Xã-hội ba-đào ký
Chương trình năm năm
(1903-1977)
Trong: An Nam Tạp chí số 31 (05/03/1932).
Sưu tầm các tác phẩm của Nhà văn Nguyễn Công Hoan và các bài viết về Ông có trên mạng.
Tiểu thuyết Những cảnh khốn nạn, tập 1, dày 218 trang, viết trong thời gian ông dạy học ở Lào Cai, được xuất bản vào năm 1932.
Tiểu thuyết Những cảnh khốn nạn có 2 tập, tập 1 mang tên Tay trắng, trắng tay, tập 2 là Chiếc nhẫn vàng (chưa tìm thấy).
Những cảnh khốn nạn, tiểu thuyết (gồm 2 tập:
tập 1 Tay trắng trắng tay, PTBNS số 55;
tập 2 Chiếc nhẫn vàng, PTBNS số 58) năm 1940.
Này, cứ cái to lớn mập mạp của cô ấy, trông cũng đủ khiếp; vậy mà, cái mặt cô đỏ bừng, cái mắt cô quắc lại, cái mồm cô soạc ra, hàm răng cô rịp vào, gân cô nổi lên, cô nhẩy sồn sồn, cô thét the thé, cô sỉa, cô sói, cô đấm, cô vỗ, đùng đùng, đùng đùng, thì cứng bóng vía như tôi, nhưng mà eo ơi, mỗi khi đêm nằm một mình mà nghĩ lại, lại giật mình thon thót.
Người ta bảo cô ấy cao số, vì hai gò má cao phải kén kỹ nên muộn chồng nhưng mà nói ra sợ cô giận, chớ giá bà cụ B. nhà cô có gọi tôi mà cho không tôi cũng lạy cả nón, vì nhỡ lúc tôi bướng, cô lại nổi tam bành cả với tôi, thì tôi bỏ sừ. Vả chăng vì cái dáng õng ẹo lúc đứng ngồi, cái lượt nước hàng phiết trên mặt, lúc nào cũng có nói khoác cho cô, nhưng tôi tìm mãi không thấy cô ấy nõn nà ở chỗ nào cả, mà động tôi gặp cô đi phố, thì tôi lại nhớ đến câu cô ấy rủa ông Y.
- Ai ngờ cái nhà ông ấy thế mà Sở Khanh, lấy họ non rồi ỳ sác ra đấy, bây giờ đổi về Hà Nội thì ai biết nhà ở đâu mà lên đòi.
Thôi chẳng cần ân tình gì nữa chẳng cần nể nang gì nữa, chẳng ông với ênh đếch gì nữa, phen này bà gặp mày ở Hà Nội mà bà không sé nhỏ được sác mày ra thì bà không nghe.
Cô còn tuôn hàng cột những câu can hệ đến gia phả nhà ông Y., và những tiếng, hễ tôi nói ra thì các ngài bảo là thô tục nữa kia!
Bà B. mẹ cô cũng tức lắm, đã chịu khó đi hỏi giò xem từ ngày ông Y. ở D., đổi đi Hà Nội, thì làm ở Tòa nào, và thuê nhà ở đâu? Nhưng chẳng ai biết cả.
Có người bảo ông ấy thuê nhà ở Hàng Bông, nhưng không biết số nhà một trăm bao nhiêu, có người bảo ông ấy mới lấy vợ cô đầu dưới Khâm Thiên, và vẫn cho vợ dọn nhà hát để kiếm thêm lời lại có người bảo ông ấy đã thôi việc nhà nước, và chốn đi đâu mất rồi vì chót hà lạm vào một món tiền công, sở dĩ ông Y. cứ phải dấu kín chỗ ở, hẳn vì ông ấy nợ nhiều quá, mà muốn lánh mặt cho nên chính những người bạn, thân đến đâu thì thân, đố ai biết đích ông ở đâu đấy? Có một lần người bạn nối khố với ông, ở tỉnh D. tình cờ, bắt gặp ông lơ phờ ở ngoài đường, vồn vã hỏi nhà ông để đến chơi, thì ông bảo: Tao ở phố Hàm Long số 25.
Lúc đến thì té ngay ra nhà một ông tham canh nông, suýt bị chó đuổi cắn chết.
Ngày ông còn làm việc ở tỉnh D. ông thuê bên cạnh nhà bà B. đẻ ra cô X.
Bà B. giầu lắm, thuờng vẫn cho vay mượn một vốn bốn lời, và cầm cái nhiều bát họ, mà vì cô X. có cái óc kinh tế thạo hơn mẹ, cho nên bao nhiêu công việc về tiền nong, bà B. phó thác cho cô chủ chương cả. Ông Y. trẻ mà hay chơi thường lương tháng nào lĩnh về chỉ nằm tạm trong túi trong mấy giờ rồi rủ nhau tẩu thoát hết cả. Vì vậy muốn sắm ăn, sắm mặc, ông phải nhờ người đến giỗ ngon giỗ ngọt với bà B. và cô X. cho vay bốn trăm trả dần làm hai mươi tháng mỗi tháng hai mươi đồng. Ấy theo trong biên lai thì cái món tiền vay chững chạc như thế, nhưng thực ra phải tiền hoa hồng, và trừ đầu trừ cuối, ông chỉ được tiêu có hơn hai trăm.
Ông đóng sòng phẳng được hai tháng, rồi ông có nghị định đổi về Hà Nội. Trước khi lên đường ông có đến chào bà B. và dặn ngọt ngào rằng:
- Rồi cứ đầu tháng cháu lĩnh lương, sẽ gửi măng-đa về hầu cụ.
Thế cho nên phàm vật gì ngọt ngào cũng dễ nuốt cho nên ông Y. cũng nuốt trôi ngay lời giặn ngọt ngào mà bà B. thì đắng như ngậm bồ hòn một tháng, hai tháng, chờ chẳng thấy thư từ, hỏi chẳng biết tin tức nên mỗi khi mẹ con nói chuyện đến cái món nợ 400$ của ông Y. thì sốt ruột, bà B. lại cáu, cô X. lại nổi tam bành: cái mặt cô đỏ bừng, cái mắt cô quắc lại, cái mồm cô soạc ra, hàm răng cô rít vào, gân cổ cô nổi lên, cô nhẩy sồn sồn, cô thét the thé, cô sỉa, cô sói, cô đấm, cô vỗ, đùng đùng, đùng đùng, thì, cứng bóng vía như tôi, nhưng mà eo ơi, mỗi khi đêm nằm một mình mà nghĩ lại, lại giật mình thon thót.
Ai ngờ cái nhà ông ấy thế mà Sở Khanh, lấy họ non rồi ỳ sác ra đấy, bây giờ đổi về Hà Nội thì ai biết nhà ở đâu mà lên đòi. Thôi chẳng cần ân tình gì nữa chẳng cần vẻ vang gì nữa, chẳng ông với ênh đếch gì nữa, phen này Bà gặp mày ở Hà Nội bà chẳng sé nhỏ được sác mày ra, thì bà không nghe.
Nói xong cô X. thu xếp va-li quần áo, đi Hà Nội quyết tìm cho được vết chân ngựa truy phong.
Ba hôm sau cô trở về, xe vừa đặt bịch xuống trước cửa, cô đã hầm hầm nói với mẹ:
- Chẳng tìm thấy nó đâu, rõ tức quá lại mất thêm mấy đồng bạc hành lý.
Rồi mẹ con cũng tự tìm câu an ủi nhau để dẹp nỗi bực mình. Hai tháng sau mẹ con nhân nói đến chuyện một cô bạn cô X. sắp cưới rồi dây dưa thế nào lại khơi đến cái bát họ 400$. Bà B. nóng như lửa, gắt um làm cho cô X. thương mẹ và tiếc tiền, lại nổi tam bành với...quân sỏ lá, cái mặt cô đỏ bừng, cái mắt cô quắc lại, cái mồm cô soạc ra, hàm răng cô rít vào, gân cổ cô nổi lên, cô nhẩy sồn sồn, cô thét the thé, cô sỉa, cô sói, cô đấm, cô vỗ, đùng đùng, đùng đùng, thì, cứng bóng vía như tôi, nhưng mà eo ơi, mỗi khi đêm nằm một mình mà nghĩ lại, lại giật mình thon thót.
Thế rồi sáng sớm hôm sau cô lại sắm sửa đi Hà Nội quyết lần này không chịu về không như lần trước.
Rõ thật hão quá, Hà Nội hàng mấy trăm phố, hàng mấy nghìn nhà, hàng mấy mươi vạn con người, mà đi tìm một người cố ý trốn tránh, lẩn lút thì tìm sao được? Thế cho nên vài hôm sau cô X. lại về không chẳng nên lấy làm lạ.
Nhưng cũng đáng phàn nàn cho cô lượt này đi Hà Nội ngơ ngẩn thế nào cô để cho kẻ cắp nó cắt mất túi, lấy mất 200$ mang lên định buôn hàng. Thế là số cô đen, cho vay mất nợ, đi buôn mất cắp, rõ cái lão Y. nó làm hại đơn, làm hại kép nhà người ta.
Việc buồn muốn rập đi chẳng xong, một hôm có người đến chơi lại gợi đến chuyện ông Y. quỵt nợ, khiến cho bà B. lại tiếc mà cô X. lại nổi tam bành, cái mặt cô đỏ bừng, cái mắt cô quắc lại, cái mồm cô soạc ra, hàm răng cô rít vào, gân cổ cô nổi lên, cô nhẩy sồn sồn, cô thét the thé, cô sỉa, cô sói, cô đấm, cô vỗ, đùng đùng, đùng đùng, thì, cứng bóng vía như tôi, nhưng mà eo ơi, mỗi khi đêm nằm một mình mà nghĩ lại, lại giật mình thon thót.
Cô lại lên Hà Nội quyết phen này gặp được thằng sỏ.
Thế nhưng cũng lại như mấy lần trước, ở Hà Nội mấy hôm cô tâng hẩng về không.
Ấy đã ngót một năm nay cô X. nổi tam bành với ông Y. đến hàng mấy mươi lượt, mà bao giờ lúc cơn giận lên, cô cũng làm kịch liệt vùng vằng đi Hà Nội, mấy hôm không gặp, cô về cô lại than thân vừa mất mấy chục đồng bạc hành lý, vừa đeo thêm cái nhọc sác, vì mỗi khi đi về như thế, cô X. ngủ mấy ngày không lại, bỏ cả bữa cơm.
Nhưng nếu tháng tháng cô lại phải nổi một cơn tam bành, nhưng thế mà lần nào cái kết cục cũng vậy, thì gần như cái chương trình rồi còn gì nhầm và dại nữa, vậy mà cô X. vẫn không chừa là tại làm sao?
Là tại rằng chính một hôm tôi cùng đi một chuyến xe lửa với cô X. lên Hà Nội. Khi xe tới hành khách đông, đương lô nhô chen nhau xuống sân ga, thì lúc đi đường tôi nghe thấy tiếng người quen gọi ở đằng sau rằng:
- Đây kia mà!
Tôi quay lại thì ra ông Y. đương đi theo tôi có ý vội vã, tôi tưởng ông Y. gọi tôi, tôi mừng quá đứng lại chờ, giơ tay bắt và nói khẽ vào tai bạn:
- Chết, chốn đi, cô X. đi đằng trước kia kìa... anh có trông thấy không?
- Biết rồi, tôi xin lỗi anh nhé, để bận khác.
Nói xong ông Y. lại bắt tay tôi, và rảo cẳng bước mau, rồi lại gọi:
- Đây kia mà, đằng sau này kia mà!
Tôi nhìn theo ông Y. mà trống ngực thòm thòm, sợ thay cho bạn, bạn sắp bị sé nhỏ, sao không rẽ cương ngựa truy phong đi cho thoát nạn, vì lúc nào tôi cũng tưởng tượng đến cái tấn kịch nổi tam bành, cái mặt cô đỏ bừng, cái mắt cô quắc lại, cái mồm cô soạc ra, hàm răng cô rít vào, gân cổ cô nổi lên, cô nhẩy sồn sồn, cô thét the thé, cô sỉa, cô sói, cô đấm, cô vỗ, đùng đùng, đùng đùng, thì, cứng bóng vía như tôi, nhưng mà eo ơi, mỗi khi đêm nằm một mình mà nghĩ lại, lại giật mình thon thót.
Tiếng gót giầy nện xuống gạch kêu bôm bốp, ông Y. đi càng nhanh tôi vẫn trông, thì thấy lúc đến sau lưng cô X. ông vỗ vào vai mà nói:
- Mợ, tôi đây kia mà, gọi mãi.
Cô X. quay lại mừng rỡ, đưa va-li cho ông Y. sách rồi hai người cùng đi ngang với nhau, cười nói chuyện trò những gì rất thân mật.
Thì ra, thế là cái quái gì. Mỗi bận cô X. tôi nổi tam bành, thì ông Y. tôi lại được một phen cơm no bò cưỡi. Thảo nào, không trách cô cứ quen mui nổi tam bành luôn luôn!
Để hiểu rõ hơn quan niệm về sự tự do và thói thích đùa bỡn này của Nguyễn Công Hoan, chúng ta còn có thể dừng lại ở một cuốn tiểu thuyết tác giả cho in ở NXB Đời mới vào thời gian ngay sau 2-9-1945 do đó mà ít người biết, là cuốn Người An nam. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện một viên tướng Việt Nam thời nhà Lê bị bắt làm tù binh, rồi trở thành rể vua Chàm. Nhưng dòng máu Việt trong người viên tướng này vẫn chảy mạnh, cuối cùng khi quân Việt đánh vào thành, nhân vật này lập công quay về với Tổ quốc bằng cách quay ra giết vợ và làm nội ứng cho quân Việt tràn vào. Sau hành động yêu nước ấy, viên tướng phát điên.
Chúng ta biết rằng đôi lúc trong truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan cũng viết về những đề tài mà ông chỉ biết qua tài liệu sách vở. Như năm 1939, ông có một thiên truyện mang tên Thiếu Hoa viết về một nhân vật phụ nữ miền nam Trung quốc. Lần này lại một sự xa lạ nữa, chắc chắn còn xa lạ hơn Thiếu Hoa vì là truyện về thời đã qua. Đối với một nhà văn từng nói chắc như đinh đóng cột rằng “người đọc truyện chỉ thích đọc những truyện gần với họ, gần về không gian về thời gian“ – thì đây quả là một ngoại lệ. Nhưng như lý luận về nhận thức luận đã chỉ rõ, chính các ngoại lệ lại bộc lộ bản chất rõ hơn là các trường hợp thông thường. Trong lời dẫn đặt ở đầu sách Người An Nam, sau dòng chữ Bạn đọc yêu quý, tác giả có hai trang tạm gọi là lời phi lộ trong đó có đoạn ông biện hộ cho cách viết của mình:
“Tôi không biết tiếng Chiêm Thành thì những người Hời của tôi chỉ được nói tiếng Nam bằng giọng đặc Việt Nam. Tôi không là người Chiêm Thành sống năm trăm năm về trước thì các chủ động trong truyện này cũng không thể tư tưởng theo lối họ về thời ấy. Và đến cả khung cảnh, ngôn ngữ, cách ăn mặc, cách sinh hoạt dù ngay của người mình về đời Lê, đã không ở vào thời đó thì tả sao nổi. Vả biết thế nào là đúng”.
Tiếp đó, tác giả nói về mình theo cái lối thật thà đến mức ngạo mạn“Vậy tôi dùng tư tưởng của tôi. Tôi dùng tưởng tượng của tôi. Tôi dùng ngôn ngữ của tôi. Tôi trông ở sự rộng lượng của các bạn”
“Xin các bạn chớ đợi cuốn sách này một lịch sử tiểu thuyết hoặc một lịch sử ký sự. Tôi chỉ là một nhà tiểu thuyết, một nhà tiểu thuyết tầm thường, tồi hơn nữa một nhà tiểu thuyết ít đi, ít đọc. Bấy lâu nay sở dĩ được hân hạnh quen biết các bạn là do chỉ đã khai khẩn địa hạt nhà, đào trong trí nhớ lấy những cái mắt thấy tai nghe rồi dùng sức óc chắp nối, thêm bớt cho thành những câu chuyện nhăng nhít”
Tuy nhiên đằng sau những lời lẽ xô bồ và có vẻ lỡm đời đó, ngầm chứa một ý tưởng khác: tiểu thuyết đã là chuyện của tôi, tôi (tức Nguyễn Công Hoan) vầy vò nó thế nào nó cũng phải chịu, nói xuôi nói ngược thế nào thì rồi mọi người cũng phải nghe. Cái nháy mắt tinh nghịch đi kèm với một sự hể hả khoái trá không muốn và không thể che giấu.
[...]


