Ads 468x60px

.

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2025

Nhà văn Việt Nam đầu tiên viết những mánh lới ma mãnh trong vấn đề “huy động vốn” là ai ?


Nhà văn Việt Nam đầu tiên viết những mánh lới ma mãnh trong vấn đề “huy động vốn” là ai ?

Lê Minh Quốc


Đó là nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903-1977). Từ thập niên 1930, ông đã viết truyện ngắn Bạc đẻ đăng hai kỳ trên Tiểu thuyết thứ bảy: Ông Cửu Ấu ở trọ nhà ông Trưởng Sắc có hành tung rất khả nghi, xài tiền như nước, thường hay vắng nhà.
“Song hễ ở nhà thì ông ta hay mượn chiếc chậu thau đồng lên buồng làm gì, để hàng hai ba tiếng đồng hồ, rồi khi dùng xong thì tự tay đem ra ao, lấy trấu và cát đánh cho thực sáng rồi mới đem trả. Ông ta có một tính khác người thường, là hễ ở nhà, thì không thích cho ai lên buồng riêng của mình. Có một lần ông đã mắng đứa đày tớ vô ý trước khi mở cửa vào, không đánh tiếng hoặc gõ cửa. Nhưng khi ông đi vắng thì tha hồ, ai vào cũng được, tuy đồ đạc, quần áo ông để bừa bãi, mà có một lần ông Trưởng sợ quá, cái va li của ông Cửu, trong để rặt những đồng bạc, mà ông quên không khóa”.
Rồi trong một lần chè chén say sưa, ông Cửu “vô tình” cho ông Trưởng biết là mình đang nắm giữ “công nghệ” làm cho bạc đẻ thêm nhiều, cứ một đồng thì đẻ ra một đồng! Mà bạc nó cũng ở cữ nên ông phải đi xa khi nó thụ thai, nếu ở gần thì bạc tịt lại, không đẻ được gì cả. Nghe “nhỏ to tâm sự” như thế, ông Trưởng nổi máu tham, đưa tiền cho ông Cửu làm cho bạc đẻ và đúng như vậy. “Tiếng lành đồn xa”. Sau đó, cả làng đều biết chuyện và ùn ùn đưa tiền cho ông Cửu.
“Cả làng, từ ông già cho chí trẻ con, ai cũng tấp nập rủ nhau đến nhà ông Trưởng để đưa bạc đi đẻ. Thôi thì có bao nhiêu bạc giấy, hào, xu, họ đổi thành bạc đồng và đánh cho thật bóng nhoáng. Ông Cửu mỏi tay biên sổ trong hai ngày, vì từ thằng khố dây trong làng, cũng cố cầm cố bán chác đồ đạc trong nhà để kiếm vài đồng bạc trắng. Ông chánh Bá, giầu nhất tổng, đưa đẻ hẳn năm trăm, mà còn tiếc vì vội quá, không kịp bán nốt mấy chục mẫu ruộng, ông lý Thới, ông lý Sang, ông phó Ung, ông cả Sích, vân vân, và những nhà có máu mặt, đều cùng nhau đưa hàng trăm; còn hạng đưa hàng chục, hàng đồng, thì tên biên vừa đen kịt hai mươi trang giấy. Khi cộng sổ, ông Cửu phải lắc đầu lè lưỡi nói với ông Trưởng:
- Sáu nghìn bảy trăm sáu mươi tư đồng, chà! Có lẽ tôi phải lánh đến bảy tám hôm chắc!
Ông Trưởng cười gượng:
- Chúng tôi chỉ dám phiền ông có lượt này nữa thôi đấy ông chịu khó vậy.
- Vâng, tôi có dám phàn nàn đâu!
Vừa xẩm tối, mọi người đã chen chân nhau vào nhà ông Trưởng để được xem phép lạ. Nhưng họ có được trông thấy gì đâu, vì phải đứng cả ở ngoài sân, mà ông Cửu thì ở tận trong buồng để làm việc. Hàng năm sáu giờ đồng hồ sau, bỗng ông Trưởng, vẻ mặt quan trọng như ông tướng chạy ra hè hô lớn:
- Bây giờ ai phải về nhà nấy để bạc dưỡng thai. Cấm không ai được dòm, vì nếu có hơi người lạ thì bạc tiểu sản, biến ra bùn mất cả. Ai không tuân lệnh mà làm hỏng mẻ này thì phải đền sáu nghìn bảy trăm sáu mươi tư đồng, một thành hai!
Mọi người thấy câu nói đều sợ thiệt đến của riêng, bèn kéo ồ cả ra về. Độ năm phút sau, sân nhà vắng vẻ, ông Cửu đi dò la chung quanh hàng rào, rồi một mình khênh bạc ra vườn, lúi húi làm nốt công việc.
Lúc chôn xong thì vừa hai giờ sáng, ông Cửu mệt nhoài, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng theo phép, ông phải lánh xa chỗ bạc dưỡng thai, nên ông vội vã khăn áo ra đi, và dặn lại ông Trưởng:
- Bốn giờ kém năm sáng thứ bảy sau, tôi sẽ trở lại. Trong chín hôm tôi không có đây, ông phải cấm không cho ai lai vãng ra vườn nhé!”
Thế là sau khi cầm gọn một số tiền lớn, ông Cửu... biến luôn!

Rõ ràng cái mánh này vẫn còn được các “đại gia” ngày nay áp dụng nhưng tinh vi hơn bội phần. Đó là các trường hợp tiêu biểu như Lâm Cẩu, Nguyễn Văn Mười Hai, Huỳnh Là v.v... đã huy động vốn trong nhân dân để kinh doanh với chiêu bài trả lãi suất cao hơn ngân hàng gấp nhiều lần, nhưng thật ra họ chỉ lấy tiền... người trước trả cho người sau! Đến khi đồng loạt các con nợ đến rút lại tiền mà các “đại gia” đã huy động thì... “bể mánh” là lẽ tất nhiên!
Và thêm một điều thú vị khác của truyện ngắn này, là khi ta liên hệ với hai vụ lừa đảo có “tầm vóc” xuyên lục địa vừa mới xẩy ra gần đây tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 3.1998, hai tên tội phạm quốc tịch Camơrun đã dùng “chiêu bài” rất hấp dẫn... “biến giấy trắng thành đô la”! Chúng đã lừa và “ẵm” trót lọt của ông Trần Chính Hưng - một doanh nhân người Hoa ngụ tại quận 5 là 100.000 USD.

Tương tự như vậy, vào ngày 15.7.2003, hai đối tượng tội phạm khác cũng quốc tịch Camơrun là Lata và Simo đã tìm đến ông Long - một Việt kiều đang làm ăn tại Việt Nam. Sau khi giả vờ trao đổi về một số phương thức để hợp tác kinh doanh thì chúng tiết lộ với ông Long rằng, chúng có một số lượng ngoại tệ rất lớn ở nước ngoài đã đưa vào Việt Nam. Do số tiền lên đến hàng triệu USD nên không thể đưa vào một cách hợp pháp, vì vậy, chúng phải ngụy trang bằng cách nhuộm trắng toàn bộ số đô la trên giống như những tờ giấy trắng và đóng thành một “kiện hàng”. Tuy nhiên, hiện chúng không đủ tiền mua một hóa chất đặc biệt để “tẩy rửa” toàn bộ “kiện hàng” này thành đô la. Nếu ông Long đồng ý cho chúng mượn tiền, thì sẽ được “trả công” 50% trong tổng ngoại tệ mà chúng đang có! Lời đề nghị quả là hấp dẫn. Để đưa “con mồi” vào tròng, chúng đã dẫn ông Long lên một khách sạn để tận mắt chứng kiến... “công nghệ chế biến đô la”! Qua một màn phù phép, chúng đã tặng không cho ông Long 5 USD xài chơi! Tin thật, ông Long đã cho chúng mượn trước 30.000 USD, nhưng với tinh thần cảnh giác nên cùng lúc ông đã bí mật báo cho công an. Lúc 16 giờ ngày 17.7.2003, tại một địa điểm trên đường Nguyễn Đình Chiểu - nhà riêng của ông Long, hai tên tội phạm này đã thao tác “tẩy rửa” 200.000 USD nhuộm trắng thành đô la thật.
Loại hóa chất mà chúng sử dụng thật ra rất đơn giản - sau này theo giám định của Bộ Công an - chúng hòa tan iốt, tức loại thuốc sát trùng rất rẻ tiền, có bán tại các nhà thuốc tây trong cồn ở nồng độ cao để trở thành dung dịch có màu nâu đen. Khi thả những giấy trắng được cắt bằng kích cỡ của tờ đô la thì chúng cũng “nhanh tay lẹ mắt” thả luôn vào tờ đô la thật. Tất nhiên cả thẩy đều bị nhuộm nâu đen. Xong, chúng vớt những tờ đô la thật bỏ vào trong xô nước có pha sẵn xà phòng, thì những tờ giấy bạc này trở lại sắc màu như cũ. Trò ảo thuật đã khiến người ngoài cuộc tưởng hóa chất đã tẩy rửa những tờ giấy bạc bị nhuộm trắng thành đô la thật. Quá trình thao tác này nhanh đến mức dù tận mắt chứng kiến, nhưng khó ai có thể phát hiện ra trò đánh tráo này. Khi Lata và Simo xếp từng tờ đô la “bàn giao” cho ông Long thì cũng là lúc công an ập vào bắt quả tang và giám định toàn bộ số tiền trên là... tiền giả!

Thì ra, với truyện ngắn “Bạc đẻ” nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng đã “dự báo” một cách tài tình những thủ đoạn lừa đảo của bọn tội phạm quốc tế trong thời đại mà chúng ta đang sống.



Lê Minh Quốc





PDF

Nghề làm xe tay


Nghề làm xe tay

Lê Minh Quốc


Người phu kéo xe do nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc vẽ
(báo Le Paria số 5 ra ngày 1.8.1922).


Có lẽ Tú Xương là nhà thơ trước nhất đưa chất liệu thực tế vào thơ: “Ông chồng thương đến cái xe tay”. Trước kia các quan nước ta thường đi ngựa, đi võng hay đi cáng. Sau Đốc lý Hà Nội Bonnal mua được bên Nhật Bản hai cái xe tay, một biếu quan Tổng đốc, một để dùng. Về sau, năm 1884, ông tham tá nhà Đoan là Ulysse Leneveu dù hưu trí, nhưng chưa vội về cố hương mà ở lại Hà Nội để kinh doanh. Ông sang Hồng Kông mua được 6 chiếc xe tay, vừa để cho thuê, vừa mướn thợ Việt Nam căn cứ vào mẫu mã có sẵn để sản xuất thêm. Mãi đến ngày 24.3.1887, ông Leneveu mới có được hơn 100 chiếc xe để cho thuê. Từ đó những người thợ của ta đã làm xe cho ông Leneveu cũng bắt đầu sản xuất loại xe này, hầu hết xe tay dùng bánh sắt. Chỉ có quan tuần vũ, quan tây mới dùng loại xe bánh cao su- mà người lính kéo thường mặc áo “kép nẹp”, đầu đội “nón gù”, đi chân không. Rồi mãi đến năm 1932 mới có tập phóng sự Tôi kéo xe của nhà báo trứ danh Tam Lang (Vũ Đình Chí) ra đời - mở đầu cho thể loại viết phóng sự ở Việt Nam. Nhân đây, ta đọc lại một đoạn ngắn trong tập phóng sự này. Một người “cựu binh” trình bày “kỹ thuật” kéo xe cho người mới vào nghề:
“- Kéo xe cũng là một nghề. Đã đành cầm đến cái tay gỗ thì ai cũng kéo, ai cũng đi, nhưng phải kéo làm sao, đi làm sao cho đỡ vất vả.
Tôi chắc bác chạy một cuốc xong, thể nào bác cũng phải thở dốc một hồi, lúc mới buông hai chiếc tay xe ra. Thế là không biết kéo rồi, người kéo thạo tuy cũng thở, nhưng không phải thở dốc ra như thế.
Làm cái nghề chạy quanh năm suốt ngày này, người đã không thể nhớn lên được, cứ cọc dần đi, nếu không biết chạy mà lần nào cũng thở hồng hộc như bò thì phổi mình phải yếu dần đi, rồi đến mắc ho mắc xuyễn. Ăn đã chẳng có gì béo bổ, ở cũng ở chui ở rúc, lại còn dãi gió dầm mưa, phơi sương phơi nắng, đến đá cũng phải ốm, đừng nói là người. Nhưng giời đã đầy vào kiếp ấy, cũng chẳng chống lại được với giời! Biết giữ được phần nào, hãy cứ hay phần ấy.
Nói đến đấy, chẳng biết cảm động thế nào mà anh Tư nhỏm dậy, cầm tích nước, tu thẳng một hơi.
Bây giờ thì anh ta ngồi, nhón chiếc kẹo bỏ vào mồm, nhai rau ráu rồi lại nói:
- Cầm hai chiếc tay xe lên, phải liệu xem khách ngồi chiều nào, định trước cho cân rồi hãy chạy. Người ta ngồi ngả vào đệm dựa, thì phải cầm dài, ngồi giữa đệm thì cầm giữa càng; ngồi tì đệm tai (hai cái đệm con để tựa khuỷu tay) thì cầm ngắn.
Trước khi chạy, phải dún càng xe lấy mực rồi hãy bước. Cầm tay xe, không nên cầm tay dài tay ngắn, vì lúc chạy ngoắt đường này sang đường khác, đà xe đang mạnh, mình giữ không vững, xe phải lật nghiêng.
Không nên ăn no, phải thắt chặt dây lưng; thắt lưng không chặt thì ruột vặn từ rốn đưa lên; ngon miệng ăn no thì bụng xóc. Lúc chạy, phải mím môi lại, chỉ được thở đằng mũi, đừng thở đằng miệng. Cầm hơi như thế, sức bao giờ cũng mạnh; hễ há hốc luôn miệng mà thở là thấy mệt liền. Giữ như thế cho đến lúc thật tức hơi thì há mồm thở phào ra một cái thật mạnh rồi lại phải mím miệng lại liền; lấy hơi vào, phải thở luôn bằng mũi. Xe dừng lại, khách xuống rồi, bấy giờ tha hồ thở, nhưng không nên ngồi nghỉ ngay. Phải bước một mà đi cho chân khỏi chồn, lúc thuận chân hãy ngồi nghỉ lại. Quạt cho ráo mồ hôi rồi hãy uống nước; uống nước vội vã chẳng đỡ khát, lại thêm mồ hôi...’’
Bài học vỡ lòng ấy, anh Tư giảng giải cho tôi nghe làm nhiều đoạn, nhiều hồi.
Mỗi điếu thuốc là một cái chấm xuống dòng. Mỗi chiếc kẹo là một cái chấm phẩy!”.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan có viết truyện ngắn “Người ngựa ngựa người” mà nhân vật chính cũng là người kéo xe... Riêng thi sĩ Tản Đà có viết “hài đàm” tựa Cái đòn cán và anh phu xe đọc thấy chua chát trong cái buổi giao thời thuở ấy:
“Có một anh phu xe nguyên ngày trước là phu cáng chuyển nghề. Từ ngày đi làm xe, anh ta hay học đòi nói năng kiểu mới. Một hôm anh ta định đem đòn cáng chẻ thành củi và nói rằng:
“Trước ta làm cùng mày thì hai đứa chỉ khiêng được một người mà cũng ì ạch. Giờ ta làm xe , một mình kéo được hai ba người mà lại chạy nhanh. Thế là văn minh, tiến bộ hơn”.
Đòn gánh liền đáp:
“Trước cùng tôi anh chỉ phải khiêng một nửa người. Bây giờ anh phải mang nặng gấp 4, 6 lần. Vậy mà đời sống và phẩm giá của anh chẳng hơn gì trước. Vậy thì văn minh, tiến bộ là phải, nhưng nên tiến lên làm người ngồi xe, và đừng làm người kéo xe”:
Đời thế anh ơi, thế cũng khoe,
Hết trò phu cáng lại phu xe!
Văn minh chừng mấy ki-lô mét?
Tiến bộ như anh nghĩ chán phè.


Lê Minh Quốc

Cảnh phu kéo xe tay trước khách sạn Morin (Đà Nẵng) năm 1900.

Cảnh phu xe trước khách sạn Métrpole (Hà Nội) trong thập niên 1920.


PDF