như vậy còn nhẹ.

Hãy nghe tôi kể lại câu chuyện có thật xảy ra vào năm 1929 tại Khám lớn Sài Gòn. Chuyện rằng, năm đó có thầy giáo nọ bị tống vào khám vì tội ngủ với gái ăn sương không trả tiền, mà còn ăn cắp đồ của cô đó nữa.

Các tay anh chị cùng phòng biết chuyện đáng khinh bỉ này, họ xếp vào hạng “xò”, chứ không phải loại “bảnh”, loại “cứng” nên không thèm đánh cho bẩn tay. Họ nghĩ ra cách làm nhục như sau: buộc hắn ta mỗi ngày “quần áo chỉnh tề, đứng nghiêm trang bên lỗ cầu tiêu, vòng tay tâm niệm, rồi sụp xuống lạy ba lạy có nhịp nhàng, lên gối xuống gối đúng lễ. Vừa lạy vừa phải nói ba câu: “Tôi lạy ông cố nội!”. Thế là nhục lắm!

Chuyện này, ông Phan Văn Hùm có kể lại trong hồi ký Ngồi tù Khám lớn (Nhà xuất bản Dân Tộc - 1957, trang 99) lúc “xộ khám” cùng nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Sở dĩ hắn ta bị làm nhục đến cỡ đó vì rằng, làm gì thì làm, gian đâu thì gian, nhưng với phụ nữ thì không thể. Thế đấy! Từ xưa đến nay, hễ ai có toan tính âm mưu gian tà với giới nữ thì không thể chấp nhận.


Mà, trên đời này, loại đàn ông như gã thầy giáo trắc nết kia đâu thiếu, kể cả người đầu ấp tay gối với mình, có kẻ không những dối mà còn gian đến mức oái oăm. Tôi nhớ nhà văn Nguyễn Công Hoan có viết truyện ngắn kể lại tình tiết lúc ông chồng nọ sai vợ đi tết cho sếp. Chuyện này, nghĩ cho cùng cũng “bình thường như cân đường hộp sữa”, thế nhưng cô vợ quyết không chịu. Hắn ta đùng đùng nổi giận.

Cơn cớ tại làm sao cô vợ nhất quyết không chịu vâng lời chồng? Thì đây, cô ấm ức hỏi trong đầm đìa nước mắt: “Thiếu gì cách lễ tết mà cậu phải làm tôi nhục nhã như thế này!”.

Ngài trợn mắt: “Câm ngay! Làm gì mà bô bô cái mồm lên thế. Đồ ngu như lợn. Cái gì thì mua được, chứ cái này mua được à?”. Rồi ngài đứng nhìn chiếc xe kéo vợ đi khuất, mới quay lại, ra dáng yên lòng. Ngài yên lòng vì không phải thẹn với lương tâm mà chắc chắn rằng sẽ được ông ấy khen là biết ơn và tử tế”. Lễ tết bằng cách dâng vợ mình cho sếp thì đó là hạng người gì? Tình huống này, rõ ràng hắn ta đối xử với vợ bằng sự “dối trá, lừa lọc” chứ còn gì nữa!

Nói đi cũng phải nói lại. Không chỉ đàn ông gian với phụ nữ, mà còn ngược lại nữa. Ở đời hiếm gì chuyện, nhưng tôi chẳng dại gì kể ra, không khéo mang tiếng bép xép, nhiều chuyện. Vậy nên xin kể lại mẩu chuyện Oẳn tà roằn cũng của nhà văn Nguyễn Công Hoan cho vui cái sự đời mà cũng có tính khái quát về vấn đề đang bàn.

Rằng, chàng nọ và cô nọ yêu nhau, ngày nọ cô nọ đeo “ba-lô ngược”, chàng hỏi có phải là con của chàng không. Nàng tự ái quát ầm lên: “Tôi con nhà trâm anh, anh cũng con nhà thế phiệt, vì một lời giao ước, nên tôi mới quá chiều anh. Tuy tôi chưa là vợ anh, nhưng cũng như là vợ, nên tôi dốc một lòng chung thủy, thì chữ trinh tôi giữ nguyên cho anh. Nếu bây giờ tôi loan chung phượng chạ thì đây này, tôi sẽ chết như thế này này”.

Ngày nàng khai hoa nở nhụy, ẵm bồng lấy “kết quả tình yêu”, chàng “nhìn kỹ cái tóc, cái mặt, cái mũi con… Rồi giở bọc ra ngắm cả người thằng bé… Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ lui ra, thở một cái rõ dài, nét mặt thất vọng.

Té ra thằng bé con chàng mà nước da lại đen như cái cột nhà cháy! Vậy nó không phải con Rồng cháu Tiên. Nó là giống “Oẳn tà roằn” không biết chống gậy”.


Hỡi các bậc hiền nhân quân tử, trước tình huống cực gian này, quý ngài có chấp nhận được không?

Lê Minh Quốc



Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

Chuyện ít biết về Thái Phỉ - Tổng biên tập báo thiếu nhi đầu tiên của VN


Chuyện ít biết về Thái Phỉ -
Tổng biên tập báo thiếu nhi đầu tiên của VN

Kiều Mai Sơn


Nhà nghiên cứu Lê Minh Quốc đánh giá: Trong lịch sử báo chí Việt Nam, ông Thái Phỉ đã đóng vai trò tiên phong khi thực hiện tờ báo thiếu nhi đầu tiên của Việt Nam.

Báo 'Cậu ấm Cô chiêu' ẢNH: NGUYỄN GIANG


Báo Thanh Niên số ra ngày 13.3.2021 có bài: “Viết báo ‘Cậu Ấm’ cho... trẻ em trai, nhuận bút của Nguyễn Công Hoan là chiếc bút máy”. Nội dung nhắc đến tờ Cậu Ấm – là một tờ báo dành cho thiếu niên, nhi đồng nửa cuối những năm 1930. Tuy nhiên thông tin để lại hiện nay về báo rất ít ỏi. Song đến nay, cuộc đời của nhà báo Thái Phỉ - Nguyễn Đức Phong, người đóng vai trò tiên phong khi thực hiện tờ báo nhi đồng đầu tiên của Việt Nam, vẫn còn ít người biết tới.

Người viết bài này từ nhiều năm trước tình cờ được gặp anh Song Văn - cháu ngoại của nhà báo Thái Phỉ - Nguyễn Đức Phong. Anh đã chia sẻ cho tôi một số tư liệu về ông ngoại của mình, cùng với đó là bản photocopy cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới do Nhà xuất bản Đời Mới phát hành (1941).

Giáo dục thanh thiếu niên
Anh Song Văn cho biết nhà báo Thái Phỉ là một trong nhiều nhà trí thức có tên tuổi tại đất Hà thành thời kỳ trước năm 1945. Lấy bút danh Thái Phỉ, ông muốn tỏ ý, bản thân luôn thấy nhục nhã trước cảnh nước mất nhà tan. Khổng Tử giảng trong sách Luận Ngữ rằng: Phỉ, Phong là rau đắng của kẻ hàn sĩ. Bá Di, Thúc Tề ngày xưa vì nỗi nhục mất nước mà bỏ lên núi, chỉ ăn rau này để sống. Còn tên thật của ông là Nguyễn Đức Phong, sinh ngày 3.12.1903 ở Yên Dũng (Bắc Giang), nguyên quán tại Long Mỹ, phủ Thái Ninh – nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhà báo Thái Phỉ - Nguyễn Đức Phong (1903 – 1945?)
ẢNH: TƯ LIỆU SONG VĂN


Ban đầu Nguyễn Đức Phong là nhà giáo. Năm 1923 ông là giáo viên trường Canh Mỹ, sau vài năm làm hiệu trưởng trường này. Năm 1928, được điều đi làm hiệu trưởng trường Móng Cái thay cho ông Hoàng Đạo Thúy. Không rõ vì lý do gì, ông rời giáo giới để sang báo chí, “đóng vai trò tiên phong khi thực hiện tờ báo nhi đồng đầu tiên của Việt Nam” mang tên Cậu Ấm.

Tờ Cậu Ấm phát hành, theo nhà nghiên cứu Lê Minh Quốc,đến số 13 được đổi tên thành Cậu Ấm Cô Chiêu.

Anh Song Văn cho biết cụ thể: Cậu Ấm Cô Chiêu là tờ báo giáo dục thanh niên nhi đồng Việt Nam phát hành số 1 vào ngày 21.2.1935, in theo khổ 19x27 cm, dày 20 trang, giá 5 xu, ra ngày thứ tư hằng tuần. Tòa soạn đặt ở số 82 Rue du Coton (nay là phố Hàng Bông, Hà Nội).

Tờ báo có nhiều nhà văn, nhà báo, họa sĩ, nghệ sĩ cộng tác thân thiết và nhiệt tình. Theo anh Song Văn, nhà văn Nguyễn Công Hoan được đông đảo độc giả đón chờ với các tác phẩm: Tấm lòng vàng, Đảng Rổ Bẫy… Nhà văn Nguyễn Công Hoan cùng Tổng biên tập Nguyễn Đức Phong mở trang luyện Văn, phân tích tiếng Việt được các em nhỏ nhiệt liệt hưởng ứng. Tác giả Dư Vinh cuốn hút sự say mê của mọi người bằng các sáng tác phiêu lưu mạo hiểm: Ca La Phan phiêu lưu ký, Đồng trinh Gia Long… Họa sĩ NGYM (tên thật là Trần Quang Trân), họa sĩ Mạnh Quỳnh vẽ tranh minh họa và tranh cười rất hóm hỉnh.

Thời gian này, tổ chức Hướng đạo sinh (mà ông trùm Hướng đạo toàn Đông Dương là nhà giáo Hoàng Đạo Thúy) cũng kín đáo giáo dục tinh thần yêu nước thương nòi cho thế hệ thanh thiếu niên nhi đồng qua các chuyên mục: “Câu hát vặt”, “Ngụ ngôn Nam Hương”, “Truyện kể lịch sử”…

Nhận thấy tờ báo có nội dung tuyên truyền sâu rộng tinh thần yêu nước thương nòi trong các thế hệ thiếu niên nhi đồng, chính quyền thực dân Pháp đã buộc tờ báo phải đình bản ở số 129.

Báo đóng cửa, ông chủ bút trở lại con đường đi dạy học ở trường tư để mưu sinh. Năm 1941, ông viết cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới. Cuốn sách chứa đầy những tâm sự với các thế hệ đang bị ru ngủ bởi các thủ đoạn của chính quyền thực dân Pháp, thế hệ không có lý tưởng, không có mục đích sống, cần có một sự đổi mới triệt để nhằm thức tỉnh họ. Nhà báo Diệu Anh - Đinh Gia Trinh một cây bút điểm sách trụ cột trên tờ Thanh Nghị đã đánh giá: Cuốn sách gây ra một tiếng vang trong xã hội đương thời đi kèm với một phản ứng khó chịu từ phía nhà cầm quyền.


76 năm bặt vô âm tín
Năm 1942, ông Nguyễn Đức Phong bị bắt sau một buổi diễn thuyết chống Pháp. Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương. Ra tù, ông về nhà ở Láng (Thôn Mọc, Quan Nhân, tỉnh Hà Đông, nay là quận Thanh Xuân, Hà Nội), hai chân còn hằn dấu còng bị sâu quảng, đi lại rất khó khăn. Gia đình phải dùng nhiều biện pháp chữa trị mới tạm lành. Vừa ra tù, ông đã thành lập “Ủy ban giải phóng chính trị phạm” để yêu cầu chính quyền thả những tù chính trị yêu nước.

Sách Một nền giáo dục Việt Nam mới tái bản
ẢNH: K.M.S


Báo Đông Pháp, 3.1945 có đoạn viết: “Ngày 19.3, ông Nguyễn Đức Phong, ông Võ Khắc Thiệu cùng một số chính trị phạm thành lập “Ủy ban giải phóng chính trị phạm”, ủy ban được lập ra là có mục đích giải phóng tất cả các chính trị phạm ra khỏi nhà tù của thực dân”. Trụ sở của ủy ban đặt tại 149 phố Hàng Long (nay là đường Lê Duẩn – Hà Nội).

Vẫn trên báo Đông Pháp cho biết: “Ngày 2.4, Ủy ban giải phóng chính trị phạm đã giải phóng 206 chính trị phạm khỏi đề lao Hà Nội… sau đó tiếp tục giải phóng nốt số tù chính trị còn lại. Tháng 6.1945, ủy ban tuyên bố đã hoàn thành mục đích và thông báo tự giải tán…” .

Giữa tháng 7.1945, ông Phong từ biệt gia đình nói là đi phát chẩn. “Ông không cho người nhà biết ông đi phát chẩn ở những đâu, chỉ biết ông đã sử dụng giấy tờ giả” – cháu ngoại nhà báo Thái Phỉ chia sẻ. Một thời gian sau, trên báo chí xuất hiện thông tin “Nhà báo Thái Phỉ mất tích”.

Ba tháng sau, ông nhắn tin qua thư tay về cho vợ: “Nhà đừng lo, tôi vẫn bình yên”. Trên phong bì thấy có địa chỉ nơi gửi: Hoa Lư – Ninh Bình… Đó là tin tức cuối cùng gia đình có được về nhà báo Thái Phỉ - Nguyễn Đức Phong - người giữ vai trò tiên phong khi thực hiện tờ báo nhi đồng đầu tiên của Việt Nam. Từ đó đến nay đã 76 năm bặt vô âm tín. Người thân vẫn đi tìm tung tích ông.

Kiều Mai Sơn



Viết báo ‘Cậu Ấm’ cho... trẻ em trai, nhuận bút của Nguyễn Công Hoan là chiếc bút máy


Viết báo ‘Cậu Ấm’ cho... trẻ em trai, nhuận bút của Nguyễn Công Hoan là chiếc bút máy

Trần Đình Ba


Cậu Ấm là một tờ báo dành cho thiếu niên, nhi đồng nửa cuối những năm 1930. Tuy nhiên thông tin để lại hiện nay về báo rất ít ỏi. Từ những mảnh tư liệu rời rạc có được, có thể phục dựng lại vài nét cơ bản về tờ báo này.


Theo thông tin từ cuốn sách Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, báo Cậu Ấm hoạt động thời gian 1935-1937, là tuần báo thiếu nhi. Quản lý là Nguyễn Đức Phong. Tòa soạn đặt tại Hà Nội. Số 1 ra ngày 20.2.1935, đình bản ở số 129, tháng 11.1937.

Báo Cậu Ấm qua trí nhớ văn thi sĩ
Báo Cậu Ấm để lại ấn tượng trong trí nhớ Nguyễn Công Hoan vì đây là tờ báo mà Nguyễn Công Hoan nhận được món nhuận bút cho bài viết của mình bằng... chiếc bút máy. Ông tâm sự trong hồi ký Nhớ gì ghi nấy: “Mình cũng không hiểu đấy là nhuận bút, vì ngày này viết vì tình bạn chứ không vì tiền, cho nên mình không nhận, nói rằng mình không quen dùng bút máy”.

Tuy nhiên Chủ nhiệm của báo là Thái Phỉ vẫn đưa, và chiếc bút máy, món nhuận bút đầu tiên ấy Nguyễn Công Hoan không giữ lại, mà cho một người khác. Xem các số báo Cậu Ấm thì được biết, bài Nguyễn Công Hoan viết trên Cậu Ấm là truyện dài Tấm lòng vàng được đăng dài kỳ. Năm 1944, tác phẩm được in thành sách.

Xem Cậu Ấm số 5, ra ngày 20.3.1935 thể hiện đây là tờ tuần báo dành cho con trai với Chủ nhiệm là N.Đ.Phong, tức Nguyễn Đức Phong, họ tên thật của Thái Phỉ. Thái Phỉ là người rất quan tâm đến vấn đề giáo dục trẻ em, sinh thời ông có nhiều tác phẩm liên quan: Một nền giáo dục Việt Nam mới (1941), Muốn học giỏi (1942), Giáo dục nước Nhật (1942)...

Vẫn theo thông tin từ tờ Cậu Ấm, tòa soạn báo nằm ở số 82 rue du Coton, Hà Nội, tức phố Hàng Bông hiện nay. Dòng chữ dưới trang cuối cho ta biết báo được in tại Nhà in Trung Bắc tân văn. Với 20 trang báo mỗi số, Cậu Ấm được bán giá 5 xu một tờ. Báo cũng niêm yết rõ giá bán cho độc giả đặt dài hạn. Cụ thể là với trong nước: Một năm: 2,5 đồng; sáu tháng: 1,3 đồng; ba tháng: 7 hào. Với nước ngoài: Một năm: 4 đồng; sáu tháng: 2,2 đồng; ba tháng: 1,2 đồng.

Báo có trụ sở ở Hà Nội, nhưng được phát hành vào tận Sài Gòn với hệ thống đại lý rộng khắp như Tín Đức thư xã ở đường Sabourain (nay là đường Tạ Thu Thâu), Cổ Kim thư xã ở đường Boulevard Albert (nay là đường Đinh Tiên Hoàng), Vũ Lai ở đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng)…

Xem các số báo Cậu Ấm, ta thấy điểm nhấn là trang nhất đều được in màu rất đẹp như ở các số 5, 6, 7 với các tranh vẽ truyện tranh Ba đứa trẻ mạo hiểm của Nguyễn Văn Thịnh.

Trong trí nhớ của Vũ Bằng ghi lại nơi hồi ký báo chí Bốn mươi năm nói láo, ông ấn tượng với Cậu Ấm vì lúc ấy đây là tờ báo duy nhất dạo ấy dành cho thiếu nhi và khi “tờ Cậu Ấm của Thái Phỉ Nguyễn Đức Phong vừa đóng cửa, cả nước không có một tờ báo loại đó”. Đó cũng chính là một động lực để Vũ Bằng cùng ông chủ của Tân Dân thư quán là Vũ Đình Long ra tờ báo Truyền Bá ngay sau khi Cậu Ấm đình bản. Xem Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam (Nguyễn Thành) được biết Cậu Ấm ra số cuối vào tháng 11.1937.

Báo Cậu Ấm có gì?
Để bạn đọc biết được nội dung của số sau, thì số trước đó giới thiệu những bài sẽ có ở số tiếp theo. Chẳng hạn trong số 7, ra ngày 8.4.1935 thông tin “Các bạn nhớ đón xem Cậu Ấm số 8” sẽ đăng những bài như truyện lịch sử của Anh - Mỹ, bài hát Đi! Ta đi! (Nam Hương), truyện ngụ ngôn Khỉ làm dáng (Nam Hương), truyện vui Cậu bé “phò mã” (Vũ Xuân Chính) cùng nhiều truyện dài, truyện ngắn, các trò vui...

Đúng với tiêu chí là báo cho trẻ em, lại là trẻ em trai, nội dung các số của Cậu Ấm phản ánh đối tượng phục vụ của mình với các mục, bài đa dạng, thú vị để thể hiện cái ích lợi mà báo giới thiệu là “Muốn cho trẻ khỏi nghịch nhảm và bẩn trong những giờ rỗi, không gì bằng cho trẻ đọc CẬU ẤM”.

Một điều đáng lưu tâm nữa là báo dành cho trẻ con với chất thuần Việt rất cao. Các nội dung chủ đạo đều là của tác giả Việt. Một số truyện dịch thì có sự Việt hóa thích hợp với lối tiếp nhận của trẻ nhỏ.

Cậu Ấm có mục truyện cổ tích dạy đạo lý, cách sống, như số 5 đăng bài Chưa đỗ ông Nghè…của Nguyễn Văn Ngọc; truyện ngụ ngôn Người và Rắn (số 5), Cu Tý và con Vàng (số 6), Rùa và Ngựa (số 7)… được thực hiện bằng tranh vẽ trực quan cho trẻ hứng thú và dễ cảm thụ; câu hát vặt được thực hiện dễ thuộc, dễ nhớ; truyện cười để trẻ giải trí… Ngoài ra, báo còn dạy trẻ chơi ô chữ kiến thức, tập vẽ, xếp chữ và số… Chẳng hạn Cậu Ấm số 6 trong mục "Cậu Ấm mua vui" có tranh đố rất trực quan phát huy trí tưởng tượng cùng hiểu biết lịch sử của trẻ với câu hỏi “Các bạn trông những hình trên này mà đoán ra tên một ông vua nước Nam”. Ở Cậu Ấm số 7, đáp án được đưa ra là “Lê Đại Hành”.



Hình đố vui trong tuần báo Cậu Ấm số 6 với lời giải ở Cậu Ấm số 7 (là vua Lê Đại Hành). Ảnh: T.L


Để giáo dục lòng yêu nước, yêu lịch sử dân tộc, Cậu Ấm cũng đăng bài liên quan đến nhân vật lịch sử theo hướng kể chuyện nhẹ nhàng, hấp dẫn như truyện lịch sử Ông Ích Khiêm đánh giặc (Cậu Ấm số 5, ra ngày 20.3.1935). Có thể thấy báo tận dụng hoàn toàn việc minh họa bằng các tranh vẽ phù hợp với trẻ nhỏ của các họa sĩ: Nguyễn Văn Thịnh, Mạnh Quỳnh, NGYM…

Báo cũng tìm cách thu hút trẻ qua các cuộc thi có thưởng như cuộc thi “Cái bánh xe Cậu Ấm”, cuộc thi “Tiếng bí mật” với đối tượng tham gia rộng rãi ở các tỉnh thành, chủ yếu là Bắc Kỳ, giải thưởng được nhận là báo biếu hoặc ảnh của tài tử chiếu bóng được tổng kết trên Cậu Ấm, số 7, ra ngày 8.4.1935.

Dù là tuần báo nhưng cũng có lúc Cậu Ấm không ra đúng hạn định. Chẳng hạn số 6 ra ngày 27.3.1935, số 7 đáng lẽ phải ra ngày 3.4.1935 mới phải lẽ, nhưng đến ngày 8.4.1935 báo mới ấn hành với lý do được nêu là lỗi của nhà in. Lại để có thêm nguồn thu ngoài bán báo, Cậu Ấm cũng thực hiện các mẩu tin quảng cáo, rao vặt dù không nhiều. Ở Cậu Ấm số 5, báo quảng cáo cho hiệu Ích Cát chuyên khắc dấu và tranh, số 6 quảng cáo bán sách của hiệu Nam Ký, Hà Nội…

Từ cuộc thi “Cái bánh xe Cậu Ấm”, cuộc thi “Tiếng bí mật”, trong 22 bài được giải thưởng có 4 độc giả là nữ. Duyên cớ đó là động lực để chủ báo Cậu Ấm ấp ủ mong muốn ra tờ báo Cô Chiêu dành cho các trẻ em gái. Tuy nhiên, như giãi bày trong bài “Kết quả hai cuộc thi của Cậu Ấm” trên Cậu Ấm số 7 thì việc đó chưa làm được mà phải tính đến một giải pháp khác: “Nhưng xét ra cái tình thế ngày nay chưa để chúng tôi mạnh bạo cho ra riêng một tờ báo con gái, nên chúng tôi bất đắc dĩ phải tạm cho “Cô Chiêu” ra chung với “Cậu Ấm” bắt đầu từ số 13 ra ngày 15 Mai 1935”. Cũng ở Cậu Ấm số 7, báo đưa tin cho việc thực hiện ý định trên của mình, theo đó “Cô Chiêu sẽ ra thành phụ trương với Cậu Ấm bắt đầu từ số 13 ra ngày 15 Mai 1935”. Thông tin này ứng với Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam khi sách này cho hay ở số 13, ra ngày 15.5.1937, báo đổi tên thành Cậu Ấm Cô Chiêu và kết thúc vào tháng 11.1937. Tuy nhiên Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam có sai lệch về số báo khi cho biết số cuối cùng là số 429, thực ra đó là số 129 được Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945 xác nhận.

Mục 'Cậu Ấm tập vẽ' trên báo Cậu Ấm số 7 (hình trái) và truyện dài 'Tấm lòng vàng' đăng nhiều kỳ trên Cậu Ấm. Ảnh: T.L




Con ngựa trong một số tác phẩm nổi tiếng


Con ngựa trong một số tác phẩm nổi tiếng

Nguyễn Khắc Phê


Đã từ lâu, con ngựa gắn bó với con người, giúp con người tăng tốc độ, kiếm sống, đánh trận và tăng thêm vẻ đẹp cho con người nên hình ảnh con ngựa đã được thể hiện đậm nét trong nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng như con ngựa Rốt-xi-năng trong tiểu thuyết Đông-ki-sốt, ngựa Ô Chùy của Hạng Võ, Xích Thố của Quan Vân Trường…gần gũi hơn với người đọc Việt Nam là con ngựa sắt trong truyện Thánh Gióng – con ngựa bay lên trời sau khi đánh thắng giặc ngoại xâm!.

Tuy vây, những con ngựa vừa kể chỉ được thể hiện như là phương tiện, là vật trang sức cho con người. Trong văn học Việt Nam hiện đại có hai truyện ngắn đã thể hiện con ngựa như là một “nhân vật” có máu thịt, có tình cảm đến mức, khi nó phải vĩnh biệt cõi đời, hẳn không ít độc giả đã rơi nước mắt.

Truyện thứ nhất là của cây đại thụ trong làng văn Việt Nam: nhà văn Nguyễn Công Hoan. Truyện có tựa đề: Con ngựa già viết năm 1938. Ông kể lại một kỷ niệm hồi nhỏ, khi có dịp quan sát con ngựa ô của quan huyện đã mua lại của một ông Tây. “Vì lẽ đó nó cũng có tên là ngựa tây…Nó không hiền lành như ngựa ta. Nó dữ, khỏe mạnh và hung hăng lắm.(*) Nó đã cắn đã đá cho nhiều người lính hầu cai quản nó, thậm chí có lần nó đánh đổ xe khiến bà quan huyện lăn kềnh. Chỉ riêng với ông huyện là nó chịu thuần phục và đã mấy lần cứu ông thoát nạn… Đó là những câu chuyện tác giả nghe kể lại, còn “cao trào” hoặc là điểm thắt nút của truyện là cảnh mấy người lính chôn sống con ngựa, khi nó về già, đau ốm. Đau đớn hơn là do cái huyệt đào ngắn và cạn, phải gô cổ nó mới nhét xuống, còn “bốn cái chân lêu đêu chỏng lên trời..”, một anh lính “giật lấy dao và giơ thẳng cánh, chặt đôm đốp vào đầu con vật. Nó đau quá, giãy lên… Xương trắng và thịt đỏ chồi ra… con ngựa tưởng có thể chạy trốn khỏi sự đau đớn, nên nó dùng hết sức tàn để băm bằng bốn cẳng cụt. Nó băm nhanh biến như lúc nó phi nước đại. Tiếng cười và vỗ tay giòn tan…”.

Tác giả mô tả cảnh thương tâm ấy với con mắt hồn nhiên của đứa trẻ chín, mười tuổi, với giọng văn vô cảm. Ông không một lời chê trách, phê phán mấy tên lính và không khoác áo đạo đức cho “đứa trẻ chín, mười tuổi”. “Khi không cười được nữa, người ta lại bổ lưỡi dao vào mặt nó để nhắc nó chạy đi. Quả nhiên, nó lại lắp bắp bốn cẳng trên không và tiếng cười lại nổi lên rầm rĩ, Tôi cười, nhảy lên mà cười, vỗ tay mà cười. Vui quá!...” Nhưng trước cảnh con ngựa giãy chết, chính những tiếng cười ấy lại làm chúng ta xót xa đến rơi nước mắt!

Tròn mười năm sau, năm 1948, nhà văn Trần Công Tấn viết truyện ngắn đầu tay “Con ngựa của tôi”. Năm 1956, truyện được in trong mục “Kỷ niệm sâu sắc của tôi” trên báo “Quân đội nhân dân” sau đó được dịch in ở tạp chí Europe (Châu Âu) và một số nước khác. Cũng từ những hồi ức của tác giả thời thơ ấu và kết cục là cảnh con “Thiết mã” bị giết chết, nhưng ý nghĩa của truyện lại khác hẳn.


Sau bao nhiêu năm mê mải đuổi theo hình ảnh con ngựa hồng của tổng Bang phóng qua làng, rồi kẹp tàu cau, cưỡi cả chó, giả như cưỡi ngựa, ngựa bị “cắn” cho tóe máu khi vung roi quất giục nó phi nhanh, năm 1945, chàng quân báo Trần Công Tấn được giao con Thiết mã, vốn là ngựa của nhà binh Nhật đầu hàng giao lại cho Việt Minh. “Nó rất thông minh… biết nằm rạp xuống đất khi địch bắn, biết cách chạy tránh đạn và biết cả nghiêm, nghỉ đi đều bước theo khẩu lệnh. Vì thế, tôi quý nó như một người bạn chiến đấu…” Nhưng sau ngày Mặt trận Huế vỡ, lực lượng cách mạng phải rút lên chiến khu, cuộc sống cực kỳ gian nan, “đơn vị đã hết nhẵn lương ăn, phải mổ ngựa ăn với rau rừng, con ngựa thứ sáu đã bị bắn chết, rồi đến con thứ bảy, thứ tám. Mỗi lần nghe tiếng súng giết ngựa, tiếng dao thớt đốn lộc cộc vào sườn ngựa, lòng tôi càng rối lên. Tôi lo cho số phận Thiết Mã. Tuy thế vẫn chưa đến phiên nó chỉ vì lý do: trong đơn vị, tôi bé nhất, mới mười ba tuổi…”.

Thế rồi vào một chiều mưa lạnh, sau hai tiếng súng, “tôi nghĩ đến Thiết Mã. Tay chân rã rời bủn rủn… Tôi rẽ đám đông bước vào ôm cổ ngựa khóc òa lên. Mắt Thiết Mã mở trừng trừng, máu nó ứa trên ngực, trên đầu… Chị Diêm liền đến ôm lấy tôi. Chị cũng khóc, chị nói: “Đừng khóc em ạ. Em muốn các anh chị sống để đánh giặc hay phải chết đói?...”.

Cái chết của Thiết Mã là một sự hy sinh vì nghĩa lớn, vì sự sống của nhiều người, nhưng với cậu chiến sỹ quân báo trẻ tuổi, thì đó vẫn là một bi kịch, một nỗi xót xa không dễ nguôi ngoai: “Rét chiến khu vẫn kéo dài. Đêm đến, gió lạnh, tôi khoác chiếc bao tải đệm lưng Thiết Mã còn ấm hơi. Nhớ nó, tối ước mình sẽ có con ngựa khác, óc tôi lại hiện lên từng đoàn kỵ binh gươm tuốt trần vung lên, xông tới trước kẻ thù”.

Với “Con ngựa của tôi”, sự hy sinh gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được thể hiện một cách sắc nét và độc đáo. Một câu chuyện thương tâm mà vẫn ấm áp tình người. Cũng có thể đây là một vở “bi kịch lạc quan”.

Trong văn học Việt Nam hiện đại, con ngựa được lấy làm tên truyện còn phải kể “Con ngựa bốn vó trắng” – tiểu thuyết của Văn Linh – và gần đây là “Con ngựa Mãn Châu” của Nguyễn Quang Thân, nhưng trong hai tiểu thuyết này, con ngựa không phải là trung tâm của câu chuyện. Nhà văn Nguyễn Công Hoan còn có truyện ngắn “Ngựa người và người ngựa” rất nổi tiếng, nhưng truyện này không hề nói gì đến ngựa, chỉ là số phận của hai con người - gã kéo xe và ả gái điếm - phải sống kiếp ngựa mà thôi!

Suy cho cùng thì cả hai truyện ngắn “Con ngựa già” và “Con ngựa của tôi” cũng chỉ là truyện về con người, về tiếng cười, tiếng khóc của con người trong những hoàn cảnh oái ăm. Dù sao thì người đọc có lẽ cũng nên biết ơn các tác giả đã khéo dùng con ngựa để giúp con người có dịp hiểu rõ mình hơn. Phải! Không có con ngựa thì đã không có hai truyện ngắn ấy lưu lại cho hậu thế.

Nguyễn Khắc Phê
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt
số 89 tháng 02/2002



Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Đêm cuối năm thương xót những phận người


Đêm cuối năm thương xót những phận người

Nguyễn Văn Luyện
(Giáo viên Trường THPT Hậu Lộc 4 – Thanh Hóa)


GD&TĐ - Thời khắc Giao thừa giữa năm mới và năm cũ, người người hân hoan tống cựu nghinh tân, những mong nàng xuân vui gõ cửa, nhà nhà đoàn tụ ấm êm.

Song đâu đó, còn ẩn khuất những cảnh đời trôi nổi, xót đau, ước mong sum vầy chỉ như món quà xa xỉ. Đọc lại câu chuyện về phận người “Tối ba mươi” của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam gần trăm năm về trước, nhân gian vẫn khắc khoải niềm thương, chan chứa những niềm đau.

Nguyễn Công Hoan – cả cuộc đời văn viết vì con người.


Kiếp người ngựa
Danh thơm của Nguyễn Công Hoan tỏa sáng trên văn đàn từ những năm 30 của thế kỉ XX. Trong công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc, Nguyễn Công Hoan thuộc thế hệ mở đường, đặt những viên gạch đầu tiên, vững chắc cho sự phát triển bền vững về sau, nhất là văn xuôi. Nhắc đến ông, người ta nhắc đến một bậc thầy về truyện ngắn của văn học Việt Nam hiện đại.

Một trong những tác phẩm kinh điển của nhà văn Nguyễn Công Hoan.


Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan tựa như một bức tranh đa diện về những trò đời tréo ngoe, cười đấy mà cay xót khôn nguôi cho kiếp nhân sinh. “Báo hiếu trả nghĩa cha”, “Báo hiếu trả nghĩa mẹ”, “Đồng hào có ma”, “Mất cái ví”, “Tinh thần thể dục”, “Kép Tư Bền”… là những tác phẩm hay, in đậm phong cách truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, mỗi truyện gắn với tình huống trào phúng bất ngờ, người ta phá lên cười, song ngẫm lại đau xót thương tâm bởi nghịch cảnh éo le, nghĩa nhân đảo lộn.

Đọc truyện ngắn “Ngựa người và người ngựa” của Nguyễn Công Hoan, tôi băn khoăn tự hỏi, chẳng biết trong cái đêm ba mươi trớ trêu ngày xưa ấy, anh phu xe hay cô gái “ăn sương” mới là người đen đủi, không may? Suy đi ngẫm lại, chỉ biết rằng kẻ khốn, gặp người khổ, bi đát gặp nhau, cay đắng xiết bao. Ngòi bút hiện thực giúp nhà văn vẽ nên những cảnh đời cùng quẫn, cơ hàn trong xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Mỗi trang văn, một kiếp người, ai cũng khốn khổ như ai.

Phận người ngựa lắm nỗi gian truân, anh phu xe gia cảnh thật trớ trêu, gánh nặng mưu sinh đè xuống cái lưng còng của gã đàn ông còm cõi mới thoát chết sau một trận ốm. “Bao nhiêu tiền của dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả”, thành thử, túng phải tính, mệt vẫn phải cố, anh cố “vay cái vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo ăn Tết”. Bởi thế, “tám giờ tối ba mươi Tết”, anh phu xe vẫn lang thang hết phố nọ, phố kia. Phường phố vắng vẻ, nhà nhà đóng cửa, gã kéo xe “đói” khách, từ chiều đến đêm mới được “hai hào chỉ”.

Dù cho “khách áo gấm, áo nhung đi nhan nhản ở đường”. Song, mời mỏi miệng cũng chả có ai lên xe, anh phu xe “lo méo mặt mấy hào bạc gạo ngày mai không xong”, tiếng thở dài ngán ngẩm sao mà chua xót. Phận đời bấp bênh tội nghiệp biết bao. Buồn ngủ, gặp chiếu manh, phận “ngựa người” gặp thân “người ngựa”, ngỡ may mà hóa rủi, phận hẩm duyên ôi, nhọc thân mà lại mất thêm tiền. Đúng là đã rách lại thêm nát, túng còn thêm thiếu, hi vọng chưa kịp nhen, vụt tan như bong bóng xà phòng.

Lầm lũi trong đêm, lê bước nhọc nhằn, anh xe “phấn chấn” trong lòng nghĩ đến cái “doanh thu” đêm cuối năm: “Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào. Mở hàng ngay vào lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Năm mới đã phát tài!”. Nhà văn rất khéo mở ra cho anh phu xe nghèo khổ viễn cảnh thì thoáng chốc, anh ta rơi vào thảm cảnh: Mất trắng.

Câu nói của ả “ăn sương”: “Cảnh tôi cũng như cảnh anh, cũng là đi kiếm khách cả. Nhỡ phải một tối thế này, thì chịu vậy, chứ biết làm thế nào?” phơi bày sự thật, và khép lại đêm ba mươi đen đủi của anh kéo xe bằng cú lừa ngoạn mục. Vào nhà săm cửa trước, cô ả chuồn cửa sau, anh xe bị quỵt tiền, năm mới chưa kịp phát tài, chỉ thêm phát khổ, tay trắng rồi lại trắng tay. Thảm thương cho kiếp cu li, chẳng biết sau khi “móc túi lấy bao diêm đốt vía”, phận nghèo còn đeo đuổi anh không? Viết về phận “ngựa người”, sau tiếng cười vẫn là nỗi đau đời, thương đời của người cầm bút.

Người ta khổ, song còn một chốn để về thì chưa phải cùng đường. Anh phu xe trắng tay, đen đủi bị quỵt tiền nhưng còn vợ, còn con để sum họp đoàn viên dù đói nghèo túng thiếu. Cô ả “ăn sương”, kiếp “người ngựa” mới bi đát, khốn cùng. Chẳng biết, sau hành động vào nhà săm cửa trước, trốn cửa sau, cô ả sẽ đi đâu, về đâu? Vất vưởng, trôi dạt, chìm sâu trong tủi nhục, đắng cay? Bởi thế, phận “ngựa người” khổ, song kiếp “người ngựa” mới tủi nhục, đáng thương hơn gấp bội phần.

Đêm ba mươi, tiếng pháo đì đùng, nhà nhà đón Tết, cô gái phải đi kiếm ăn mà ế chỏng ế chơ, hết phố nọ, sang phố kia mà xôi hỏng, bỏng không, chẳng ma nào tìm đến. Cũng phải, đêm trừ tịch, ai đời nào lại tìm đến “món hàng” này để vui xuân. Kì thực, cô gái “ăn sương” này không định quỵt tiền của anh phu xe. Cô mong gặp khách, kiếm tiền để trả tiền. Chẳng may, gặp cái tối “xúi quẩy” đành trơ mặt, vậy thôi. Bất đắc dĩ, “con ngựa người, kéo con người ngựa”, con “người ngựa” không ai đoái hoài, khốn khổ như nhau, nên thành kẻ lọc lừa.

Mỗi trang văn, một cảnh đời, ngòi bút chân thực của Nguyễn Công Hoan đưa người đọc khám phá mảng tối của xã hội thị dân trước cách mạng, ở đó những kiếp “người ngựa - ngựa người” cứ lầm lũi trong đêm, tội nghiệp xót xa. Tiếng cười trào phúng bật lên ngay từ nhan đề, kết hợp với cách kể khôi hài, người đọc tủm tỉm cười, song ngẫm ngợi vẫn thương cảm, nhói đau. “Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng, toạch toạch...”, anh phu xe “nghiến răng, cau mặt, thủng thẳng dắt xe đi”, cô gái bán hoa lẩn khuất nơi nào? Cuộc đời khổ nhục của kiếp người ngựa, ngựa người luôn ám ảnh trong ta mỗi độ xuân sang.

Những tác phẩm kinh điển của nhà văn Nguyễn Công Hoan.

Phận tha hương
Văn chương khơi nguồn từ trái tim sẽ đi đến những trái tim, người đọc sẽ nhớ mãi không quên. Hơn ba mươi tuổi đời, vẻn vẹn sáu năm cầm bút, những truyện ngắn khơi nguồn từ trái tim của Thạch Lam mang vẻ đẹp riêng, lãng mạn mà vẫn rất đời, chan chứa niềm thương, niềm đau. Dõi theo những thiên truyện của cây bút biệt tài, người ta mến yêu “Hai đứa trẻ”; cảm phục “Gió lạnh đầu mùa”; say mê “Dưới bóng hoàng lan”; cảm kích với “Cô hàng xén”... Với tôi, mỗi truyện đều có dư vị riêng, song ấn tượng vẫn là “Tối ba mười”, câu chuyện giản dị mà ám ảnh về phận người tha hương trong thời khắc Tết đến, xuân về.

Ngẫm về thiên chức của người cầm bút, ai đó đã sẻ chia một quan niệm chí tình, chí lí: “Nhà văn có thể viết về bóng tối, nhưng từ bóng tối phải hướng đến ánh sáng”. Thiên truyện diễn ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, đêm ba mươi; không gian là một căn buồng nhà “săm”, ẩm ướt, nhếch nhác, bẩn thỉu, ô uế: “Cái giường sắt lạnh, đệm và gối hoen bẩn, cái thau gỉ, cái bô, và cái bàn gỗ rửa mặt gỗ đã mọt”.

Đó là khung cảnh của cuộc đời trụy lạc của hai cô gái bỏ quê, lên phố sống đời tha hương, Huệ và Liên. Đêm cuối năm, quãng phố hẹp vắng teo, cái se lạnh của ngoài trời thấm cả vào lòng người, “ngoài đường trời hẳn còn mưa, mưa buồn rầu và âm thầm trong bóng tối”, hai cuộc đời trơ trọi bám víu nhau trong nỗi hờn tủi, đắng cay.

Mỗi người một cảnh, họ vùi chôn đời mình trong cảnh ngộ tha hương. Huệ, mẹ chết, cha lấy vợ khác, không biết ở đâu, bảy tám năm không về làng, đêm cuối năm nàng vùi mình vào giấc ngủ trong căn buồng nhà “săm” lạnh lẽo. Đôi mắt “lờ đờ”, “nét mặt mệt mỏi”, “chút nước mắt rơm rớm ở hàng mi” của Huệ gợi bao nỗi ưu tư, “tâm hồn u ám, nặng trĩu”, cuộc đời “trụy lạc” rồi sẽ đi đâu, về đâu? Có nơi đi chẳng còn chốn trở về, kí ức đẹp nhất với Huệ còn lại chỉ là chút kí ức buổi sáng mồng một Tết năm nào, nàng không nhớ rõ.

Trong truyện, Huệ khổ, Liên thậm chí khổ hơn, “còn cha mẹ nhưng không dám về”. So với vẻ “bất cần” của Huệ, Liên chu tất, mạnh mẽ hơn, mấy thứ đồ ăn mua vội mua vàng ngoài phố chống đói cho mấy ngày Tết, sửa soạn cúng Giao thừa, an ủi động viên Huệ… nhưng cố tỏ ra can đảm thì lại càng mềm yếu, gắng gượng vượt lên cay đắng lại dưng đầy.

Với Liên, khoảnh khắc “tiến đến bàn thờ, đứng yên”, nghẹn ngào “biết khấn sao bây giờ” quả là một chi tiết nghệ thuật đắt giá. Thạch Lam thật tinh tế phát hiện chuyển biến tinh vi trong tâm hồn Liên: “Nàng bỗng nấc lên, rung động cả vai rồi gục xuống ghế, tay ấp mặt. Những giọt nước mắt nóng chảy tràn mi mắt, nàng không giữ được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh mang tràn ngập cả người, một nỗi thương tiếc vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt với những mong ước tuổi trẻ, những thất vọng chán chường”.

Tiếng khóc tủi hờn, tiếng khóc thổn thức, tiếng khóc đắng cay của một kiếp tha hương, sống trong nhục nhã ê chề. Tiếng khóc tiếc cho mong ước tuổi trẻ đã vùi chôn, tiếng khóc cho năm mới, và cả những tháng ngày trước mắt nổi chìm, phiêu dạt. Đặc biệt, tiếng khóc ấy trở thành “Sợi tóc” mong manh níu giữ phần thiện, phần lương tri còn sót lại của cô gái giang hồ bán thân nuôi miếng. Xót đau cùng tiếng khóc của Liên, của Huệ trong đêm ba mươi đượm buồn, lạnh lẽo, bất chợt tôi nhớ đến cái “giật mình mình lại thương mình xót xa” của nàng Kiều “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” trong kiệt tác của Nguyễn Du.

Thì ra, con người dẫu cùng cực, dẫu trôi nổi, muôn đắng ngàn cay thì phần Người vẫn sẽ còn vương sót, thiên tâm có thể bị vùi chôn nhưng không thể biến đi. Quan trọng là hoàn cảnh, cuộc sống có đủ khả năng lay tỉnh, giữ vững thiện lương của con người hay không?

Viết về phận đời tha hương của hai cô gái nhà quê bỏ lên phố sống đời “trụy lạc”, ngòi bút nhân đạo của Thạch Lam đâu chỉ cảm thương, mà quan trọng hơn nhà văn đã gửi gắm một niềm tin bất diệt vào bản tính lương thiện của con người. Niềm tin đó giúp ông phát hiện, tìm được ánh sáng trong “Những linh hồn chết”.

Kí ức về “căn nhà ấm cúng và sáng đèn, then cửa cài chặt, mọi người trong nhà đang tấp nập sửa soạn đón năm mới trong sự thân mật” của Huệ, giọt nước mắt tủi cực của Liên… sẽ mãi mãi là “thanh âm trong trẻo” giữa cuộc đời chìm nổi, tối tăm. Sinh thời, Thạch Lam chiêm nghiệm: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường”.

Với truyện ngắn “Tối ba mười”, dường như nhà văn đã hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút. Viết về bóng tối, ông hướng con người khổ tìm đến ánh sáng, lay tỉnh tâm hồn, đánh thức lương tri. Câu chuyện về Huệ, về Liên khép lại, nhân gian hiểu thấu bài học sâu sắc, đừng buông thả, đánh mất mình để không bao giờ rơi vào nghịch cảnh trớ trêu, nước mắt sẽ không rơi trong khoảnh khắc nhói đau.


Trang văn rất đời và rất tình
Xuân đang gõ cửa muôn nơi, lòng người hân hoan cùng mai đào khoe sắc. Đọc truyện của hai cây bút “Vang bóng một thời”, ta thầm nghĩ về sức sống bất diệt của văn chương chân chính. “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” (Nguyễn Văn Siêu).

Có thể khẳng định, những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam đích thực là áng văn chân chính “đáng thờ”, bởi những câu chuyện rất đời, rất tình đó đâu chỉ cần cho hôm qua, hôm nay, mà còn cả mai sau. Góp vào vườn hoa muôn sắc của nền văn học đầu thế kỉ XX, những truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, truyện ngắn trữ tình giàu chất thơ của Thạch Lam mãi để thương để nhớ trong trái tim người đọc, góp phần vang danh những cây bút tài năng của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Cuộc sống luôn là một bức tranh đa diện, bóng tối đồng hành cùng ánh sáng; no đủ, an vui đi bên cực nhọc, đắng cay. Những kiếp “người ngựa - ngựa người”, phận tha hương vẫn ẩn khuất đâu đây trên vạn dặm đường đời. Chỉ mong, sự đời đổi thay, nhân sinh nước mắt vơi đi, nụ cười nhiều lên cho đong đầy hạnh phúc. “Ngoài kia pháo hoa rộn khắp nơi. Cùng nhau đón Giao thừa đang tới. Bình minh vẫy tay chào ngày mới. Trong con tim tôi nghe những yêu thương tràn về...”.

Nguyễn Văn Luyện