Nhà văn học văn: Nguyễn Công Hoan - mải mê học tiếng Việt
Lê Minh Quốc
Báo Phụ nữ
Về kinh nghiệm học văn để rồi sáng tác, đeo đuổi nghiệp văn, bài học mà ông thấm thía, tâm đắc nhất vẫn là phải nghiêm chỉnh học tiếng Việt: 'Học để hiểu tiếng khó, thêm tiếng mới'
Năm 1993, nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903-1977), Ban biên tập Báo Phụ Nữ TP.HCM phân công tôi hỏi chuyện về ông, qua con gái ông - nhà văn Lê Minh. Tôi hỏi: “Bút pháp của nhà văn Nguyễn Công Hoan có nét riêng biệt rất hiện đại mà sau này, nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Aziz Nesin cũng viết theo bút pháp ấy. Chị nghĩ sao về nhận xét này?”. Chị Lê Minh trả lời: “Tác phẩm của cha tôi đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Giới nghiên cứu nước ngoài đánh giá rất cao tài năng của ông. Tôi thấy họ so sánh Nguyễn Công Hoan với A.P. Chekhov”.
Một nhà văn được đánh giá ở tầm vóc như thế, thuở còn “mài đũng quần” ở Trường Bưởi (nay là Trường THPT Chu văn An - TP.Hà Nội), học chung với nhà thơ Tú Mỡ, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan… đã học văn thế nào?
Quả thật, cha đẻ của nhân vật Kép Tư Bền hồi nhỏ cực kỳ… láu cá, tinh nghịch, hay tìm những trò tinh quái để lỡm bạn bè. Ông có một niềm say mê không cưỡng lại được là đọc sách, đọc báo, dù các ấn phẩm ấy dành cho người lớn.
Ngày nọ, thầy giáo ra đề bài luận - Tả một đêm trăng trên Hồ Tây, ông bèn mở Đông Dương tạp chí, chép lại nguyên si bài Đêm trăng thú chơi Hồ Tây của Phan Kế Bính. Đến câu: “… mấy đóa hoa nở muộm mà vẫn xanh tốt”, dù không hiểu “nở muộm” là gì, Nguyễn Công Hoan vẫn chép y chang. Lúc chấm bài xong, thầy giáo nhẹ nhàng bảo: “Đây là chữ muộn chứ không phải muộm, nhà in chép sai đấy, anh không nhận ra à?" Nhà văn tương lai của chúng ta tái mét mặt mày.
Tình yêu văn chương ở một đứa trẻ không hình thành ngẫu nhiên mà từ nếp nhà. Với Nguyễn Công Hoan, do bố là huấn đạo (dạy học), bác đỗ đại khoa, vì thế trong nhà ông có rất nhiều sách. Bà nội thuộc dòng dõi nhà nho nên ngay từ bé, từ lời ru, lời ăn tiếng nói của bà, Nguyễn Công Hoan đã thuộc nhiều câu trong Truyện Kiều, Nhị độ mai… dù không hiểu nghĩa.
Lúc ông học Trường Bưởi, Đông Dương tạp chí xuất bản thành khổ nhỏ, có phần văn chương, Trung Bắc tân văn có phần Từ phú thi ca và Đoản thiên tiểu thuyết thì trong thời gian nghỉ hè, không ngày nào ông không đọc những bài đã in trong báo đó.
Không riêng gì thơ ca, những đoạn văn có vần điệu du dương, nhịp nhàng, ông cũng đọc đến thuộc lòng. Khi Nam phong tạp chí ra đời, phần Văn uyển là chuyên mục ông thích nhất. Từ chỗ thích đọc, khiếu văn chương còn thúc giục Nguyễn Công Hoan phải viết. Tương tự Nam Cao, Tô Hoài… ban đầu, Nguyễn Công Hoan cũng làm thơ, tất nhiên chịu ảnh hưởng sâu đậm của lớp người đi trước đã thành danh.
Lúc được làm quen với thi sĩ Tản Đà, đọc “Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có, cửa nhà thời không”, cái mộng dan díu với “nàng thơ” ở ông tắt ngúm vì thừa biết mình không thể sánh được với bậc đàn anh.
Năm 1920, vì chuyện xích mích trong gia đình, Nguyễn Công Hoan “phiêu lưu” lên Hải Phòng. Lúc này, Tản Đà vừa xuất bản Còn chơi và ra tạp chí Hữu Thanh. Đọc tập thơ này, ông nảy ra ý viết lại chuyến đi của chính mình. Quyết chí phiêu lưu ra đời, nhưng… không báo nào in.
Một nhà văn được đánh giá ở tầm vóc như thế, thuở còn “mài đũng quần” ở Trường Bưởi (nay là Trường THPT Chu văn An - TP.Hà Nội), học chung với nhà thơ Tú Mỡ, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan… đã học văn thế nào?
Quả thật, cha đẻ của nhân vật Kép Tư Bền hồi nhỏ cực kỳ… láu cá, tinh nghịch, hay tìm những trò tinh quái để lỡm bạn bè. Ông có một niềm say mê không cưỡng lại được là đọc sách, đọc báo, dù các ấn phẩm ấy dành cho người lớn.
Ngày nọ, thầy giáo ra đề bài luận - Tả một đêm trăng trên Hồ Tây, ông bèn mở Đông Dương tạp chí, chép lại nguyên si bài Đêm trăng thú chơi Hồ Tây của Phan Kế Bính. Đến câu: “… mấy đóa hoa nở muộm mà vẫn xanh tốt”, dù không hiểu “nở muộm” là gì, Nguyễn Công Hoan vẫn chép y chang. Lúc chấm bài xong, thầy giáo nhẹ nhàng bảo: “Đây là chữ muộn chứ không phải muộm, nhà in chép sai đấy, anh không nhận ra à?" Nhà văn tương lai của chúng ta tái mét mặt mày.
Tình yêu văn chương ở một đứa trẻ không hình thành ngẫu nhiên mà từ nếp nhà. Với Nguyễn Công Hoan, do bố là huấn đạo (dạy học), bác đỗ đại khoa, vì thế trong nhà ông có rất nhiều sách. Bà nội thuộc dòng dõi nhà nho nên ngay từ bé, từ lời ru, lời ăn tiếng nói của bà, Nguyễn Công Hoan đã thuộc nhiều câu trong Truyện Kiều, Nhị độ mai… dù không hiểu nghĩa.
“Cố nhiên là tôi đọc lại như vẹt, ngâm ngọng. Song do đó, niêm luật của thơ ca, nhạc điệu của ngôn ngữ được luyện vào óc tôi, được nhuần vào óc tôi từ ngày ấy” - ông cho biết.
Lúc ông học Trường Bưởi, Đông Dương tạp chí xuất bản thành khổ nhỏ, có phần văn chương, Trung Bắc tân văn có phần Từ phú thi ca và Đoản thiên tiểu thuyết thì trong thời gian nghỉ hè, không ngày nào ông không đọc những bài đã in trong báo đó.
Không riêng gì thơ ca, những đoạn văn có vần điệu du dương, nhịp nhàng, ông cũng đọc đến thuộc lòng. Khi Nam phong tạp chí ra đời, phần Văn uyển là chuyên mục ông thích nhất. Từ chỗ thích đọc, khiếu văn chương còn thúc giục Nguyễn Công Hoan phải viết. Tương tự Nam Cao, Tô Hoài… ban đầu, Nguyễn Công Hoan cũng làm thơ, tất nhiên chịu ảnh hưởng sâu đậm của lớp người đi trước đã thành danh.
Lúc được làm quen với thi sĩ Tản Đà, đọc “Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có, cửa nhà thời không”, cái mộng dan díu với “nàng thơ” ở ông tắt ngúm vì thừa biết mình không thể sánh được với bậc đàn anh.
Năm 1920, vì chuyện xích mích trong gia đình, Nguyễn Công Hoan “phiêu lưu” lên Hải Phòng. Lúc này, Tản Đà vừa xuất bản Còn chơi và ra tạp chí Hữu Thanh. Đọc tập thơ này, ông nảy ra ý viết lại chuyến đi của chính mình. Quyết chí phiêu lưu ra đời, nhưng… không báo nào in.
Sau khi đi chán chê, trở về quê, tình cờ ông đọc được bản dịch Ba chàng ngự lâm pháo thủ của A. Dumas. Thấy truyện hay, văn vui, tình tiết sắp xếp rất “nhà nghề” nên ông lại có hứng sáng tác. Không viết như truyện Quyết chí phiêu lưu, lần này ông viết ngắn hơn.
May mắn, chúng được chọn in trong tập Truyện thế gian của Tản Đà tu thư cục. Còn lại một số truyện ngắn, ông tự in thành tập, mang tên Kiếp hồng nhan. Tác phẩm này, về sau được các nhà phê bình xem như một trong những viên gạch đầu tiên đắp nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam.
Qua năm 1922, ông thi vào Trường Nam Sư phạm. Năm thứ nhất ở nội trú, kỷ luật rất nghiêm, đến giờ phải lên giường ngủ, nhưng đèn vẫn không tắt. Nhờ vậy, ông bắt đầu viết truyện dài Phải gió. Bạn bè đọc thử, thích thú cười rúc rích, giám thị xộc tới tịch thu tác phẩm, đem mách hiệu trưởng. Thầy hiệu trưởng Pujarnisele vốn là nhà thơ nên thông cảm với “nhà tiểu thuyết”, dù không phạt nhưng giữ riệt bản thảo, thế là Phải gió mất tích.
Những sáng tác này, Nguyễn Công Hoan còn viết bằng thứ văn biền ngẫu, chịu ảnh hưởng lớn từ Tản Đà. Nhưng do lòng yêu mến Tản Đà, ông rút ra bài học: không nên viết lối văn du dương như thơ kiểu Tản Đà nữa, vì không còn hợp thời.
Tình cờ đọc truyện ngắn Sống chết mặc bay và nhất là Tiếu lâm An Nam của Phạm Duy Tốn (thân phụ nhạc sĩ Phạm Duy), ông ngạc nhiên vì thấy “từ cách dùng chữ cho đến lối đặt câu, sao mà nó lọt lỗ tai và vẫn còn mới thế. Lọt lỗ tai và mới, tức là văn ấy vẫn còn như văn chúng ta nói, nó không cũ tí nào”.
Không chỉ học từ câu văn, Nguyễn Công Hoan còn học cả cách viết. Ngày kia, người bạn thân là Tương Huyền (anh ruột nhà văn Tam Lang) cho ông mượn tập truyện ngắn của Guy de Maupassant, Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo… để ông tham khảo về cách bố cục, dựng truyện… Với cách học và thực hành qua các truyện ngắn hiện thực phê phán lần lượt đăng trên báo chí thời ấy, Nguyễn Công Hoan ngày một tiến bộ.
Đến năm 1932, với tập truyện dài Những cảnh khốn nạn, tên tuổi của ông đã được bạn đọc tìm đọc. Năm 1935, tập truyện ngắn Kép Từ Bền đã đưa Nguyễn Công Hoan thành cây bút sáng giá, tầm cỡ cùng các đồng nghiệp đương thời như Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, Nhất Linh, Ngô Tất Tố…
Về kinh nghiệm học văn để rồi sáng tác, đeo đuổi nghiệp văn, bài học mà ông thấm thía, tâm đắc nhất vẫn là phải nghiêm chỉnh học tiếng Việt:
May mắn, chúng được chọn in trong tập Truyện thế gian của Tản Đà tu thư cục. Còn lại một số truyện ngắn, ông tự in thành tập, mang tên Kiếp hồng nhan. Tác phẩm này, về sau được các nhà phê bình xem như một trong những viên gạch đầu tiên đắp nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam.
Qua năm 1922, ông thi vào Trường Nam Sư phạm. Năm thứ nhất ở nội trú, kỷ luật rất nghiêm, đến giờ phải lên giường ngủ, nhưng đèn vẫn không tắt. Nhờ vậy, ông bắt đầu viết truyện dài Phải gió. Bạn bè đọc thử, thích thú cười rúc rích, giám thị xộc tới tịch thu tác phẩm, đem mách hiệu trưởng. Thầy hiệu trưởng Pujarnisele vốn là nhà thơ nên thông cảm với “nhà tiểu thuyết”, dù không phạt nhưng giữ riệt bản thảo, thế là Phải gió mất tích.
Những sáng tác này, Nguyễn Công Hoan còn viết bằng thứ văn biền ngẫu, chịu ảnh hưởng lớn từ Tản Đà. Nhưng do lòng yêu mến Tản Đà, ông rút ra bài học: không nên viết lối văn du dương như thơ kiểu Tản Đà nữa, vì không còn hợp thời.
Tình cờ đọc truyện ngắn Sống chết mặc bay và nhất là Tiếu lâm An Nam của Phạm Duy Tốn (thân phụ nhạc sĩ Phạm Duy), ông ngạc nhiên vì thấy “từ cách dùng chữ cho đến lối đặt câu, sao mà nó lọt lỗ tai và vẫn còn mới thế. Lọt lỗ tai và mới, tức là văn ấy vẫn còn như văn chúng ta nói, nó không cũ tí nào”.
Ông “nghiệm ra rằng, văn chương mà viết đúng như tiếng nói và lối nói của dân tộc thì nó hay, nó đứng vững mãi. Bởi vì ngôn ngữ của dân tộc là một thứ trường cửu, ít thay đổi vì thời thế”.
Không chỉ học từ câu văn, Nguyễn Công Hoan còn học cả cách viết. Ngày kia, người bạn thân là Tương Huyền (anh ruột nhà văn Tam Lang) cho ông mượn tập truyện ngắn của Guy de Maupassant, Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo… để ông tham khảo về cách bố cục, dựng truyện… Với cách học và thực hành qua các truyện ngắn hiện thực phê phán lần lượt đăng trên báo chí thời ấy, Nguyễn Công Hoan ngày một tiến bộ.
Đến năm 1932, với tập truyện dài Những cảnh khốn nạn, tên tuổi của ông đã được bạn đọc tìm đọc. Năm 1935, tập truyện ngắn Kép Từ Bền đã đưa Nguyễn Công Hoan thành cây bút sáng giá, tầm cỡ cùng các đồng nghiệp đương thời như Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, Nhất Linh, Ngô Tất Tố…
Về kinh nghiệm học văn để rồi sáng tác, đeo đuổi nghiệp văn, bài học mà ông thấm thía, tâm đắc nhất vẫn là phải nghiêm chỉnh học tiếng Việt:
“Học để hiểu tiếng khó, thêm tiếng mới. Đọc bài nào mà người viết không “hay chữ”, tôi cứ thấy như “ăn phở không người lái”. Học ở ngôn ngữ dân tộc, học ở văn học dân gian… Nghề của ta là nghề dùng tiếng để viết. Anh không giàu tiếng, thì đố ngòi bút của anh tung hoành được”.
Lê Minh Quốc
0 comments:
Đăng nhận xét
[im]your image url..[/im]
[youtube]your video url..[/youtube]
[si="10"]your text[/si]
[co="red"]your text[/co]
〈div style=""〉 TEXT〈/div〉