2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF(NXB Dương Xuân Thư Quán, 1932)
4. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
1 Kênh 2 Video
Phần 2
Mời đọc Bản đánh máy
Những cảnh khốn nạn
Tập 1 Tay trắng, trắng tay
(1903-1977)
Tiểu thuyết Những cảnh khốn nạn, tập 1, dày 218 trang, viết trong thời gian ông dạy học ở Lào Cai, được xuất bản vào năm 1932.
Tiểu thuyết Những cảnh khốn nạn có 2 tập, tập 1 mang tên Tay trắng, trắng tay, tập 2 là Chiếc nhẫn vàng (chưa tìm thấy).
Những cảnh khốn nạn, tiểu thuyết (gồm 2 tập:
tập 1 Tay trắng trắng tay, PTBNS số 55;
tập 2 Chiếc nhẫn vàng, PTBNS số 58) năm 1940.
Để đọc, xin nhấp chuột vào chương muốn xem.
Những người đứng trước rạp tuồng không ai chú ý xem hát cả, họ chỉ túm tụm nhau để nói chuyện ầm ầm, vì rạp tuồng này là của sòng bạc mở ra cho người xem không. Các ngài thử lắng tai nghe xem họ nói những gì? Thưa toàn là chuyện được thua đen đỏ cả. Mấy anh xe, đứng chéo kheo, giơ chỏng càng lên trời, nào là tối hôm qua đằng này được hai đồng, đằng này thua ba đồng; mấy bác lao động quần áo xanh, guốc lê lộp cộp, cũng rằng tối nay quyết gỡ cái hai chục hôm qua; mấy nhà buôn bán, mấy ông tòng sự các sở cũng rằng cái thằng khách đầu hạt mít sóc khó đánh, hôm nọ moa được trăm rưởi mà hôm qua đã nướng mất trăm hai!
Ấy, thưa các ngài, họ nói chuyện thế thì còn thú vị gì nữa, xin mời các ngài quá bộ vào hẳn trong sòng bạc mà xem, chỉ cách đây độ hai mươi bước.
Xin các ngài chú ý đến cái người thiếu niên thon thon, cao cao, đang lững thững chống cái ba-toong bằng song, đi ở đằng kia, chính người mà tác giả sắp kể chuyện đó.
Người thiếu niên ấy, trạc độ hai nhăm, hai sáu tuổi. Giữa cái mặt xương xương, ai trông thấy cũng phải chú ý, là cái đống mũi mọc gồ cao lên, sùi sùi mà đo đỏ. Cái mũi ấy tò mò quá, lúc nào cũng hình như cố ngó xuống mồm, xem nếu có cười thì nó được ngắm hai cái răng cửa khểnh vậy. Nhưng, số cái mũi ấy cũng đen, chẳng may thác sinh vào ông chủ này, thì không được thỏa hy vọng bao giờ, vì cái miệng không cười mấy khi, có mở ra, là chỉ dùng để gắt gỏng hoặc cãi nhau mà thôi. Mà chính lúc cái miệng mở rộng hai cánh cửa ra để gắt gỏng hay cãi nhau, thì mũi ta cũng không nước gì, vì hai con mắt ti hí nó quắc lại, và cái trán răn lại ở trên, nó lôi anh mũi ta phải kéo ngược lên một tí. Thấy cái mũi ngộ nghĩnh, ấy thì tác giả gọi là mũi tò mò, nhưng chắc các ngài bẻ ngay rằng là cái mũi dòm mồm, tướng người nghèo vậy.
Quả thế, thiếu niên mặc áo sa-tây chơn, mạng nhiều chỗ; nhưng đến cái khuỷu tay thì sơ sác hẳn, không thể mạng vào đâu được. Cho nên nó chơi khoăm, hợp tác với anh bạn đồng nghiệp là khuỷu tay áo trắng, để về hùa với nhau, bêu lòi cái tay áo cộc cháo lòng của chủ ra. Tóc thiếu niên chôn lấp cả hai tai, vậy mà lại đội cái mũ giạ hói, cơ chừng lâu ngày cho nên cái mụ ấy bị phong trần đầy đọa mà nhẵn cả tuyết. Thiếu niên dận một đôi, âu là tác giả hãy chịu mang tiếng là nói khoác để đánh bạo gọi là đôi giầy cho nó hợp tên cũ của nó vậy! Đôi giày ấy, trước là kiểu Gia Định, nhưng nay không biết nó thành kiểu gì, vì lúc nào nó cũng há nửa mõm ra, trông như cái bị thủng, khiến cho thiếu niên mỗi lần giận nó là một lần nhiệt thành với thể dục, nghĩa là phải lấy hết gân mà quặp năm đầu ngón chân lại, thì lê mới được chặt chẽ. Tác giả không biết tướng, nhưng cũng có thể đoán được là hẳn đôi giầy này số nghèo, vì lúc nào cũng đói cơm!
Thiếu niên đi thủng thỉnh đến trước cửa sòng, thì vừa nghe thấy một hồi trống cái: trống đánh báo cho mọi người biết là mở đố chữ. Lúc ấy, các người ở rạp tuồng kéo nhau ồ cả lại để nhìn lên trên khung cửa xem họ mở ra chữ gì. Cuộn vải đen kéo ra, người thì thở dài, người thì vỗ tay, như học trò xem bảng thi; thực là một cảnh náo nhiệt.
Bỗng có người vỗ vào vai thiếu niên hỏi rằng:
- Thế nào? Sừ ký Gồ có trúng không?
- Nào có đánh đâu mà trúng! Trưa hôm nay, lúc ở sở về, tôi thoạt gập con chó chết, đã toan đánh chữ Phúc Tôn, nhưng lại còn rụt rè. Vì tôi sợ như lần trước, buổi sáng mình đánh chữ Nhật Sơn thì không trúng, mà buổi tối thì mở ngay Nhật Sơn! Rõ khỉ quá, mộng với mị!
- Thật là anh chó chết!
Thưa các ngài, ký Gồ là tên thiếu niên vậy. Gồ là biệt hiệu của thiếu niên; vì thầy ký Gồ mũi. Anh em bạn đặt tên riêng cho thế, mà người ngoài cũng gọi quen như thế. Cho nên ai thấy ký Gồ cũng hiểu ngay là thiếu niên. Tác giả cũng chẳng cần giới thiệu tên thật thiếu niên là gì, e mếch lòng người trùng danh hiệu.
Thiếu niên nghe quen tai, cũng không lấy làm xấu xí nữa. Thực vậy, giả sử ai có nịnh mà gọi là "tiên sinh Mũi cao thượng", thì bất quá giá trị cái mũi cũng chỉ có ngần ấy thôi.
Thầy ký Gồ bước lên thềm, mấy chị hàng nước chanh chỉ trỏ thì thào với nhau:
- Này, hình như đã ngót mười hôm nay, chúng ta không trông thấy mặt thầy ký Gồ ở sòng đấy nhỉ?
- Có lẽ thầy ấy đánh ở sòng Cốc Lếu hay Trấn Phòng chăng?
- Hay là bà "Đầm Thi" giữ thầy ấy ở giường?
- Chị đừng nói láo, tôi vẫn gặp thầy ấy đi làm mà!
- Thôi, phải rồi, chị có nhớ tối hôm nọ, thầy ấy thua, suýt nữa choảng nhau, hai cái cốc của chị tí nữa vỡ oan không?
- À, hôm ấy thầy ấy thua hết tiền. Nghe đâu vừa lĩnh lương về, có bao nhiêu cúng cả vào đấy. Có lẽ vì thế mà lâu nay vắng mặt?
- Cờ bạc đỏ đen, biết thế nào? Chả có tối chỉ độ hơn một giờ mà thầy ấy được dăm bẩy trăm là gì?
Như vậy, thầy ký Gồ thật là một tay con bạc trước đánh ở sòng Lào Cai này. Cứ xem cách ăn mặc tồi tàn của thầy, cái dáng điệu bơ phờ của thầy, đủ biết là một tay lão tướng đã từng phen bị đạn ở nơi chiến địa kim tiền này, mà mấy hôm nay đã dùng nhiều tâm trí chủ ý định bầy một thế trận mới vậy.
Thầy Ký vào trong nhà, đi rẽ sang tay trái, ngó qua bàn phán thán. Thầy không thích phán thán, nhưng vì máu mê nên cũng liếc mắt qua một tí cho đủ lệ làng chơi. Chính thì thầy chỉ mặn đánh sóc đĩa, cho nên rồi thầy đi ngay vào mé trong.
Vừa đi vừa nhìn qua các con bạc một lượt. Mặt các con bạc cũng không khác gì mặt thầy ta; lố nhố kẻ ngồi người đứng chung quanh cái bàn chữ nhật, thấp mà dài dằng dặc. Anh thì má lõm mắt quầng, anh thì môi thâm da sạm: một ngọn đèn điện treo trong cùng, mấy cây đèn dầu bám vào vách, chiếu vào mặt các con bạc, thành ra người thì vàng bủng, người thì xanh lướt; cái quạt tây tàng, bay kĩu kịt; hai bức tường cũ vôi đã vàng, trông thật là xứng đôi vừa lứa với những cái mặt bủng da chì kia vậy.
"Ta vào đây, trong bụng những hy vọng lúc ra thì sẽ được giường cao chiếu sạch, quần nọ áo kia, mà biết đâu là cái kết cục của sự hi vọng của ta đã vẽ nên một bức tranh khốn nạn treo trước mắt. Thế thì chẳng hóa ra ngốc lắm ru? Cái ngốc này là cái ngốc chung của người đời ham sự sống".
"Cuộc đời, ngẫm kĩ mà xem, có khác chi cái tấn kịch hiện ra trước mắt ta bây giờ không? Cái tấn kịch đời người thì ông Tạo hóa bày ra rất ác nghiệt, mà cái tấn kịch đánh bạc thì ông chủ sòng mở ra, cũng chẳng nhân đức gì. Hai cái tấn kịch ấy, đem mà đối chiếu với nhau, có khác nhau chút nào đâu? Ta ở ngoài sòng, thì chưa có sự vui buồn gì cả, cũng như khi ta chưa đẻ ra, thì chưa biết cái sướng khổ là gì. Bước chân vào mà đánh, thì chứa chan những hy vọng giàu sang".
"Ta vào trong cái buồng này, ngắm qua những cái mặt kia, có ai là vui vẻ? Người được thì mong được thêm, người thua thì mong gỡ lại, rút cục lúc tan, chỉ rặt thấy nhăn nhó. Thế thì mỗi người đánh bạc, là một cái hình ảnh của một thời gian trong cuộc đời; bởi vì ở đời toàn sự đau đớn; giản hoặc trong đám nhăn nhó đó, có vài người được tươi cười, nghĩa là ở đời được vài phen sung sướng, nhưng lúc về già, phần nhiều ai cũng một cảnh ngộ. Ở đời, biết khổ mà vẫn phải sống, sống để lo cho thoát khổ; muốn thoát khổ mà đến phải lo, lo rồi mà vẫn phải khổ. Vô vị đê tiện đến cuộc đời là cùng!"
"Đánh bạc đã khốn nạn, mà còn nhiều người dám quai mồm ra mà phân nhiều hạng đánh bạc; tổ tôm thì quân tử nhã nhặn; xóc đĩa ích sì thì là bóc lột nhau. Thế nhưng ta tưởng cái tư cách anh đánh bạc như nhau hết, mà đã đánh để được thua nhau bằng tiền, thì toàn là quân ăn cắp cả! Thằng ăn cắp này chê thằng ăn cắp kia, thì thà rằng bịt mũi ăn dơ, người ta còn thương được. Không bằng lũ trẻ chăn trâu ngồi gốc đa, đánh tam cúc tẹt mũi còn cao thượng hơn!"
"Ta lại nghĩ đến mình ta; ý ta định mang đi rõ nhiều tiền, mà chỉ có đánh một mặt. Nếu được cái đầu, thì lại đánh; đánh mà còn được thì còn theo, thua cái đầu thì séo thẳng. Song, nếu đánh cái đầu mà thua ngay, thì cái thứ hai đánh lên gấp hai; nếu lại thua nữa thì đánh lên gấp hai nữa. Không bao giờ tiếng bạc rền mãi, tất có nước hồi lùng, thì số tiền thua, một tiếng có thể gỡ được gần đủ. Đánh như thế thì chỉ có phần được hoặc hòa thôi. Khốn nỗi, nếu bao sự hành vi mà được như ý mình định cả, thì còn ai oán trách ông Xanh lừa lọc. Bởi vì ở đời còn có những hoàn cảnh, có những cảnh ngộ, có những hi vọng, nó dối, nó hại người ta kia. Bởi vậy nghĩ thì khôn, mà làm thì dại, cho nên sòng bạc mới thu nổi mỗi tháng dăm sáu nghìn bạc hồ".
"Kìa, ta hãy trông một lượt các con bạc mà xem. Mặt mũi, quần áo, có khác gì lũ quỷ hiện hình ra trên bãi tha ma không? Bề ngoài đã không có hình người, mà bề trong lại là súc vật. Họ vào đây để bóc lột nhau, họ có nói chuyện gì với nhau đâu? Hai mắt họ còn chăm chắm xuống cái chiếu tiền, mỗi lần mở bát, tức là đổi một cảnh đắc ý hoặc thất vọng vậy. Cái xã hội toàn người đồng chí, cùng theo đuổi một mục đích là trục lợi, mà chính thì toàn là cừu định".
"Ta nghiệm trong đám tổ tôm thường thấy ai được lúc ù luôn, thì bị cả làng ghét, xâu xúm nhau lại, nào ăn kim nào phỗng bửa, để làm hại. Nhưng sau, nếu rồi chính người ấy bị vào hồi đen, thì lại đồng minh ngay với bọn đen khác mà đánh đổ nhà đỏ mới".
"Vậy thì nguy hiểm thay là cái vận đỏ, độc ác thay là cái lòng người! Họ ghét gì? Họ ghét cái đỏ, họ ghét vì cùng góp tiền đều nhau, mà tự nhiên vô cớ, cứ một mình mình lấy mãi.
Cái cuộc tranh nhau ăn này, chả cứ gì các con bạc là hạng người có cái óc hèn mạt, ngay như các nước khác cũng mắc phải cái thói xấu xa ấy. Sở dĩ còn những chuyện đánh nhau lở đất long trời, máu sông xương núi, chẳng qua chỉ tại một nước ù nhiều quá mà thôi!"
"Vậy suy cuộc tổ tôm, còn nước nào còn mong xoay bài gò cố lấy cái tôm, cái lèo, cái thập hồng bạch định nữa hay thôi? Tôi không đánh bạc cùng anh, thì đôi ta là bạn thiết; sau lúc chia bài thì anh cùng tôi, đôi ta cùng liệu hồn! Nhưng, sau cuộc đỏ đen, thì tình bè bạn lại khăng khít như cũ! Nực cười chưa? Vậy ra đồng tiền mà còn thế lực, thì trách chi ai cặm cụi đêm ngày mài nanh giũa vuốt?
Lúc túi ta đã nhẵn nhụi như chùi, lủi thủi bước ra, có gập anh chủ sòng, thì anh ta cũng hỏi thăm được thua. Nó buồn mồm thì nó hỏi chơi, chứ nó thương gì mình. Nó thương mình thì nó đã khuyên mình đừng đánh. Nó hỏi thăm, tức là nó chửi bóng ta đó, nghĩa là nó bảo: "Mày còn ngắc ngoải thì mai mày sẽ chết thực!"
"Bây giờ ta vào làm gì đây? Để nhìn mặt các con bạc, tức là nhìn những cột cái nhà sắp đổ, hay là để hối lại cái cảnh huống của gia đình ta vì ta đã quá dại dột mà gây nên?"
Thầy ký Gồ vừa nghĩ vừa nặn râu ở cằm như thế, thì chợt anh Khách sóc cái rao to:
- Pán lê-ể... Pẩy mươi tồng. Pán lê-ể-ể... Sáu mươi tồng. Mải tán... lộc sập mắn!
Anh hồ lỳ ra công quẳng tiền trả con bạc, hoặc "kẻm" vào giữa, cho hai bên chẵn lẻ cân nhau, mà con bạc thì cứ ấn chặt lấy tiền mình để giữ lại.
Anh sóc cái lại rao ầm lên, thì bỗng trên gác có tiếng gọi:
- "Hối bỉ sường cấu! Màn màn!"
Mấy trăm con mắt ngước cả lên trên gác xem, thì thấy cái thúng con giòng giòng từ trên xuống, đựng đầy những bạc.
- Tủ soóng!
Tiếng sì sào ầm ầm: chắc mua lẻ thế nào cũng được.
- Ai đánh chẵn ở trên gác thế?
- Ông ký Học đấy, chính ông mua cái lẻ này đấy.
Cái bát mở ra: Chẵn! Thầy ký Gồ nhìn hai đồng tiền ngửa sáng lòe mà mướt mồ hôi!
"Ừ, giá ai liều mà không có tiền cũng cứ mở bát, thì có lẽ cũng được. Ở đời chỉ có những thằng vừa liều vừa gan mới chóng bốc lên giầu to. Xưa nay những thằng tay trắng mà nên thiên ức vạn tải, phần nhiều là những thằng có thể bịt tai nghe chửi được cả!"
Bên tai xôn xao tiếng người bàn tán:
- Bạc dễ đánh quá, còn chẵn.
Nhà cái úp bát vào rồi sóc, rung thạo như hồi chuông báo sân khấu sắp kéo màn.
Ký Gồ chú ý vào chiếu bạc. Hai bên cân nhau cái bát mở ra: Ngửa tư! Nhà cái gãi cái đầu nhẵn thín, nhìn những con bạc một lượt như cũng có ý chia vui. Cái thúng lại giòng từ trên gác xuống để tải một cuộn bạc giấy lên...
- Thầy ký Gồ không lếnh lại xêm à?
- Không mang tiền đi!
Người khác nói:
- Thưa quan, giá quan đắt hai tiếng vừa rồi thì được khối tiền; quan ký Học ở trên gác đắt mấy tiếng trúng tệ, được dễ ngót hai trăm rồi đấy! Thực là cờ bạc hay đãi tay mới, xưa nay ông ấy có biết đánh gì đâu?
Thầy ký Gồ liếc mắt vào chỗ vỉa bài, thấy mới có hai cái chẵn, mà bên tai, ai cũng đoán còn những hai cái nữa mới xoay sang lẻ.
Đã không muốn đánh bạc thì đừng bén mảng đến sòng, chứ mà vào sòng thì ngốt lên về bạc. Tiếng rung tiền còn giục giã lòng người hơn tiếng kèn gọi quân, cho nên thầy ký Gồ móc túi thả ngay ra đồng bạc cho đầu vào đội cảm tử! Thầy đánh chẵn.
"Cả nhà cơ nghiệp ta chỉ còn có hai đồng, mà mai phải đi sớm, hành lý ít ra mất hàng chục, không rậy hóa thì làm thế nào? Ừ, ta nghĩ như lúc nẫy thì phải thực, nhưng cái khó bó cái khôn, cái cảnh ngộ nó ép mình thì sao?"
Đồng bạc nằm ẹp mình xuống chiếu, nhưng quạt tây đưa đi đưa lại, nó cứ rình nhảy phắt lên. Chẳng biết điềm hay hay điểm gở, thầy ký Gồ bèn lấy hòn sỏi chặn lên cho đỡ lo. Bao nhiêu hy vọng đều ẩn núp trong đồng bạc mong manh ấy. Nó sẽ làm thành ra hai, ra bốn, rồi sinh ra con ra cháu đầy đàn, kéo cả nhau chui vào làm cho toác ví thầy ra.
Bỗng một tiếng làm cho thầy giật nẩy mình: Lẻ! Thôi thế là thầy thua. Cờ bạc quả là có ma nó dỗ người ta thực!
Mặt thầy ký Gồ tái như gà cắt tiết, đứng im như tượng gỗ, vì trong trí biết bao nhiêu lâu đài, trại ấp, biết bao nhiêu tủ bạc, ô tô, nó huỳnh huỵch nó kéo nhau chạy hết.
Trong túi thầy còn đồng bạc. Chẳng hay đồng bạc này nó sẽ có nghĩa mà kiếm thêm trăm nghìn vạn bạc cho chủ, rồi cùng nhau khuân lại cho chủ những lâu đài trại ấp, kéo lại cho chủ những tủ bạc ô tô, hay là nó cũng bạc bẽo nốt, mà ly dị cái ví rỗng tuếch của thầy mà tếch vào nhà anh giầu khác?
Cho nên thầy chỉ dám nghe bạc mà không dám đánh, nhưng cái nào thầy cũng đặt miệng để thử. Tác giả tưởng cứ đánh miệng thế mà hơn đó; thua cũng không đến nỗi khuynh gia bại sản, được cũng không mất tiền hồ, đỡ phải đựng bạc rách túi, vả lại cao thượng hơn hết, là lấy cái trí tưởng tượng để giẹp yên giạ ước mong, dù có hỏng cũng không hại đến tinh thần mấy.
Thầy ký Gồ đánh mồm như thế thì được rền luôn sáu tiếng. Đến tiếng thứ bẩy, thầy đoán trẻ hoe ra là lẻ, mắt như đã trông suốt qua bát, thấy ba đồng ngửa sáng quắc dưới ngọn đèn, thầy liền móc túi lấy tiền ra đánh. Lẻ đứt đuôi, nhưng mà bỏ đồng bạc cuối cùng ra chiếu, thầy cũng run run... Run vì nếu thua thì sao?...
"Thua thì chết chứ sao? Cái bãi tha ma chôn người sống là đây, thế cái nghĩa địa chôn ta chết thì là đâu? Ta nên định trước mới được. Đồng bạc này mất thì ta cũng chết theo. Ừ, chết... ta có sợ cái chết đâu? Ai chả phải chết, mà đối với kẻ tuyệt vọng, cái chết lại là một vị thuốc hay. Nhưng chết cách gì? Thuốc phiện dấm thanh à? Tiền đâu mà mua? Thắt cổ à? Vợ ta không có tiền mà chôn ta. Thôi nhờ dòng sông Nhị Hà vậy..."
Bạc hai bên chưa cân nhau. Tiếng rao bán rầm rầm. Bên lẻ nặng hơn trăm. Năm phút lại mười phút, thầy ký Gồ chưa biết cái kết liễu của đời mình ra sao.
Một lúc lâu, anh khách kêu to: Hối!... tay anh ta thò vào bát, mấy trăm con người đứng im phăng phắc, như chực để truy điệu món tiền thua, mắt giương to nhìn theo, mà hai con mắt thầy Gồ cũng chẳng thua gì hai lỗ đáo...
Thầy sắp tay ra để thu tiền, trống ngực thòm thòm mạnh hơn trống trận! Bát mở ra: Sấp hai!!
Thôi, thế thực là tuyệt vọng!
Cái tư tưởng chán đời nẩy ra từ mấy hôm nay, bây giờ lại cộng thêm với cái tuyệt vọng, thành ra thầy ký Gồ muốn đi tự tử.
Thầy ta lững thững cúi đầu đi, mắt không còn trông thấy gì, tai không còn nghe thấy gì, tay đụng phải người cũng không cần để ý xem là ai nữa. Mà thực, mắt thầy chỉ hình dung nước sông Nhị Hà chảy cuồn cuộn, tai thầy chỉ tưởng tượng sóng sông Nhị Hà kêu ầm ầm, mà ở đáy sông, ông thần Chết và ông Hà bá đương chờ thầy, đương vẫy thầy mau mau đi tới. Đường công danh, tùy khúc khuỷu nhưng đi còn hăm hở, chứ đường đến nơi tự tử, tuy thênh thang nhưng bước vẫn rụt rè, cho nên ai đến cái phút sau cùng, cũng tiếc đời, thương kiếp.
Thầy ký Gồ đi đến trước cửa nhà giây thép, thì có người chạy lại đưa cho bức thư, cái thư đóng dấu Kiến An, vả trông chữ đề ngoài, thầy cũng biết ngay là thư của ông cụ nhà thầy vậy.
Trong cặp mắt lờ đờ, bỗng nẩy ra một tia sáng nhợt, trên làn môi xám ngoẹt còn đỏ được một nụ hoa tàn. Thì nguyên mấy hôm trước, thầy có xin cụ ông ở nhà gửi tiền lên, kẻo ở nơi đất khách quê người này, lúc gạo đong chịu không đắt, tiền vay lãi không xong, thì chẳng còn bấu víu vào đâu được. Cái thư của thầy kể lể rất dài nỗi thảm thiết, thì chắc ông cụ xuôi tai mà cho tiền. Cái phong bì này còn bọc cái hy vọng chắc chắn bằng mấy mươi đồng bạc trong sòng khi nẫy, mà đối với thầy, còn có cái sự nghiệp to nữa, là cứu được đời thầy. Thầy bóc thư mà run, chống ngực đánh thòm thòm, ghé ra chỗ sáng đèn để đọc. Than ôi! Một người tuyệt vọng đến thế nào cũng không dám ghét hy vọng, mà dù có biết trước là cái hy vọng không hứa thực với ta bao giờ. Người hấp hối, lúc thở hắt ra, còn châng châng con mắt, cố mở to để nhìn xem mình đã chết thực hay chưa. Cho nên bao giờ hy vọng cũng chỉ khinh ta là trẻ nhãi dễ mắc lừa. Một vài khi ta được thấy thỏa nguyện mà đã vội vui cười, tức là ta vui cười hộ ông Tạo hóa đắc trí đã bầy được một trò dối lừa ta, bởi vì ông ấy đặt ra tấn kịch đó, để soạn thêm một cảnh thất vọng to hơn nó sẽ theo đuôi cái thỏa nguyện ấy.
Bởi vậy lửa hy vọng của thầy ký Gồ cũng chỉ sáng có vài ba phút đồng hồ rồi tắt ngóm. Trong thư chẳng có cái măng-đa nào cả, chỉ thấy một tờ giấy viết quốc ngữ như sau này:
"...Cái thư của mày gửi về xin tiền thầy, mày viết chẳng thấy ngượng tay sao? Mày đi làm, mỗi tháng được ngót năm chục bạc lương, thầy đã chẳng ăn bám vào đó thì thôi, chứ nay mày lại còn định nã tiền thầy nữa ư? Ba bốn cái nhà gạch trên tỉnh, một tay mày phá hết cả để cúng ông thần Cờ bạc, thầy đã không thèm nói đến thì thôi, chứ mày lại còn kể lể sự khổ sở cho thầy nghe mà làm gì? Mày tưởng mày kể ra thì thầy nguôi bụng ghét mà thương chăng? Nhưng con ơi! Mày chẳng thương thầy đầu bạc ra mồi từ trước, thì thầy cũng hết thương mày đắng cay chìm nổi từ lâu.
Bây giờ mày phải đổi đi chỗ khác, tiền hành lý không có mà ăn đường, thì thầy chỉ thương đến con vợ mày vì mày mà phải long đong vất vả. Ở trên ấy, cả nhà mày có hai vợ chồng, mà nay cãi cọ nhau, mai chửi đánh nhau, sao mày nghĩ không biết xấu hổ với vợ mày. Mày thử trông vợ mày, khi còn là con gái, thì sung sướng biết bao, mà từ khi lấy mày thì tiều tụy bêu rếch. Nếu nó không chịu nhịn, nếu nó không phải con nhà có giáo dục tốt, thì ở vào cái thời buổi mới này, nó đã nghe chị nghe em mà bỏ mày từ đời nào rồi đấy. Thầy thấy nó có đức mà kính, mà thương nó, chứ những hạng vô lương tâm, vô liêm sỉ, vũ phu như mày, thì đợi đấy để chờ giọt nước mắt của thầy. Thế mà mày vẫn áp chế nó: mấy tháng nay nó có mang, mà mày cũng không tha đánh đập nó. Khốn nạn thân nó, nó chỉ dám viết thư về cho bố chồng, mà đối với chồng, không dám hé răng nửa lời cãi lại. Mày thua bạc, mà về nhà đánh vợ chửi vợ, thì thử nghĩ còn có nghĩa lý gì không? Thôi, tao không thể nói được nữa, tao không có mày nữa: tiền hành lý mày kiếm đâu được thì kiếm, tao không có mà gởi lên. Mày chết đi cho rồi!..."
Ký Gồ đọc xong thư, mồ hôi trán chẩy ra như tắm, gập thư lại đút túi...
"Lúc ta sắp chết, lại còn được nghe mấy lời mắng đích đáng của cha ta, thực là những giọng chửi rủa của ông thần Lương tâm vậy. Ừ, mà cha ta đã hết thương ta từ lâu, vợ ta cũng chán ghét ta từ lâu, ta chết thì còn ai tiếc nữa. Ta chết, thì cha ta, vợ ta được thoát nợ, ta chết cũng được thỏa lòng".
"Kìa, ngổn ngang bên cạnh đường, những hoành phi cột đá, này, sừng sững bên sông,... cái gương dâu bể còn như bầy ra trước mắt, mấy ai qua biết mà ngậm ngùi cho ai; huống là một mảnh thân ta, hồn tàn xác võ, sống đã không ích mà gieo vạ cho gia đình, thì dù có chết cũng không còn ai nhớ tới".
Cái vừng trăng lờ mờ lẩn trong đám mây đen, cái làn gió hiu hiu chạy qua tầng lá biếc, mấy bóng đèn điện lửng lơ đo đỏ, mấy cây soan tây bên đường lù lù; than ôi! Cảnh thảm giục về nơi chín suối, đục chong cũng thể kiếp người; lòng sầu xui phá cuộc trăm năm, dài ngắn đành xong cuộc thế...
Sông sâu thăm thẳm cửu tuyển là đâu?
Các nhà luân lý, khi trông thấy một người tự tử, thì vội chạy đến, kéo vạt áo mà gắt rằng:
- Chớ, chớ, các anh trốn nợ đời, anh ngu lắm, anh hèn lắm. Các ngài giảng rằng: "Ví trong cái đồn kia, có hai người lính canh. Giặc kéo tới, một người ở lại chống cự, còn một người chạy mất. Thế thì người nào can đảm, người nào hèn? Anh không dám chống cự với những cái ác cảnh ở đời, mà anh phải tự tử là anh hèn!"
Tác giả chưa từng tự tử bao giờ, để cãi lại các nhà luân lý; mà giá có tự tử rồi thì còn cãi cái gì!
Nhưng, tiếc rằng bao giờ các ngài cũng vẫn kéo áo hụt, bởi vậy mà còn được nói hoài; cho nên thuyết lý với người chết rồi; thì không bao giờ thua cả!
Các nhà tâm lý thì hẳn nghĩ khác:
- Ông với tôi, mỗi người một cảnh ngộ, một tâm lý khác nhau. Ai cũng có lẽ phải của người ấy, mà cái lẽ phải lấy gì làm chuẩn đích? Không thể lấy cái ý riêng của một mình mà bắt cả xã hội phải theo, cũng không thể lấy cái ý chung của xã hội bắt mình phải làm được; vì ai biết ai hay, mà như thế là nuôi cái tính nô lệ cho người khác. Anh lính kia, có lẽ là giầu lòng tự ái quá, mà phải trốn; nếu không chuồn sớm thì vô phúc đòm một tiếng là bỏ đời! Tôi không khuyên ông nên tự tử, mà tôi cũng không ngăn ông tự tử, vì tôi không phải là ông.
Còn như tác giả có gập ai tự tử thì tác giả cũng chạy nhanh lại, nắm lấy vạt áo mà bảo rằng:
- Khoan, khoan, ông định tự tử thật hay là vờ, cô dọa mẹ đĩ xoay xu tiêu? Nếu thực thì hẳn cái đời ông có nhiều nỗi đắng cay, thì, may cho tôi quá, ông hãy làm ơn kể cho tôi nghe xong rồi hãy tự tử, để tôi kiếm tài liệu viết tiểu thuyết kẻo hoài!
... Thầy Ký Gồ lững thững đến giữa cầu. Lúc ấy độ khoảng tám giờ rưỡi. Người qua lại đang đông rầm rập, chẳng lúc nào ngơi, nên không thể nào nhẩy tùm xuống sông cho xong được. Thật là đến lúc chết còn bị quấy, bị ám. Thầy đứng nép vào bao lơn cầu, hết nhìn xuống nước, lại ngắm đằng xa. Những ngọn đèn điện bên Lào Cai, bên Cốc Lếu, bên Trấn Phòng đo đỏ, lập lòe như đom đóm quãng đồng không, những tia lửa đèn điện bấm của khách qua đường, hình như ma chơi ngoài nghĩa địa. Ây cái cảnh vật đối với mỗi người một khác, cho nên người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Ký Gồ đứng thừ ra đến hai mươi phút, thì bỗng giật mình, vì có người vỗ mạnh vào vai, và lòe đèn bấm vào giữa mặt, chói hoa cả mắt, chẳng trông ra ai cả.
- Đứng làm gì đây? Định tự tử đấy à!
Ký Gồ chưa rõ rằng ai, nhưng nghe câu hỏi trúng tâm lý mình, thì chột dạ, nhưng sau cũng hiểu là câu hỏi đùa của người quen đó mà thôi.
Tưởng là ai, hóa lại là thầy ký Học, cùng làm một sở với thầy Gồ, tức là người ban nẫy ở sòng bạc được vài trăm mà độc giả đã hơi biết đó.
Nay muốn biết rõ thầy ký Học, tác giả hãy xin bỏ mặc thầy ký Gồ đứng đó một mình một lát vậy.
Thầy ký Học khổ người cũng thon thon như thầy Gồ, tầm người cũng cao cao như thầy Gồ, giá trông đằng sau lưng hai người ở chỗ tối, thì khó phân biệt. Nhưng nếu nhác trông lại cái mặt, thì ai cũng đoán được tính hai người. Thầy ký Gồ thì quỷ quyệt ba que, thầy ký Học thì không quẳng đâu cho hết cái ngốc. Mà nhất là về vấn đề gái, thì cái ngốc của thầy Học lại càng không thể nào che giấu đi được. Cho nên ở sở, khi nào rỗi việc mà ông Sếp đi vắng, thầy ấy tán chuyện gái thì anh em phải một bữa cười soạc mép. Thế nhưng tuy ngốc, mà thầy được cái có duyên đi chim gái, vì chị nào cũng muốn chim cái ví ỏng bụng của thầy.
Câu chuyện sau này, thầy vừa kể ra hôm nọ, có ý khoe khoang ra dáng ta đây về mặt chim gái cũng mả ra phết, xin thuật ra đây cho vui.
- Ngày tôi mới lên Lào Cai này, tôi trọ tạm dăm ba bữa ở một nhà người bà con buôn bán trong phố. Cạnh nhà tôi có một cô con gái thường ban ngày vẫn bán hàng vải ở chợ, đến tối mới về nhà. Cô ấy là cô nào, chắc các bác biết tên cả, lọ là tôi phải nói rõ. Cái nhà cô mũi to to, đít cong cong, mà đi lấy dáng õng à õng ẹo ấy mà! Các bác phải biết rằng bọn mình tòng sự ở các tòa các sở, anh nào cũng để mắt đến cô ấy, nhưng vì còn sợ mất danh giá ông nọ ông kia, nên đều không dám chim cả.
Vậy mà tôi chim, thế có tài không? Một buổi chiều sẩm, ăn cơm xong, tôi đứng thơ thẩn chơi trên sân gác thượng nhà tôi, chợt nhìn xuống, tôi thấy cô ta đứng ngậm tăm một mình thập thò ở cửa sân nhà cô ấy. Được dịp tốt, lại sẵn có bút chì và mảnh giấy con trong túi, tôi thảo ngay mấy câu rõ văn chương.
"Thưa cô, vải của cô đẹp lắm, bao nhiêu tiền một thước à? Tôi yêu lắm. Cô cho tôi mua hai thước rưỡi".
Tình không? các bác! Cái thư ấy tôi viết kín đáo lắm nhỉ. Vải là tôi nói bóng đấy. Vải tức là "mặt" cô ấy kia! Thước tức là "tối" đấy các bác ạ! Còn chữ rưỡi đây là tôi thêm vào cho nó rắn rỏi câu văn chứ thực ra thì chỉ có một thước, hai thước hay là ba thước thôi, các bác hiểu chưa.
Cái thư đó tôi không ký tên gì cả. Ấy, cái nghề chim gái phải khôn thế mấy được. Vì phải tính ngay đến lúc nó nhạt mình, thì chắc thư từ của mình nếu nó dùng vào việc bẩn thỉu, có phải đỡ dây vào tên tuổi mình không?
Tôi cậy mảnh vôi ở tường ra, cho vào giữa, rồi lấy cái thư gói lại, tôi ngắm rõ trúng vào trước mặt cô ta, đằng hắng một tiếng rõ mạnh, cô ta ngửng lên nhìn, là tôi giơ thẳng tay, quẳng tọt ngay xuống. Thế quái nào rõ khỉ quá, ông bố cô ta ở trong nhà vừa ra tới cửa sân, tờ giấy xuống đến nơi, thành ra rơi bộp ngay vào vai lão ấy. Các bác phải biết tính thằng cha ấy mới được, như mắm tôm ấy, bất quá nó có giá trị, là vì nó có con gái đến thì mà thôi, chứ được vẻ gì, mà chúng mình gọi nó là cụ thực là quá đáng!
Tờ giấy nằm còng queo bên chân cô ả, tôi trông rõ quá, mà anh bố không nom thấy. Kể việc cũng nguy cấp, nhưng tôi không mất tí can đảm nào, tôi bèn ngồi thụp xuống để trốn. Một lúc tôi ngẩng dậy dòm, thì thấy cái thư của tôi vẫn nguyên chỗ cũ. Tôi đằng hắng dồn mấy tiếng, có ý bảo cô ấy nhặt mau cái thư mà ném đi, chứ không chim thì thôi, sao cô ấy đã nỡ phản ngay tôi làm vậy? Tôi chỉ thấy cô ấy liếc mắt lên nhìn, rồi lại làm lơ đi, không nhặt.
Một lúc tôi lại thấy ông bố ở trong nhà đằng hắng, hình như sắp lại ra sân. Ông ấy mà vớ được cái thư thì cả tôi lẫn cô ta cùng rầy rà. Mình thì lo, mà nghe như con bé vẫn điềm nhiên, có tức không?
Tôi liền xé luôn mảnh giấy khác, viết cho cô ấy cái thư thứ hai:
"Thưa cô, cái thư kia là chính tôi viết để mua vải của cô thật, chứ không dám có ý gì khác. Nếu cô không đọc, thì xin cô làm ơn giả lại tôi vậy".
Lần này thì tôi ký tên hẳn hoi, và đề cả chức tước nữa. Tôi gấp như lần trước rồi lại ném xuống. Thì ra, chán quá, con phải gió trông thấy mình ném thư rõ ràng, mà lần này cái thư lại trúng vào tay nó, mà nó không thèm nhặt. Cái thư này lại nằm ngay cạnh cái thư trước.
Quả nhiên ông bố ra, tôi lại ngồi thụp xuống, nhưng ló hai con mắt sang thám thính tình hình. Tôi định hễ ông kia mà biết thì tôi ném phắt ngay cái thư thứ ba tôi đang viết như sau này:
"Thưa cụ, cụ bảo cô em bán và ném lên đây cho tôi hai thước rưỡi vải, thì tôi cảm ơn cụ lắm lắm. Chú cụ buôn bán phát tài".
Tôi thấy ông bố lại gần cô ta, thì cô ấy sẽ soạc chân ra, chặn ngay chiếc guốc lên trên hai bức thư.
Các bác tính thế tôi có bực mình không? Ra nó khinh mình đến thế là cùng, nó lại dầy chân nó lên tên mình! Nó đã khinh mình, tất nó mách bố nó, vì tôi thấy nó nói gì khẽ lắm, không nghe rõ.
Tôi không quẳng cái thư thứ ba kia xuống nữa, nhưng muốn tỏ rõ là bụng mình muốn mua vải thực, tôi bèn móc túi lấy cái giấy bạc năm đồng ra quẳng ngay xuống. Hễ bố con nó có lôi thôi, thì hẳn có chứng cớ hiển nhiên là mình mua vải. Nhưng phen này lại khỉ nữa, tờ giấy bạc vứt vội, gập không kỹ cho nên tung ra, rồi nó liệng theo gió, bay ra ngoài tường đường phố mất.
Lúc đó ông bố vào trong nhà, con ranh con nó lại liếc lên trên mình nó cười. Nó cười xỏ lá, nó chế nhạo mình, ai mà không hiểu, tôi lộn tiết, tôi liền bỏ đứt, không chim nữa!
Tôi xin nói nốt chuyện. Tôi tiếc tiền liền chạy xuống, thì gập ngay có người đang nhặt đồng bạc giấy. Ấy cũng cái duyên giời, các bác ạ. Người nhặt cái giấy ấy lại là một người con gái mặt mũi kháu khỉnh. Tôi đòi, thì người ấy vừa cười vừa bỏ vào túi.
- Thôi quan cho em lấy may!
- Ơ hay, cho là thế nào? Tôi trình Cẩm bây giờ!
Người ấy nhoẻn mép cười, và nói:
- Thế mới là cái duyên tự nhiên, quan ạ.
Tôi hiểu ý; mà ừ ra cái duyên tự nhiên thực. Thôi, tôi không nói nữa.
Anh em bạn có người nói kháy!
- Ấy, có phải vì cái duyên tự nhiên ấy, nên bây giờ vẫn chưa dứt được cái dây ấy phải không? Mà vì cái duyên ấy cho nên bác đã tẩy chay thịt gà cá chép đến tận bây giờ đấy chăng? Thế còn cô bé hàng xóm?
- Nói làm chi con bé sở khanh ấy? Nó xỏ mình xuýt nguy, thì còn chim nó làm gì? Rồi sau, cứ đến chiều, nó ăn cơm xong, thì nó lại ra đứng ở cửa sân sau. Giá không hiểu, thì hẳn tưởng rằng nó cho mình những dịp tốt để ném thư trêu ghẹo đấy, nhưng bịp sao nổi cái mặt láu cá này. Tôi chỉ đoán là nó định lừa tôi, nó định thông lưng với bố nó, dặn lão già phục ở trong, khi cái thư rơi đánh bộp một cái, là anh bố ùa ra bắt quả tang đấy...
Xem thế thì ta cũng có thể đoán được rằng óc thầy ký Học chỉ to độ bằng hột đậu xanh hay hột đậu nành thôi vậy! Bởi lẽ ấy, nên thầy ký Gồ thấy thầy Học đến nơi thì tìm ngay câu để đánh lừa:
- Tôi chờ con bé bên Cốc Lếu, nó sắp tới nơi, anh tránh xa, kẻo nó trông thấy, nó sợ.
- À, anh đi ăn sương! Còn cảnh nào phần cho Mỗ với!
- Xin anh đừng nói nhảm, đi xa tôi ra, kẻo con bé nó đến thì tôi còn nước gì! Đây kia, nó đến kia kìa.
Bấy giờ quả có một người con gái sắp đi tới thực. Thầy Học trố mắt lên nhìn còn chưa được rõ, bèn sòe đèn bấm vào tận mặt cô bé.
- Sộp nhỉ! Thôi, để lại cho tớ cho. Mấy hôm nay tớ phải cảnh ba đào, đi mò mà hốc sịt! Không thấy độ nào mà cái gì cũng khủng hoảng như độ này. Thôi, chịu khó làm cỗ sẵn cho tớ xơi vậy.
Thầy ký Gồ cáu quá. Giá hăng hái như mọi khi thì chẳng đánh nhau cũng cãi nhau đấy. Nhưng nay thầy sắp chào đời, nên muốn cho mọi việc đều được êm đềm, nên thầy chỉ cự xoàng bạn mà thôi!
- Anh bất nhã lắm!
- Này, hôm nay moa được bạc, thì moa biếu toa đồng bạc này, đi mà hút thuốc phiện, nhường cho moa con bé này cho!
Thầy ký Gồ thấy đồng bạc xỉnh xình xinh, như cá gập nước, như rồng gập mây. Nhưng làm thế nào? Nhả ra thì tiếc, mà nuốt vào không trôi.
Nhưng thầy Gồ nào phải người chậm trí, thầy tươi nét mặt lại, rỉ tai nói thầm với bạn những gì, chỉ thấy thầy Học tủm tìm cái miệng như nụ hoa đại hàm tiếu, vừa nghe vừa gãi đầu, vừa gãi đầu vừa gật, rồi cười ngặt cười nghẹo và khen bạn rằng:
- Thế thì tôi chịu anh là thánh mất. Anh không phải dặn kỹ, tôi sẽ câm như hến.
Nói xong, thầy Học móc túi lấy ra lọ nước hoa, đưa cho thầy Gồ bôi khắp cả mình mẩy, đầu tóc, xống áo, thơm sực cả một góc cầu, đến nỗi ai đi qua, cũng phải ngoái cổ lại mà ngửi. Đoạn mỗi người đi một ngả, ký Học sang bên Cốc Lều xem tuồng, ký Gồ về nhà...
Một ngọn đèn hoa kỳ con, tù mù khói đen cả thông phong để trên cái bàn khập khiễng. Chung quanh bàn có bốn cái ghế gỗ sơn quang dầu đã lở nhiều chỗ. Bên trong, là một cái giường khung tùm hum, cái màn nâu vá chằng vá chịt bằng những mụn đen mụn trắng. Dưới gầm, lúc nào đàn muỗi cũng tung hoành kéo nhị, nhẩy nhót đùa nhau. Cạnh giường, một cái nồi, và cái niêu úp trên giế.
Trên một cái ghế, một người thiếu phụ ngồi gục mặt xuống bàn. Người ấy là ai? Tức là cô ký Gồ vậy.
Cô ký Gồ, nói tên thì nhiều người quen, nhưng trông mặt thì nhiều người lạ, vì cô không đi đâu bao giờ. Mỗi ngày cô chỉ ra ngoài có lúc tờ mờ sáng để đi chợ mua đồ ăn. Bởi vậy mà không có ai là bạn. Nhà ấy cũng không bao giờ có khách đến chơi, nhưng hễ cô trông thấy bóng ai đến với chồng, cô lần ngay xuống bếp ngồi một mình. Cho nên nhiều người khéo tò mò đã đánh cuộc với nhau, đố ai làm kế thế nào để được thấy mặt cô ký Gồ vậy.
Cô ký Gồ trông cũng đẹp, chứ không xấu xí đâu. Này cặp mắt nhanh nhẩu mà có tình, cái miệng giá có cười thì cũng tươi phạm; mà khổ người tầm thước, mũm mĩm có vẻ yểu điệu khuê các. Nhưng tiếc thay cái mắt ấy chẳng để nhìn yêu ai, cái miệng ấy chẳng để cười yêu ai, thực là phí công của Tạo hóa đã khéo nặn nên con người như thế. Những sự uất ức nỗi chồng con, làm cho cô đã lâu năm phải nhăn nhó mặt, nên bây giờ hai nét răn trên má như đã thành tật không chữa được, lúc nào cũng đánh dấu vào mặt cô cái vết thương oán trời giận đất. Cả ngày cô chả nói câu nào mà nói chuyện với ai? Nếu không có những khi cô cãi nhau với chồng, thì có lẽ ta tưởng cô ấy câm đấy!
Cô yên phận làm con đỏ con nhài cho chồng, nên công việc của cô như có chương trình đặt sẵn. Sáng dậy sớm, cô đun nước sẵn cho chồng dùng. Đun nước xong, thì dọn thức lót dạ ở trên bàn. Gần đến giờ làm việc, thì lay chồng dậy, chứ không gọi. Ông chồng uống nước, rửa mặt. Ăn xong, thì đi làm, mà cô ở nhà liệu giờ thổi cơm buổi trưa. Cơm xong, chồng đã díp mắt buồn ngủ, ngủ đến lúc gần đến giờ đi làm buổi chiều. Ở sở về thì ông chồng lại và quàng vài bát cơm, rồi sẵn nước rửa nước uống đó, dùng xong, là ngậm tăm đi chơi cho đến chừng hơn mười hai giờ đêm mới gõ cửa về ngủ. Những khi bổn phận trong bếp đã xong, cô được rỗi rãi thì cô lại giở quyển vần quốc ngữ ra tập viết cho qua thì giờ. Ấy, đã mấy năm nay, chương trình ấy không đổi, mà cô ký Gồ sống bằng một cái đời như máy thế đã như quen rồi vậy!
Cô ký Gồ ngồi đấy chả nói ta cũng hiểu là không vui vẻ một tí nào. Sở dĩ cô không giở sách ra viết tập, là vì bụng dạ không được nhàn rỗi như mọi khi, mà cô ngồi một cách âu sầu ẻo lả, thoạt trông ta tưởng là một cái thây người chết bầy ra đó để dọa ai, nhưng ta chỉ còn chắc là người sống vì thỉnh thoảng ta được trông thấy cái ngực kia phồng mạnh lên để thở dài, hoặc cái tay kia giơ ra để đập muỗi ở chân vậy.
Cô đang ngồi như vậy, thì ngoài có tiếng gõ cửa. Cô từ từ ngẩng đầu lên, thấy bóng đức lang quân lờ mờ đằng sau cửa kính, mà mặt lại sa sầm. Lúc ấy, ở trên gò má, hai dòng nước mắt từ từ rủ nhau ra chia buồn cùng cô, rồi cô đứng dậy ra dáng nặng nề bất đắc dĩ, ra mé cửa, vặn cái khóa rồi quay lưng trở vào, lại ngồi phịch xuống ghế, trong bụng yên chí rằng chồng về nhà lúc nào, là cái tấn bi kịch ban trưa sẽ diễn tiếp theo lúc ấy vậy.
Thầy ký Gồ khóa cửa xong, quẳng cái mũ xuống bàn, thở dài một cái, rồi ngồi đối diện vợ, nét mặt rất buồn bã thất vọng. Lúc ấy không ai nói với nhau một tiếng nào, vì ông chồng đương dở quạt phành phạch, như có ý đi xa đâu về, nực lắm. Mùi nước hoa bay ra thơm sực cả buồng, đến nỗi cô Ký phải ngước mắt lên nhìn lại xem có phải chồng hay không.
Kể cũng là một việc quái gở vậy.
Mà quái gở thực, hôm nay đức lang quân về sớm, mà từ lúc nãy đến giờ, không thấy sinh sự cãi nhau chi cả. Không những thế, ông chồng lại còn biết hối mà xin lỗi nữa. Thực là giời đi vắng.
- Tôi vừa tiếp được thư của thầy, thầy mắng không cho tiền. Thư đây mợ đọc mà xem. Thực là tôi đối với mợ bạc bẽo quá. Mợ có mang, mà tôi không biết thương xót, lại còn giở lối phũ phàng mà đấm đá vùi giập. Tôi nghĩ lại việc làm, lấy làm xấu hổ quá, trông thấy mợ mà thẹn quá. Thôi mợ tha thứ cho tôi.
"Ô hay! Sao mợ lại khóc thế? Tôi biết lỗi rồi, chỉ cầu mợ tha cho là hả dạ. Tôi đã hối hận thì mợ nên dùng thứ mới là phải".
Cô kỳ Gồ nâng cái đầu nặng chĩu những tư tưởng chán đời dậy mà rằng:
- Việc đã qua, cậu nói làm gì cho thêm buồn. Nếu cậu đã biết hối, tôi mong rằng cậu sửa đổi lại cách ăn ở, thì thầy được vui lòng mà tôi cũng được hởi ruột. Thôi, hãy xin bàn ngay đến chuyện trước mắt, là việc dọn đồ để sáng mai xuôi.
- Lại còn dọn gì mà dọn, cứ lừng lững mà đi, chứ còn đánh trống đánh mõ lên làm gì?
- Cậu có nghị định phải đổi, mà ở trên này, công nợ như rươi, cố giấu quanh mãi, nhưng xem ra khó lòng bưng kín được miệng bình đấy cậu ạ. Ban nẫy có người đến hỏi thăm, tôi phải nói dối rằng tin đổi là tin đồn sai. Sau người ta trông thấy đồ đạc y nguyên, người ta mới tin đấy.
- Ừ tính ra, từ các nợ nhỏ một vài xu, cho đến các nợ to hàng chục hàng trăm, cũng không phải là ít đâu, vậy làm sao giấu cho kín, từ giờ đến sáu giờ sáng mai là thoát thôi. Anh em ở sở họ ai cũng có bụng tốt họ không nói ra, còn ai biết được. Nhưng tôi sợ ra ga mà đi không thoát, thì tôi đã định rằng tang tảng sáng mai, mợ và tôi chịu khó đi bộ xuống ga Phố Mới rồi hãy lên tầu thì hơn.
- Mai nhịn đói mà đi à?
- Mợ chịu khó dậy từ gà gáy mà thổi cơm vậy chứ gì?
- Thưa cậu gạo hết từ sáng ngày rồi. Chiều hôm nay cậu có ăn cơm nhà đâu mà cậu biết tôi nhịn đói.
- Chết chửa, thế ra mợ nhịn đói chiều hôm nay đấy à? Mợ tha lỗi cho tôi nhé! Khốn nạn quá, buổi sáng giận chồng thì dỗi cơm, buổi chiều hết gạo! Mợ làm tôi đau lòng quá! Chính tôi hôm nay cũng chưa có hột cơm nào vào bụng! Bây giờ mợ có đói không?
- Những cái đau đớn nó chất vào bụng tôi làm cho tôi đủ no rồi. Cậu nghĩ lại xem thế đã phải chưa?
- Thôi, tôi xin mợ là hết, kể lại chuyện cũ thì còn vui vẻ gì!
Nói xong, thầy ký Gồ lại gần vợ, vuốt ve đầu tóc ra dáng dỗ dành yên ủi, rồi lại hôn một cái đánh chụt, nhưng thảm quá, hai cái môi thầy đẵm những nước mắt!
- Mợ khóc làm gì! Có mang không nên nghĩ ngợi cho thêm uất ức mà thành bệnh, có chuyện gì vui vẻ thì mợ cứ nói.
- Mai đi tàu, thì đã có vé nhà nước, nhưng còn tiền xe thì lấy ở đâu?
- Mợ không phải lo khoản đó.
- Cậu ơi, mai cậu đổi đi sở mới, thì ít ra, tôi cũng phải ăn mặc cho sạch sẽ một tí, đẹp mặt cậu chứ đẹp mặt ai, chứ như con bạch tuộc thế này, thì người ta cười cho thối óc ra. Tôi mang tiếng là vợ ông Ký ông Phán, mà một đôi dép không có mà dận, cái khăn vải không có mà đội, chiếc áo lành không có mà mặc. Thôi thì tôi đi guốc đi đất cũng được, mặc áo vải nâu vá cũng được, nhưng làm thế nào có cái khăn mà đội chứ? Giả sử có cái khăn vuông mà che ngoài, thì chẳng đội khăn cũng không ai biết, chẳng lẽ mai quấn tóc trần mà đi à? Cái khăn cũ của tôi, giá cậu không xé tan xé nát ra, thì tôi đội tạm cũng được. Bây giờ cậu tính sao đây?
Anh chồng mặt ngay như cán tàn, nghe vợ nói mà cảm động, rồi se sẽ xé cái vạt áo trắng dài ra:
- Thôi đây, mợ chịu khó chít tạm cái này, chứ bây giờ làm thế nào?
- Cảm ơn cậu, tôi chả dám nhận. Nhà tôi có ai chết mà bắt tôi để tang!
Nói xong òa lên khóc. Thầy ký Gồ hết lòng khuyên giải:
- Được, mợ cứ yên tâm, chốc nữa tôi mua cho mợ cái khăn mới, mợ đừng khóc nữa mà tôi thêm buồn! Nay mợ vì tôi mà khóc, thì mỗi giọt nước mắt của mợ, là một nhát búa nó đánh mạnh vào trong tâm tôi. Tôi xin mợ, mợ mà khóc nữa thì tôi đi bây giờ.
- Mời ông ra sòng mà nướng nốt chỗ tiền lương đi, ông không phải dọa nữa.
Ký Gồ cười mà rằng:
- Đùa đấy chứ, tiền lương nướng hết từ bao giờ rồi, bây giờ chẳng còn một đồng trinh nào!
Lúc ấy ký Gồ cầm cái vạt áo xé để ở bàn, chùi lên má vợ để lau hộ nước mắt. Cô ta thấy chồng có ý chiều chuộng, nên không nỡ làm quá, mỉm cười một cách cảm động mà rằng:
- Cậu ơi, phú quý vinh hoa nào bằng vợ chồng hòa thuận. Cái hòa thuận không mất tiền mua, nhưng khó kiếm đấy cậu ạ.
- Lọ là mợ phải nói lôi thôi làm gì. Tôi thề rằng từ nay xin cải tâm cải tính. Từ nẫy đến giờ là vợ chồng hòa thuận rồi, còn từ nay về sau, tôi hết sức quý mợ, mợ hết sức chiều tôi, thế là êm đềm vui vẻ chứ gì!
- Vâng nếu được thế, thì dù ăn rau ăn cháo tôi cũng vui lòng.
- Mợ nói phải lắm. Ban nẫy ở sở anh em họ cũng khuyên tôi nên ăn ở với mợ cho vui hòa. Đến như bác Học ngốc nghếch, đã giận nhau với tôi, cũng khuyên tôi như thế, cho nên tôi càng cảm động.
- Cậu giận nhau với ai?
- Với bác Học.
- Sao cậu hay giận nhau, cãi nhau thế. Tôi không bằng lòng đâu.
- Nhưng thằng Học này nó đểu lắm, nên tôi không muốn chơi với nó.
- Dù đối với ai cũng chẳng nên sinh sự cãi nhau làm gì, tôi lại khuyên lại cậu như thế.
- Mợ biết đâu những lúc ấy mà mợ cũng nói. Mợ có biết thằng Học không? Nó chó đểu lắm.
- Tôi không biết, nhưng có phải nhà bác mới đổi lên đây có phải không?
- Mợ có biết mặt không?
- Không, vì bác ấy có lại đây bao giờ đâu; mà có lại đây tôi cũng chả biết, mà tôi cũng chả để cho người ta trông thấy. Bà phán bà ký gì mà quần áo như con vú ấy, chả bõ xấu hổ.
- Gớm! Đang nói chuyện bác Học thì khéo đánh trống lảng, rồi vơ ngay đến chuyện quần áo!
Vợ nhìn chồng một cách âu yếm mà rằng:
- Thì bác Học làm sao?
- Tôi xuýt đánh nhau với nó.
- Cậu nóng nảy quá! Người có máu nóng không khác gì người có máu điên, vì nói gì, làm gì cũng không nghĩ chín.
- Tôi chịu cái bài luân lý của mợ nhưng tôi nóng là vì tính tôi thẳng.
- Vì chuyện gì mà cậu cãi nhau?
- Nó đê tiện quá!
- Cậu nói chuyện không gẫy gọn, cậu phải giảng là thế nào thì tôi mới biết là nó chó má đê tiện chứ!
- Mợ phải yên mà nghe chứ chưa chi đã cãi, đã bênh!
- Tôi làm gì mà phải bênh nó.
- Nó chơi với ai cũng hay phản người ấy.
- Thế nó đã phản cậu gì chưa?
- Chưa.
- Thế sao lại cãi nhau. Nào cậu cứ nói, tôi nhất định bênh đấy.
- Vì thế cho nên tôi không muốn cho nó đến chơi nhà.
- Tại sao?
- Tại nó hay quyến rũ vợ anh em bạn.
- Thật à? Thế nó đã quyến rũ vợ ai?
- Tôi nghe thấy thế!
- Thực là hão huyền, thế mà cũng cãi nhau, cậu trẻ con quá.
- Nhưng ở trong sở, ai cũng không muốn cho nó đến chơi nhà, vì ai cũng sợ nó như thế.
- Nếu vậy, thì khi bắt được quả tang đứa gian phu dâm phụ, đem mà gọt gáy bôi vôi, lột da nhồi trấu, rồi đóng bè mà trôi sông.
- Việc gì phải lôi thôi, trông đây này:
Thầy ký Gồ nói xong, múa bài võ tàu, hoa chân múa tay, lúc thì xỉa lúc thì đấm, trông thật hùng dũng. Múa xong, mệt, ngồi trên bàn vừa thở hổn hển vừa nói:
- Bỏ múa võ từ lâu, nay múa phải lấy gân, mệt quá. Mợ trông tôi múa có đẹp không?
- Đẹp lắm.
Thật là chưa thấy bao giờ vợ chồng nhà này lại ôn tồn tử tế đùa bỡn với nhau như thế; thầy cô chuyện trò rất vui vẻ hể hả. Thầy vừa gói quần áo vừa pha trò, khiến cho vợ thầy không hay nhếch mép, mà bây giờ cũng phải cười như nắc nẻ, nói như thánh phán. Dọn đồ xong thầy dí cái đầu thơm sực mùi nước hoa vào mũi cô, đến nỗi cô cũng phải phát yêu chồng một cái dánh đét vào lưng. Rồi chồng ra cửa, vợ níu lại mà rằng:
- Đi đâu, sao không xin phép.
- Mợ cho phép em đi chơi một tí, độ hơn mười giờ em xin về với mợ.
- Mợ không cho phép, ở nhà ngủ để mai dậy sớm mà đi!
Anh chồng lại nũng nịu mà rằng:
- Mợ không cho em đi thì em khóc đây này!
- Thế thì em đi cho đúng giờ nhé, mợ đi ngủ trước nhé. Rồi em mua quà cho mợ nhé!
Nói xong, hai vợ chồng nhìn nhau mỉm cười, chồng còn quay lại trông vợ, vợ cũng trông theo chồng... Cánh cửa đóng ập lại, cô ký Gồ đứng dậy vặn khóa, rồi thở dài một cách sung sướng mà đi vào, vặn nhỏ đèn và đi ngủ. Vui vẻ thay...
Mười một tiếng chuông thi nhau kêu trong chiếc đồng hồ nhà bên cạnh... Mảnh giăng non đã sớm tếch non đoài, đường phố Tèo đã vắng tẻo teo... trong nhà thầy Gồ lúc bấy giờ im phăng phắc. Đứng ngoài sân tối um, trông qua tầng cửa kính, chỉ thấy ngọn đèn hạt đỗ đương bị con thiêu thân chờn vờn ngoài thông phong ...
Bỗng từ ngoài đường vào, một cái bóng người thon thon cao cao nhấp nhổm đi đến.
Tiếng gõ cửa cạch cạch to mấy cái, thì tự nhiên cái màn đương yên lặng, bỗng rung rung, rồi ở cửa màn, có hai cái cổ chân trắng nõn thả xuống, khỏa dưới đất, xỏ vào đôi guốc... Cửa màn mở ra, một người đàn bà ẻo lả đứng dậy, tóc xõa sau lưng chui ra tay vấn tóc, tay vặn nhỏ ngọn đèn, thế mà hai con mắt nhìn ngọn lửa vẫn gấp gay, mặt nhăn nhó rõ ra người ngái ngủ? Đó là cô ký Gồ vậy.
Cô ký Gồ, tay dụi mắt, tay cầm đèn, ra mở cửa. Cánh cửa vừa hé ra, luồng gió đưa vào thơm sực những mùi nước hoa: phụt một cái, ngọn đèn tắt, trong nhà tối om như mực.
Rồi ở trong buồng nhà thầy Gồ, trừ đàn muỗi như vẫn muốn vo vo làm rối cuộc trị an, thì ta lại nghe thấy thêm tiếng cẳng đụng vào ghế, tiếng ghế sệt vào bàn, rung rung bộ ấm chén, rồi sau hết, tiếng chân đụng vào giường. Thế rồi lại yên tĩnh như trước...
Lúc ấy, ở bên ngoài, mấy ông sao lơ thơ gấp ga gấp gay như cũng muốn giục nhau đi ngủ, mấy giọt bóng lờ mờ dưới đất, đú đởn xua đuổi nhau, như cũng muốn trốn ánh ngọn đèn, ngọn cỏ lả lơi trong góc sân, làn gió thì thào trong tầng lá. Nên thơ thay cảnh đêm thu!
Cách độ mười phút sau, ngoài cửa lại có tiếng gõ, làm cho cô ký Gồ, chắc vẫn còn thức, sực nghĩ đến những người hỏi nợ mà giật mình, cho nên cô không thưa.
Tiếng gõ cửa lại mạnh hơn, rồi đến tiếng lay khung cửa ầm ầm
- Mở cửa!
Cái tiếng gọi gắt gỏng này là tiếng ai? Cô ký Gồ giật nẩy mình choáng người lên, vì là tiếng của chồng cô vậy. Ô hay? Vậy thì ai vừa gõ cửa và ngủ lúc mười một giờ. Thế thì cô ký Gồ dắt giai vào nhà rồi, thật chết! Chồng về thì ốm đòn; thảo nào mà còn nghe mãi không dậy mở. Nhà có mỗi một cửa, chuồn anh nhân tình đi đâu. Cô luống cuống giở dậy. Tiếng gọi cửa càng ra giọng gắt, tiếng đẩy cửa thình thình như muốn phá mà vào. Nguy quá, ở trong màn, anh đàn ông cũng lục đục. Làm thế nào bây giờ? Trốn đâu cho thoát?
Cô ký Gồ ra mở cửa; thầy ký Gồ vừa bước chân vào đã hỏi ngay:
- Sao trong nhà tắt cả đèn lửa thế này?
Sòe! Thầy đánh diêm châm đèn, thì thấy vợ ngã gục xuống chân bàn, và kêu:
- Giời đất ôi!
Lúc ấy, ở trong màn, lù lù cái cây thịt ung dung chui ra, áo quần còn xốc xếch. Thầy ký Gồ trông thấy trợn mắt, cầm cái ghế, nói:
- À thằng Học thông dâm vợ tao!
- Thông dâm thế nào?
- Tao bắt được quả tang, mày còn bướng phải không? Ông hãy cho mày cái ghế này vào đầu, rồi muốn ra sao thì ra.
Thầy ký Gồ quăng cái ghế vào ký Học, nhưng chẳng may lạng ra ngoài, rơi xuống đất, gẫy tan ra.
- Đánh gì, vợ anh đấy à?
- Mày lý sự với tao à? Đã có mật thám đứng ngoài kia làm chứng cho tao.
- Lậy cậu tôi nhầm... Cậu ơi!...
Ký Học nghe thấy người đàn bà nằm dưới đất rên như vậy, bèn ngó xuống và nói:
- Ô hay sừ Gồ làm gì mà nhặng lên thế? En nhầm mà moa cũng nhầm mà. Moa tưởng...
Chửa nói dứt lời, thì bị ngay cái tát vào mang tai, ngã lăn kềnh ra đất.
- À thằng gian phu này già mồm, con dâm phụ này già mồm, chúng bay muốn già mồm, thì ông cho tối hôm nay lên mà già mồm với ông Cẩm.
- Ấy chết, moa bảo...
- Chúng bay là đồ vô liêm sỉ. Thằng này mày phản tao, con này mày phụ tao. À, ra đồ chó đểu!
Nói đoạn, lại sấn vào ký Học, giơ thẳng cánh tát một cái vào mặt, đổ đồng quang con mắt, và đá vợ một cái vào mạng mỡ... ức!
- À bây giờ tao mới nghĩ ra, thảo nào ban nẫy nói chuyện nó, mày cứ bênh chầm chập; mày bảo khép án đứa gian phu dâm phụ thế nào? Con kia?
Nói xong lại xông vào, nào ục, nào đá, làm cho ký Học và vợ tối hoa cả mắt mũi. Ký Học lúc ấy mới hiểu là mình ở vào địa vị đáng sợ. Run như cầy sấy, mặt cắt không được hột máu, nói không ra hơi, lom khom đứng dậy, vừa lễ ký Gồ vừa nói:
- Con lậy ông, ông tha cho con, con trót dại!
- Mày chim vợ tao, mày còn dại cái gì? Tao tha cho mày à? Mày có tha vợ tao không? Mày có nhớ chuyện trong săm dưới Hà Nội năm nọ không? Mày có muốn mất mạng không?
- Lậy ông xin ông nguôi giận, lần sau con xin chừa.
- Chừa! Mấy mươi lần rồi!
- Lậy ông, lần này con mới trót dại... là một.
- Tôi không ngờ anh chó đểu đến như thế, tôi với anh cùng làm một sở, sớm tối có nhau, mà anh nỡ giở ngay chó đểu với tôi!
- Thôi, xin ông bịt chuyện ấy đi, con biết tội rồi.
Lúc bấy giờ ký Gồ vớ được cái thừng, liền trói giật cánh khuỷu ký Học vào chân giường làm cho ký Học lại một phen kêu như cháy đồi!
- Anh phải biết, rồi tôi kiện anh thì anh mất việc và phải tù.
- Vâng, lậy ông, ông thương thì con được nhờ?
- Anh làm gì mà tôi thương được anh?
- Lậy ông, cón xin biếu ông hai mươi đồng hiện con có ở trong túi này!
- Anh mang hai chục của anh về mà nuôi cha mẹ anh, nuôi vợ con anh; tôi không thèm. Tôi không phải là hạng cho vợ đi đánh đĩ để lấy tiền, anh đừng láo!
- Lậy ông, không phải thế... ông tha cho con!
- Không thể tha anh được!
- Lậy ông, ông muốn gì con xin có, miễn là ông quên việc này đi cho con được nhờ.
- Anh tưởng tôi có thể xử đê tiện, ăn tiền của anh để mặc cho vợ ngủ với giai có phải không?
- Lậy ông, như ông làm phúc cho con mà thôi.
- Phúc nhà tôi mỏng cho nên mới thế này. Anh lên Cẩm với tôi, đi...
- Thôi lậy ông, hãy khoan! Con xin biếu ông cả hai chục để bên túi này là bốn vậy...
- Tôi đã bảo tôi không phải là kẻ ham tiền ham bạc mà. Tôi chưa đến nỗi phải bán vợ con để cầu công danh phú quý!...
- Thôi ông muốn bao nhiêu con xin viết văn tự vậy.
- Văn tự với văn khế gì ! Bao giờ tôi còn giở lại cái đất Lào Cai này mà đòi tiền anh nữa.
- Bẩm không, con xin viết văn tự, rồi con xin phép ông cho con về nhà lấy ngay tiền lập tức.
- Thế từ hôm nọ đến hôm nay anh được bạc bao nhiêu, anh phải viết đủ ngần ấy.
- Bẩm ông con chỉ còn được có hơn ba trăm thôi.
- Anh nói dối, anh phải viết cho đủ năm trăm.
- Xin ông ba trăm chứ...
- Tôi không nói chuyện tiền nong với anh nữa. Tôi cho anh một trận cho anh chừa mà thôi.
- Ối con lậy ông, con chừa rồi, ông đánh thì con chết mất. Vâng vâng, con xin có đủ.
- Nếu thế thì anh phải viết sáu trăm.
- Lậy ông, xin ông đừng bắt thêm nữa.
- Tôi đã không thích tiền kia mà, tôi chỉ muốn bỏ tù anh thôi; thôi không văn tự văn khế gì nữa đi lên Cẩm!
Ký Học khóc lóc, xin mãi, ký Gồ mới nghe cho viết năm trăm.
- Anh phải biết nếu tôi không nghĩ cái tình đồng sự, thì tôi quyết chẻ xác anh ra rồi. Nhưng mà tôi rời đất Lào Cai, tôi còn muốn để lại cái tiếng tốt, thì thôi, tôi cũng sinh phúc cho anh.
- Vâng, lạy ông, rồi quả ông được phúc.
- Anh phải hiểu rằng tôi không phải là đứa hám tiền.
- Dạ.
- Mà tôi không phải bán vợ con để cầu phú quý.
- Bẩm có thế.
- Mà tôi không phải là để vợ tôi đi làm đĩ với anh để kiếm lợi.
- Bẩm không phải.
Ký Học phải một trận thất dảm như nghe súng trái phá! Nghe những nhời diễn thuyết hùng hồn ấy mà sợ mãi. Tay viết run bần bật không ra chữ. Vừa viết vừa nhìn xem ký Gồ có đánh mình nữa hay không. Hồ thấy ký Gồ thò tay gãi, cũng giật mình nép ra tránh! Viết xong lủi thủi bước về.
Độ một lát, trở lại, thì trên bàn nhà ký Gồ đã sủng soảng đủ các thứ bạc Đông Pháp. Đến ra vừa đủ năm trăm. Ký Gồ đếm xong, nhìn ký Học rồi mỉm cười ra ý bằng lòng. Ký Học vẫn sợ lắm, chắp hai tay vái chào người ân nhân cúi rạp đến đất. Ký Gồ giơ tay ra bắt, ký Học se sẽ thò cả hai bàn tay để nưng tay "ông", khúm núm mỗi cái rung lại gật đầu một lượt, rất là cung kính.
À, từ nẫy đến giờ tác giả quên hẳn cô ký Gồ. Chẳng hay cô ấy ngoại tình thật hay là nhầm. Nhầm gì mà anh cũng nhầm, chị cũng nhầm! Cứ nhầm thế mà được trôi chẩy, thì ai chả muốn nhầm mãi! Vả cứ thế mà bảo rằng nhầm, thì cái nhầm mới bé làm sao! Thôi xin ai có tính trông gà hóa cuốc, chớ có nhẩm thế nữa mà có ngày thì tù. À, mà nói làm quái gì cái nhầm phải gió ấy mãi.
Cô ký Gồ bị chồng cho một cái móng giò vào mảng mỡ, thì tức lên không thở được. Rồi bị đánh túi bụi, thì bất tỉnh nhân sự, chỉ thấy rát mà không thấy đau nữa, đành nằm chịu đòn, mà giá cứ được mê man như thế mãi thì hay. Nhưng nào có được thế mãi, rồi cô tỉnh lại, cô hồi tưởng lại cái vết xấu xa, cô mở mắt ra, trông thấy chồng mà tủi nhục.Luc ký Học về lấy tiền, cô liền ngồi dậy, thụp xuống đất lễ sống chồng hai lễ, nhưng cũng bị chồng sỉ vả một trận nên thân.
Khi ký Học đưa tiền xong rồi cút thẳng, thì cô đứng dậy, thấy người đau như dần, cố bò được đến ghế, cô liền ngồi gục mặt xuống bàn, òa lên nức nở khóc, khiến cho ông chồng đương trận lôi đình mà bỗng lành hẳn lại. Than ôi! Cái nước mắt đàn bà! Mạnh mẽ thay! Lắm thứ nước mắt rửa sạch được bụng dạ! Lắm thứ nước mắt làm trôi được cửa nhà! Lắm thứ nước mắt làm tan được thành quách! Chỉ anh đàn ông chúng mình là đoảng thôi, giá có đi ngoài đường, tự nhiên vô cớ mà bù lu bù loa lên, thì chả khỏi được họ không tống ngay vào nhà thương điên đấy!
Thầy ký Gồ nhìn vợ một cách thương xót, rồi vừa vuốt ve lưng vợ vừa cười, vừa nói rằng:
- Mợ ơi, mợ nhầm thực đấy; chính tôi làm cho mợ nhầm đấy. Cái kết quả sự nhầm ấy đây này, mợ ngẩng mặt dậy mà xem.
Vừa nói, ký Gồ vừa trỏ đống bạc lù lù trên bàn, rồi móc túi lấy ra một nút giấy bạc khác.
- Chỗ kia năm trăm, chỗ này bốn trăm rưởi, tôi vừa thu được ở ngoài sòng đấy. Thế mới là cái đùa của người lớn, mợ nhìn đây rồi tôi kể lại cho mà nghe, nhưng mợ phải tĩnh tâm mới được.
"Ngày hôm nay là ngày lĩnh lương, mà tôi đã quá dại dột, buổi trưa ra sòng đánh thua, chỉ còn có hai đồng bạc. Đến tối, tôi đi đánh gỡ, ai ngờ cũng lại thua hết. Mở phải hiểu cho bụng tôi là tốt, tôi đánh bạc là cốt sự được, để vợ chồng ăn sung mặc sướng, chứ nào có mong gì thua để về mà sinh sự cãi cọ nhau với mợ đâu. Nhưng bụng thì trung thành mà dùng cái cách kiếm tiền không chính đáng, cho nên trời chẳng chứng. Ông ấy phạt mãi, tức là bị thua tháy đến nỗi bán cả nhà cả cửa, mà nay mợ phải ăn mặc khổ sở như thế này, thực tôi trông thấy mà đứt từng khúc ruột. Cái sự đó, tôi đã biết hối và đã xin mợ tha lỗi cho từ buổi tối rồi".
"Lúc ấy trong túi tôi không còn một xu nhỏ nào, tôi không định sống làm gì nữa, tôi định đi tự tử. Nhưng tôi lại nghĩ đến mợ, là người bạn trăm năm của tôi. Tôi mà chết thì tôi được thoát nợ, nhưng chỉ được sung sướng lấy một mình, mà mợ thì suốt đời chăn gối lẻ loi, âu sầu buồn bã, rồi thì mợ sống bằng gì? Tôi còn, mợ không vất vả, tôi chết, mợ tất phải long đong. Bởi vậy tôi quyết sống để cho mợ được sung sướng. Người ta sướng khổ có số trời đã định, biết đâu mình cũng có số giầu mà chưa đến đó thôi?"
"Tôi đi chơi thơ thẩn ở phố thì gập bác Học. Học là một đứa háu gái, nhưng rát. Nó liền nhờ tôi tìm gái cho nó để ăn hỏa hồng, nó cho trước tôi một đồng bạc. Mợ tính trong túi không còn đồng xu nhỏ, mà nay nó cho mình tiền để giúp nó một việc cỏn con, thì dại gì mà từ chối. Tôi liền nhận lời. Lúc ấy vừa có một người con gái đi qua mặt, tôi có nói khoác là nhân tình tôi đấy, thế là thằng ngốc mê đặc, nằng nặc đòi cho được con bé ấy cho nó. Tôi nghĩ mãi không biết làm thế nào. Xưa nay tôi với mợ, bao giờ cũng một lòng yêu thương, không hề chia ân xẻ ái cùng ai, chắc mợ đã biết. Vậy thì làm gì có nhân tình mà nhường cho nó, mà lỡ dịp này, tức là lỡ một dịp làm giầu, chính là cơ hội sung sướng đến nơi, nếu tôi không khéo, thì bỏ hoài phí dịp. Nhân mợ không biết mặt nó, nó không biết mặt mợ, tôi bèn nghĩ ngay ra một kế, âu là sự sung sướng hai vợ chồng cùng được hưởng, thì hai vợ chồng ta cùng phải dúng tay vào việc, tôi lập mưu, nhưng mợ phải thực hành cái mưu của tôi mới được. Nhưng tôi không muốn nói với mợ trước, vì chắc mợ không nghe nào. Nhân khổ người nó giống tôi, tôi với nó liền bôi nước hoa cho giống hơi nhau, thế rồi lừa lúc mợ ngủ, tôi bảo nó cứ việc mạnh bạo mà vào nhà, thổi phụt tắt đèn đi, và đừng nói một tiếng nào cả. Công việc tôi định ở trong óc, không khác gì các bánh xe trong bộ máy, đã vào khớp với nhau cả. Nguyên thằng này mới được bạc ban tối, thì tội gì không nhân dịp này mà bắt nó phải nhả cái số được của nó ra cho mình. Cho nên tôi mới vào bắt nó. Vậy mà ông Giời vẫn còn thuơng kẻ hiền lành, tôi vào sòng đánh được bạc, thành ra trong độ nửa giờ đồng hồ, mà mợ cùng tôi làm nổi ngót nghìn bạc!"
Cô ký Gồ ngồi gục xuống bàn nghe, trước còn như người chịu tội, sau thấy chồng nói đến cái kế quỷ quyệt thì chỉ đứng phắt dậy mà kêu được một tiếng: Giời ơi! Rồi lặng người đi, lại ngồi phịch xuống. Thầy ký Gồ lại nói luôn:
- Mợ đừng lấy thế làm nghĩ ngợi, đừng tưởng thế là một việc xấu. Mợ phải biết ở đời này, bao nhiêu bà nọ bà kia, đi ngủ với giai mà giấu chồng, còn chan chân cái mặt ra, nữa là mợ vì tự tôi định dùng mợ làm việc như thế. Mà tôi dùng mợ để kiếm tiền, tôi chả còn hối hận gì, nữa là mợ, thì việc gì phải nghĩ lắm. Vả lại, hãy hỏi không giỏi thì trong ít thì giờ ngắn ngủi ấy, ai có thể kinh tế được một món tiền to như thế không? Đáng lẽ mợ nên phục tôi và nên khen tôi mới là phải. Thôi thì việc này cũng là một việc thường; như ăn cơm, uống nước mà thôi.
Cô ký Gồ nghe những lời chồng nói như thế, không thể nào nhịn nổi được, vùng dậy, nghiến răng lại, nhưng muốn nói cũng không nói được một tiếng nào, hai mắt dàn dụa những nước ướt đầm bóng cả hai má. Một lúc lâu, mới nói được một câu:
- Giời ơi, cậu nghĩ lại những lời thằng Học nó van lậy, mà cậu bảo nó những gì? Ra cậu bêu nhuốc tôi đến thế là cùng.
- Thôi tôi xin mợ; giời sinh ra cái mồm chỉ để nói chứ để làm gì? Nói mà được tiền được bạc, chẳng hơn nói mà phải tù phải tội à?
- Thế thì bụng dạ cậu bất nhân chó má quá!
- Bụng chó má nghĩ nẩy được ra xu thì thôi, cũng được.
- Cậu vô liêm sỉ quá.
- Có tiền thì đố đứa nào bảo là vô liêm sỉ, là chó má đấy! Chúng nó lại không nhâu nhâu lên mà nịnh mà hót à?
- Khốn nạn thân tôi quá! Tôi không ngờ đâu cậu lại có cái tư tưởng đê mạt ấy.
- Mợ bảo ai đê mạt? Một cái tát thì hộc máu mồm! Câm ngay, thấy người ta nhịn lại lên câu mãi?
Nói xong, đức lang quân hầm hầm thu cả tiền vào túi, gài ghim cho chặt rồi lên giường đi ngủ, vui vẻ như nhà soạn kịch được công chúng hoan nghênh, vui vẻ như cô bé vừa cho kẻ ăn xin đồng kẽm vậy. Còn bà vợ thì chống tay vào má, ngồi thừ người ra thở dài suốt đêm, đến tận tang tảng sáng...
Nơi đó là một chỗ đô hội chốn thôn quê, cách tỉnh lỵ chừng ngót ba mươi cây số. Này, nhà ngói san sát, phố xá đường ngang đường dọc đá lát phẳng lì. Hiệu buôn ta, hiệu buôn Khách, tranh nhau châu đầu chung quanh cái chợ to mà lều quán le te dài như lũ rắn cong queo phơi mình dưới ánh nắng. Ngày phiên chợ, thì đông nghìn nghịt, không biết mấy muôn người, kẻ bán người mua, ồn ào từ gà gáy đến chiều sẩm. Ở các hiệu, tiếng bạc đếm sủng soẻng, xe tải hàng rầm rầm. Chỉ độ vài giờ, một chiếc ô tô chở khách xanh hay đỏ, tốc bụi lù lù đằng xa đã dún dẩy tiến đến, inh ỏi bóp còi, ở trên nóc ngất ngểu lắc lư một đống người, hai bên thành, lại phấp phới áo quần năm bẩy vị, bám chặt như lũ nhái bén ôm thân cây. Xe ô tô chờ sẵn đấy, lúc nào cũng có hai ba chiếc, thỉnh thoảng lại yên ủi hành khách bằng những hồi sình sịch vặn máy độ hai ba phút rồi lại thôi. Đà bà qua chỗ đó, không biết có phải định tìm xe để lên hay không, nhưng đã bị bốn năm người túm tụm lại, hoa cả mắt, rồi trong khi ngơ ngác kêu gọi không biết gánh hàng và cái nón ai lột và cất đi đâu, thì đã bị dúi vào trong cái hầm tối, mở mắt ra chỉ thấy những lưng là lưng!
Tối đến, khi khách chợ đã vãn, thì đèn măng-xông các hiệu bật ra, tiếng lách cách bản tính tính tiền thực là êm tai đẹp mắt.
Ở bờ sông một phố chạy dài chừng ngót hai cây số, một vài hàng cơm chen lẫn vào các sở các tòa, tối đến lập lòe ngọn đèn quang treo trên xà nhà, như vẫn còn cố mở mắt thức để đón khách ở tầu thủy lên vậy. Tiếng tu tu còi rúc, bến tàu đã đông đủ những hàng quà chờ sẵn, khi tàu áp mạn, là tranh nhau nhảy xô xuống cho mau. Rồi tiếng ào ào làn sóng vỗ bờ, tiếng sình sịch guồng máy chạy chậm, tiếng người gọi nhau, tiếng rao quà bánh, tiếng chào mời của anh nhỏ hàng cơm, tiếng hỏi thẻ của thầy quyền trong trại. Ồn ào ỏm tỏi cho đến tận lúc con tàu nhổ neo.
Ban ngày thì phố ấy trông lại đẹp hơn. San sát nhà ngói đỏ lòe, tường vôi trắng xóa, xen nhau với hàng cây lá biếc với vùng giời xanh rì. Dinh quan đại lý nguy nga một tòa nhà hai tầng cao ngất, ngoài cổng gác chú lính bồng súng, quanh rậu sắt một dặng hoa leo, trông vui vẻ mà nghiêm trang. Làm vào giữa ngã ba phố, bốn mặt đều có cổng, dinh quan Đại chiếm một khu rộng nhất, mà vị trí cũng tốt nhất vậy. Cạnh đó, nhà thương chính, phục vị ở giữa đám cây cối um tùm giàn nho trước mặt, vườn cảnh hai bên, tuy không uy vệ nhưng có vẻ vui hòa. Cách nhà thương chính một cái sân quần xi-măng trắng xóa nằm sóng sỏi trên bãi cỏ xanh rì, có cây đu vòng lộn, thì là nhà dây thép, cả ngày rầm rập những người vào ra, tiếng máy lạch cạch, hồi chuông leng keng, không mấy khi dứt.
Đi quá chừng hai, ba trăm thước tây, qua một cái ngòi con có cầu sắt bắc ngang, thì, tuy có gió thổi mạnh đưa đi, nhưng ta còn ngửi thấy cái mùi đặc biệt của các vị thuốc. Đó là nhà thương cao ráo mà sạch sẽ. Trong giờ làm việc không mấy lúc ngơi, người bồng con, người đưa mẹ, kẻ dắt vợ kẻ cáng cha đến để xin thuốc. Bên nhà thương, lại một tòa nhà nữa làm ngay ở khu đó, nhưng cửa trước quay vào phía phố trong, là nhà hộ sinh, chẳng khác gì bức tranh truyền thần cái xã hội ẻo lả của người giống yếu. Cô thì ì ạch cái bụng phưỡn ra đằng trước, bà thì xanh lướt trùm hụp cái khăn vuông, động nói với nhau là đến ngay chuyện ốm yếu, trong nhà tiếng trẻ oe oe khóc như giọng kèn lính tắc hơi.
Rồi đến một khu đất vuông, trồng thẳng ngay ra phố buôn bán, chung quanh có hàng rào găng bao bọc nhẵn nhụi như cái đầu mới cạo, giữa là một cái sân rộng phẳng lì có hai hàng sấu như hàng tán bày ra để bướng bỉnh với bóng mặt trời. Hai bên là hai dẫy nhà có tường quét vôi vàng, điểm mấy vùng gạch vẽ đỏ. Đó là trường học, năm lớp con trai, một lớp con gái, lô nhô lũ đầu trong lớp, im phăng phắc rõ ra dáng có thứ tự nghiêm trang. Một ngày bốn lượt, cảnh sân trường huyên náo, vo vo như đàn ong vỡ tổ, reo hò chạy nhẩy, đàn trẻ em như sợ phí cái tuổi xuân vui.
Bên cạnh trường học, là một miếng đất vuông có rào rậu, rộng ước một mẫu, trước là cái ấu trĩ viên, nhưng nay thành ra cái vườn chuối; trong vườn còn chơ chơ hai cái cột đu mục nát, khẳng khiu. Giữa một cái nhà con, mái ngói đã sụt nhiều chỗ, có một cái bia ngả nằm ăn vạ bắt đền cái lòng sốt sắng chóng nguội của người đời bây giờ. Bọn giai gái thường đến tối hay rủ nhau vào chỗ sẵn sàng kín đáo ấy để trên bộc trong dâu cho tiện. Rồi đến một dẫy nhà người buôn bán, mùa gặt hái xong, thì tấp nập những bác phu gạo lực lưỡng, còng lưng cõng cái bì to kếch để xếp đống như thành bên cái cân tây dưới mái hiên, mà đường cái thì không mấy lúc không có bụi và cám bay lên, lờ mờ như bức ảnh rửa non thuốc.
Ngoặt vào trong, thì có huyện, bờ thành lũy tre thật là kín đáo. Cái nhà nửa tây nửa ta, chễm chện ngồi xếp bằng tròn ở giữa cái sân rải sỏi, mà gian giữa chia ra, quanh năm như há miệng muốn ngoạp lấy cây thiên tuế cạnh bức bình phong. Cái mành mành xanh vẽ rồng vẽ phượng treo ngoài làm cho tôn nghiêm thêm cái vẻ cao xa của vị quan phụ mẫu. Cậu lính, đổi nét mặt luôn, lảng vảng ngoài sân, khi thì trợn mắt mà dọa nạt, khi thì vui vẻ mà xun xoe, thỉnh thoảng tiếng chuông vặn, tiếng dạ ran, thì ta lại thấy một anh nhà quê lù dù, khúm núm giật lùi ra, nét mặt vẫn còn xám ngắt!
Hạt này có những hơn tám mươi làng, mà làng nào cũng làm ăn phồn thịnh, chỉ trừ có một tổng ở vào cuối huyện, bị dẫy núi hạt bên cạnh nó bò nhoài sang, cho nên cầy cấy không được mấy hột. Nhưng, cây rừng đá núi, ông Tạo hóa lại đền cho một mối lợi tự nhiên. Ruộng đã tốt lại lắm sông ngòi, cho nên quanh năm không thấy một miếng đất nào ngoài đồng để yên trong mười hôm đằng đẵng, mà dân cư không mấy khi không sẵn đồng tiền cót thóc ở trong nhà. Nhưng có lẽ vì dân đây không thường phải lo miếng ăn, cho nên không được khôn lắm, mà đã lắm tiền thì hay nghĩ đến cái xa xỉ hão huyền. Này, chuyện ăn trên ngồi trốc chốn đình trung, chuyện mua ngôi bán thứ trong dân xã, không mấy khi không có, mà làng hay tổng khuyết chức dịch, thôi thì cố bán cơ bán nghiệp để tranh nhau cho kỳ được mới nghe.
Công khai hóa của nhà nước đã bầy rõ ra ở dọc bờ sông như khoe cái văn minh với khách qua đường, vậy mà ở hạt này, cái văn minh như vẫn còn hiếm.
...Cho sự bình yên mà làm ăn cầy cấy, thì đã có quan Đại, quan Huyện; cho sức khỏe về tinh thần về vật chất thì đã có trường học, nhà thương; buôn bán giao dịch với nơi khác thì nọ bến tàu rộng rãi, này đường xá phẳng phiu, còn lôi thôi gì nữa, vậy mà dân đây không biết hưởng để an cư lạc nghiệp, lại hay bới vẽ chuyện với nhau, nào tranh giành nhau, nào đánh chửi nhau, rồi đem đầu đi kiện cáo, rồi lánh mặt để báo thù, cho nên đáng lẽ dân phải giàu lắm, mà đồng tiền vào lỗ hà ra lỗ hổng.
Một hạt to làm vậy, mà ít người đỗ đạt hoặc có danh vọng với quốc dân. Đã ba mươi năm nay có một ông đỗ tú tài, nhưng cũng không làm gì cả. Ông Tú lại nhà nghèo và lắm con, nên làm ăn vất vả, mà con cái cũng không học cho đến nối được nghiệp nhà. Còn về gần đây, cũng có một ông chánh tổng, nhà không được giầu lắm, lo ra làm nghị viên, nhưng mới được có hai tháng đã phải ngồi tù nợ.
Bọn trẻ, tân học, thì mới có những hạng đỗ sơ học Pháp Việt, nhưng phần nhiều là con cháu các người thiên hạ đến ngụ cư. Có một người học được đến lớp trung học trường Bảo hộ, nhưng lại phải đuổi về hạnh kiểm xấu, nên bây giờ cũng nằm nhà, mà ông bố bắt theo học chữ nho, ruộm răng đen và để búi tóc.
Một nơi trù mật mà dân chất phác như thế, không trách nào người thiên hạ ai đến đó làm ăn cũng phát tài, có người giầu đến vài mươi vạn, nhất là những người làm việc có dính tí nhà nước, lương một tháng độ năm bảy đồng, mà ăn ở cũng được phong lưu. Cho nên người ta cứ đồn là chỗ ấy tốt, phàm làm việc gì, không cứ là công hay là tư, ai đã đến đấy cũng mong ở mãi, người chưa được đến đấy thì mong được đến, bởi ai đến đấy làm ăn, cũng nắm trong tay cái giầu có.
Nơi đó là chỗ thầy ký Gồ mới đổi về làm việc vậy.
Gió lạnh hắt hiu bóng tà bảng lảng, cảnh hoa tan như giục cái thu qua...
Thầy ký Gồ về sở mới được vài hôm thì thuê ngay được nhà ở.
Cái nhà ấy, rộng rãi mà đẹp, làm vào giữa một khu đất lặng lẽ mà thanh u.
Gian giữa tiếp khách, vôi vẽ ghệch dọc đỏ, như có ý dối mắt người tưởng bức tường cao lên thêm vài tấc, thì lại bầy ngay bốn chiếc ghế gụ lùn vuông, lè phè ngồi xổm chung quanh cái bàn cũng vuông chăn chắn. Mấy cái khung ảnh bám nép vào tường lúc nào cũng như rũ mặt xuống mà cười cái bộ sa-lông lố bịch, nhưng hình như sợ ngã mà cố thò dây lên víu chặt đến tận gần trần.
Muốn cho thầy ký Gồ khỏi áy náy vì sợ tác giả quên không khoe cho hết cái sang trọng nhà thầy, thì tác giả vội phác thêm ngay vài nét bút nữa để tả cái buồng cạnh. Ngay chỗ cửa vào, một cái tủ áo chạm, đứng sừng sững, lễ phép mà nghiêm chỉnh như cậu lính đứng trước vị quan trên. Giữa gian ấy, một cái giường đồng sáng nhoáng, có cái màn tuyn trắng nuột, lúc nào cũng rũ xuống để theo lệ, chờn vờn phấp phới như vẽ nên làn gió lọt ở khe cửa vào. Cái giường ấy như cũng muốn làm đỏm, không bao giờ quên soi vào trong cái gương to treo đối diện ở trên tường vậy.
Được sung túc, cho nên thầy cũng sắm sửa cho cô khuây khỏa lòng, nào khăn nhung, nào áo gấm, nào giầy mang cá, nào "san" mỡ gà, nhưng nào cô có muốn lịch sự như thế mà chi, vì càng trông thấy cảnh thấy người càng đau vậy!
Than ôi! Nhớ khi còn ở Lào Cai, quần tơi áo tả, vợ chồng những trông nhau mà chán; tiền không có đong gạo, thì ăn cháo hoặc nhịn cơm, nhưng không đến nỗi xót xa; mà nay, này giường, này ghế, này tủ, này gương, đồ đạc trong nhà như luôn luôn nhắc cho cô nhớ lại cái đêm hôm ấy đêm gì vậy.
Những khi mây sớm sương khuya, giăng ngàn gió nội, những lúc gương soi lược giắt, khăn vận trâm cài, mà trạnh tưởng nông nỗi, thì nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn! Than ôi! Thà chịu cháo rau rách rưới nhưng thân được trong sạch, còn hơn nằm trên đống bạc mà thân phải tanh hôi! Phú quý vì đâu? Gạo trắng nước trong, nhưng nuốt vào cổ nghẹn, giường êm chiếu nhẵn, nhưng nằm xuống lưng đau. Nghĩ buồn cho các bạn nữ lưu, nghề nghiệp không có, lương chồng ăn bám, thì ngọn roi đầu vọt cũng không dám thấy đau, mà những đức ông chồng quen mui áp chế, sao không biết thương đến người bạn trăm năm đào thơ liễu yếu, nỡ đang tay vùi giập cánh hoa cho đành!
Nhưng lại ngán cho phong tục của xã hội, "lấy chồng mong được nhờ chồng", cho nên không ai nghĩ đến chức nghiệp làm trọng, mà mang thân nương bóng suốt đời như sống gởi thác nhờ. Cái làn sóng nữ quyền ở Âu Mỹ tràn sang, vậy dám mong các bà các ông tỉnh ngộ.
Thầy ký Gồ ngày đi làm hai buổi, tối lại tụ họp anh em để tổ tôm tài bàn. Thực là cảnh êm đềm khoái lạc.
Thế nhưng những cảnh êm đềm khoái lạc, ông Hóa công chỉ giử cho ta đỡ chán đời, rồi lại cất đi ngay. Bởi vậy khi ta gập bước không may, thì ta cho là cái không may này có lẽ nó thế cho cái không may khác sắp đến. Cái cách tự an ủi ấy cũng có thể làm cho ta đỡ oán Trời vậy.
Dăm hôm sau khi ở Lào Cai về, thì vợ chồng thấy ký Gồ có chuyện cãi nhau. Có gì đâu, chỉ có chuyện châu chấu với cào cào, mà vợ chồng thành ra to tiếng. Cái con bẹt đầu nhẩy xa, thì chồng bảo là con cào cào, mà vợ rằng con châu chấu. Cái con nhọn đầu nhảy yếu, trong có cánh đỏ, thì chồng bảo là con châu chấu mà vợ thì rằng con cào cào. Vợ chồng đã hay bất bình nhau, thì chuyện cỏn con cũng thành ra to tiếng được.
Rồi đang chuyện nọ rọ sang chuyện kia, bà vợ lại diếc móc chồng cái việc vô liêm sỉ ở Lào Cai, cho nên bị ngay một trận đòn súc miệng!
Trận đòn ấy lại gọi trận đòn khác, cho nên luôn nửa tháng trời, lúc thì việc nọ, lúc thì việc kia, cái má và cái lưng cô ký Gồ không mấy ngày được ngơi khách! Thế rồi một buổi chiều, cô ký Gồ kêu thấy trong người khác, khó ở lắm. Thầy thì cho là cô làm nũng, lại toan lại đánh cho trận nữa cho bõ hờn! Nhưng vì cô kêu ầm lên nên phải thôi.
Hôm sau, cô kêu gây gấy sốt. Thầy sờ tay vào trán, quả thấy nóng, cho nên mới bảo là giao nước, uống kí ninh chắc khỏi. Nhưng rồi cô thấy nhức đầu, chóng mặt mà mỏi các đầu xương. Thầy đoán là đi đường nhọc mệt, và thời tiết đổi thay, nên người yếu dễ mắc bệnh, mà bệnh qua loa, có ngại gì. Vả thầy nghiệm rằng các bà đàn bà bị chồng đánh thì hay dỗi cơm và làm mình làm mẩy, ốm là ốm giả cách, giá ông chồng có xin lỗi thì tự khắc khỏi ngay, chứ giá lại lục ở dưới đống chăn ra, thì thế nào cũng bắt được một cuộn lá bánh giò to tướng!
Hôm sau nữa, cô thấy nước tiểu hơi đo đỏ và nong nóng, cô cho là đàn bà có mang hay nhiệt, nên cô cũng không để ý đến. Nhưng rồi cô sốt mê sốt mẩn, nhức đầu như búa bổ, đến nỗi hai bên thái dương đánh rất mạnh, thớ thịt thỉnh thoảng giật như co lại.
Thầy biết không phải bệnh nhẹ, bèn vội vàng mời các ông lang để xem mạch và kê đơn. Nhưng uống thuốc mà bệnh vẫn tăng, rồi đâm ra đủ các chứng, thức thì nóng ruột, ngủ thì giật mình, trong người ngứa ngáy khó chịu, cả ngày nước mắt nước mũi chảy ra như người khóc.
Uống hết thuốc sốt rét lại đến thuốc ngã nước, nhưng chỉ phí tiền toi. Mấy ông lang gia công mà bẻ bai nhau, song rút cục lại ông nào cũng mập mờ, không đoán trúng được bệnh. Ông thì bảo chặt cây thì nên tỉa cành trước, rồi chặt cái gốc sau dễ hơn. Ông thì bảo nên chặt băng cái gốc đi thì tự khắc cành phải khô héo. Mỗi người một lý, mỗi người một ý, chữ trong đơn các thầy nắn nót cho thực tốt, mà thuốc uống chẳng ăn thua gì!
Thầy ký Gồ nghe vợ kể các chứng thì đoán ngay ra bệnh. Vì thầy đã lịch duyệt về cái môn ấy nhiều phen. Thầy nói chẻ vỏ ngay là cô phải bệnh giang mai! Thôi thế là cái thằng khỉ Học nó làm hại rồi. Thế có chết không! Ra hôm ấy thầy quên phắt ngay mất rằng chính ký Học còn đương tiêm la rụt cổ lại. Thôi thế là nó đổ cho vợ mình rồi!
Khốn nạn thân cô ký Gồ, vừa tránh vạ nọ lại mắc vạ kia. Thấy chồng nói mình mắc phải cái bệnh khỉ gió ấy, thì cô chỉ đêm ngày khóc lóc mà thôi.
Một hôm cô bảo thầy rằng:
- Tôi xin phép cậu cho tôi về nhà quê để uống thuốc, chứ ở đây xem chừng không ai biết chữa đâu.
- Mợ không phải đi đâu cả, tôi sẽ mua thuốc ở Hà Nội về cho mợ uống. Bao nhiêu hiệu ở Hà Nội bán thuốc lậu thuốc giang mai quảng cáo trong nhật trình, hay như giời, việc gì phải chữa ở đâu cho phiền.
- Những thuốc ấy tôi chắc là láo cả, họ quảng cáo thì nói như giời như đất, mà rút cục lại chắc có lẽ chả công hiệu gì, vì cấm sao được họ nói khoác. Tôi không thể nào ở đây được nữa, vì nhỡ câu chuyện kín kia vỡ lở ra, thì tôi không còn mặt mũi nào trông thấy người khác nữa, ở nhà quê xa xôi, vả lại có nhiều thầy hay, thì mới mong khỏi bệnh được.
Bất đắc dĩ thầy phải bằng lòng. Vì thầy nghĩ rằng nếu cho vợ về nhà quê, thì hẳn thế nào rồi ông cụ cũng biết, chắc không tài nào tránh khỏi được một trận chửi mắng. Nhưng cứ để vợ ở đây, thì được thể lúc ốm, nó nói dai quá, không tài nào mà chịu nhịn cho nổi được.
Cô về đến nhà quê, lại bị tiểu sản nữa! Rồi ốm liệt giường liệt chiếu. Thấy cô ốm thì ai cũng ái ngại cho cô, cả nhà cả họ đến thăm nom rất là chu đáo. Nhưng ai hỏi cô, cô cũng nói là cô ngã nước. Buồn nhất là ông cụ bố chồng, bỏ cả công việc làm ăn mà mời thầy, mua thuốc, trông nom cơm cháo cho cô. Ông cụ quý con dâu bao nhiêu, thì nay thấy cô ốm yếu lại thương cô bấy nhiêu, rồi bắt dọn cho cô một cái buồng ở nhà trong cho cô được yên tĩnh mà nghỉ ngơi.
Than ôi! Cô có được nghỉ ngơi bao giờ đâu! Còn gì đau đớn cho bằng có nỗi khổ mà không tiện than thở cùng ai được. Cho nên óc cô bao giờ cũng nghĩ, nghĩ đến anh chồng vô lương tâm, vô liêm sỉ, nghĩ chán lại khóc, khóc để mong hả được nỗi đau đớn trong tâm can.
Những khi đêm khuya canh vắng, những lúc sao lặn giăng mờ, mà có thiu thiu giấc điệp, cô chợt nghe thấy tiếng kẹt cửa, là cô đâm hoảng, giật nẩy mình ngồi nhổm lên kêu ầm: "Bắt lấy nó, không phải cậu nó đâu". Nhưng lúc tỉnh, cô mở choàng mắt ra, nhìn trước nhìn sau, tìm quanh tìm quẩn, tuy biết đích là nhầm, nhưng trong bụng vẫn bồi hồi, tựa hồ như cái người vừa kẹt cửa là người chồng sai đến lừa mình vậy. Rồi cô thở hổn hển, lại se sẽ từ từ đặt mình xuống chiếu, hai mắt chừng chừng mở to như muốn nhìn suốt qua nóc nhà để thấu đến tận trời cho biết mình là một đứa khốn nạn.
Khốn nạn, cô ký Gồ ơi! Cô có nghĩ thương đến thân cô chăng tá? Này, cô thử cầm cái gương mà soi, hai con mắt cô chũng mà quầng đen, hai gò má cô cao mà xám ngoẹt, người cô bây giờ chỉ còn có cái da bọc cái xương thôi đấy, trông cô không khác gì con ma đói đâu!
Vậy mà cơm cháo cô chẳng ăn, thuốc thang cô không uống, cả ngày cô chỉ nằm, như dán sát bộ xương cô xuống chiếu mà vật mình vật mẩy thì có ích chi?
Ấy cả nhà thường dỗ dành cô, khuyên giải cô như thế, nhưng cô có nghe ai? Vì ai biết được bệnh tình cô, ai thấu được tâm lý cô. Cô bảo cô ngã nước, thì ông lang bắt mạch xong cũng cứ rằng cô ngã nước, rồi mà cả nhà cũng yên chí rằng cô ngã nước. Ấy thế mà thuốc ngã nước cô chả chịu uống, thì ai biết chiều cô đến thế nào?
Một hôm cô gọi cả người nhà vào trong buồng, nói chuyện rằng có lẽ cô khỏi bệnh từ nay, mai cô sẽ bắt đầu ăn cơm và ra vào như thường được. Cô rất vui vẻ, nên cả nhà mừng rỡ. Trò chuyện hồi lâu, thì vừa tối, cô có ý mệt, thiu thiu nhắm mắt ngủ dần, ai nấy đều se sẽ ra và đóng cửa lại cho cô ngủ được yên giấc.
Thế nhưng khi cả nhà ra cả, cô se sẽ bò dậy, cố ngồi lên, lấy bút chì và mảnh giấy, viết cho chồng bức thư sau này:
Thưa cậu,
Thôi, từ nay âm dương đôi ngả, cậu không còn gặp tôi ở trên trần gian này nữa, vì tôi không còn mặt mũi nào mà hưởng chung phú quý cùng cậu được.
Cậu nên biết cho rằng từ ngày cậu bán rẻ cái thân tôi lấy một đồng bạc của thằng Học, thì tôi lấy làm nhục nhã quá.
Ngờ đâu vì đồng bạc ấy mà cậu sang trọng như ngày nay; ngờ đâu vì đồng bạc ấy mà cậu phải góa vợ như ngày nay; ngờ đâu vì đồng bạc ấy mà cậu giết vợ cậu và con cậu một cách đau đớn như thế này! Cậu đã coi thân tôi chỉ to bằng đồng bạc, thì dù tôi có ở trọn đời cùng cậu nữa, cũng chỉ là sống dơ sống bẩn mà thôi, chứ sung sướng nỗi gì?
Tôi không sớm liệu cái thân tôi trước, thì tất cái sầu não, cái bệnh tật sau này nó cũng làm cho tôi phải chết hao chết mòn mất. Tôi xin thưa thực với cậu rằng chính tôi định lìa trần ngay từ tối hôm ở Lào Cai kia rồi, nhưng nghĩ không muốn để vạ đến cậu, nên tôi còn cố sống đến bây giờ. Khốn nạn thân tôi, ngay ở cái nhà sang trọng mà bây giờ cậu đương ở, tôi cũng đã tự tử hai lần, nhưng có lẽ cái chết nó cũng ghét tôi mà chưa nhận hay sao, mà lần nào tôi quyên sinh cũng lỡ.
Đến nay thực may cho tôi được chết ở nơi quê cha đất tổ, vì nếu chết bên cạnh cậu, thì chắc không còn ai xấu số thiệt phận hơn tôi. Lúc sống cậu đã chẳng thiết tôi, thì chắc lúc chết, tôi còn dám mong đắp điếm nỗi gì! Mà sau này cái dúm xương tàn của tôi, cũng chẳng còn ai đoái tưởng đến nữa!
Tôi không thể nào viết thêm được nữa, thôi, tôi chỉ dám khuyên cậu nên sửa mình, bằng không thì cái cảnh bêu rếch ở Lào Cai, nó vẫn chờ cậu ở ngoài ngõ đấy.
Ký tên
Viết xong thư, có lẽ cảm động quá, cô nức nở khóc, nhưng thảm quá, dễ thường người cô khô khan quá đến nỗi không còn lấy một giọt nước mắt chẩy ra! Cô dán phong bì cẩn thận rồi gọi người nhà đi bỏ hộ vào thùng thơ. Thế là cái đồng bạc của thầy Học ở Lào Cai nó đã thay được đời cô ký Gồ cho đời thầy ký Gồ vậy.
Đến nửa đêm hôm ấy, trong khi cả nhà yên chí rằng cô ngủ đương ngon giấc, thì cô ngồi dậy, cố lần ra cửa buồng, gài kỹ then lại, rồi cô mở va-li lấy một hộp thuốc phiện với chai dấm thanh không biết cô sắm tự bao giờ. Cô hòa hai thức với nhau vào bát, và trước khi uống, cô lấy dây lưng và khăn tự trói chân trói tay thật chặt vào mình.
Cô nốc một hơi không còn một giọt cặn. Uống xong, nằm thẳng cẳng trên giường. Nhưng được một lúc cô lăn lộn vật vã, tuy người yếu, nhưng không hiểu cái sức khỏe lạ thường ở đâu nó lại, có lẽ là cái sức cuối cùng cần phải chống nhau với cái chết, cô làm bật cả dây trói ra... Rồi đập chân tay, xé quần áo, dứt đứt cả tóc, cào sát cả mặt. Một chốc cô ngã bịch xuống đất, bọt mép đùn ra sùi sùi, thở hồng hộc... Thế rồi nằm im, thiêm thiếp dần, hai mắt trợn ngược lên, hàm răng cắn chặt lấy lưỡi, cô cứng người như khúc gỗ...
Quan huyện ở hạt thầy ký Gồ làm việc, năm đó đã già. Ngài là một bậc quan cổ, chữ nho thì thông, nhưng chữ pháp không biết, cho nên ngài cũng tự biết là hạng lép vế trong quan trường, ở vào thời buổi mới này, không được hợp cho lắm, bởi vậy ngài cũng đành chán nản sự bay nhẩy, cho là len lỏi ganh đua được với họ bây giờ cũng khó lòng hòa vốn, vì mình chẳng có tài. Ngài chỉ ước mong được nhàn hạ, được uống rượu làm thơ, tiêu dao phong cảnh cho qua ngày đoạn tháng để chờ giấy về hưu. Nhiều người quá cay nghiệt, nói chuyện về ngài, thì hạ ngay lời bình phẩm vơ đũa cả nắm, tặc lưỡi mà rằng:
- Chà! Bây giờ bẫm rồi mới thế!
Nhưng mà oan, ngài quả là một tay chính trị thực thà, chứ không phải là hạng mọt khoác áo nhà chính trị.
Thế nhưng dù ngài chán nản sự bay nhẩy, mà ngài cũng muốn tránh nơi vấp váp trên đường công danh, cho nên như phần nhiều các ông quan cổ, công việc làm ngài có ý chậm chạp, đắn đo cẩn thận quá, thì người ta lại cho là dát, nhất là lại thấy ngài có ý vị nể các ông phán ông ký các sở các tòa ngồi cạnh bàn giấy quan tây. Vì lẽ đó, các ông phán ông ký biết đích ngài có chỗ yếu ấy, thì hay giở cái thế lực không biết thật hay dối để lòe ngài!
Thầy ký Gồ làm ở đây, được gập quan Huyện này, thực là một dịp may cho thầy về sự gây dựng cơ nghiệp lớn!
Một hôm thầy vào chơi trong quan Huyện, nhân chuyện việc quan, thầy làm mặt thân thiết, nói chuyện với quan Huyện rằng:
- Tôi nói riêng với Quan lớn, hình như độ này quan Đại có ý không bằng lòng quan lớn.
Quan Huyện nghĩ mãi, chẳng hiểu việc chi, nhưng cũng để tâm nghĩ ngợi, rồi thầy Gồ nói tiếp:
- Cho nên kỳ tăng thưởng này, ngài có ý ngần ngừ.
- Ngài có tư cho tôi không?
- Hôm qua tôi cố nói mãi, nhưng vẫn thấy ngài im, không trả lời. Ngài chỉ bảo qua: Quan Huyện làm không chạy việc. Tôi cũng nói là tuy quan lớn không biết tiếng tây, nhưng dân tình phục lắm.
Quan huyện mừng rỡ, tỏ ý cảm ơn. Ký Gồ lại nói:
- Quan Đại tinh lắm, ai làm việc thế nào, ngài biết hết cả. Ngày tôi mới về, chưa lựa được tính, nên nhiều phen ngài bảo ban cho; nay đã thuộc tính, thì công việc tôi làm thấy trôi chảy lắm, mà ngài cũng có ý nể và nghe. Ấy, nhiều phen tôi phải nói đỡ hộ quan lớn, không thì ngài không bằng lòng đâu. Quan Đại chỉ phàn nàn rằng không hiểu quan lớn làm ăn thế nào mà thấy dân sự ở đây họ trễ nải công việc lắm. Tôi vẫn biết dân sự chễ nải công việc, nào phải tại đâu quan lớn xui họ, nhưng quan Đại cứ nghĩ thế thì biết nói sao? Ngài bảo rồi ngài sẽ đến chơi quan lớn và hỏi về việc đó.
Quan Huyện nghĩ mãi câu trả lời, nhưng không xong, bèn nhờ ký Gồ nghĩ hộ. Quan Huyện lại nhờ ký Gồ cả sự che chở hộ mình đối với Quan Đại, và thầy ký Gồ là người thạo, lại hứa sẽ nhờ cả sự dàn xếp công việc đối với dân, vì như thế thì không sợ chi quan Đại, ký Gồ sẽ luôn luôn đứng trước mình làm cái mộc để đỡ.
Trả ơn người làm ơn, là cái đặc điểm của phần nhiều nhà nho, từ đó quan Huyện để cho thầy Gồ một mối lợi. Từ nay, phàm dân trong hạt, ai muốn đến công đường kêu ca việc gì, thì ngài miễn cho sự mang sách, bu gà, thúng gạo, ngâm rượu, buồng cau, cứ trình diện bằng người không cũng được, nhưng miễn là trước khi vào hầu quan, phải đến nói với thầy Gồ trước đã. Cho nên có một cái lệ, là anh dân nào cũng phải để đơn lên một cái đĩa, thì thể nào quan cũng chấp đơn, việc khó đến mấy cũng dễ xong như bỡn. Nhiều người thấy tự nhiên quan phụ mẫu lại đổi tính ngược đời làm vậy, thì không hiểu, cũng mượn ở hàng cơm một cái đĩa để đựng đơn, nhưng đều bị quan quở, sai lính đuổi ra, có khi ngài giận đỏ mặt, hất cả đĩa lẫn đơn ra ngoài cửa sổ, bởi vì quan bắt phải để đơn lên trên đĩa bạch định. Nhiều anh hơi thuộc tính quan, tưởng ngài có bệnh chi phải dùng đĩa bạch định, thì cũng tự kiếm được chiếc đĩa bạch định để đơn, nhưng khi vào hầu, thì thấy đầu tiên ngài có ý vui vẻ, nói năng ôn tồn, nhưng chỉ được độ dăm phút, khi ngài lên ngọn kính nhìn kỹ cái đĩa, thì tức thì ngài quát tháo lôi đình, kêu là ba que xỏ lá, rồi ngài thét lính tống cổ.
Viết đến đây, sợ độc giả các ngài lấy làm ngờ, tác giả xin ngoặc chua nghĩa luôn dăm câu cho đoạn này khỏi tối, là cái đĩa bạch định mà dân phải để đơn vào hầu quan, phải là cái đĩa sứt một tí ở thành. Cái đĩa đó, dù tiền nghìn bạc vạn cũng không thể mua được, vì cả thế giới, tuy cũng có hàng vạn nhà có đĩa bạch định, nhưng không có một nhà nào có một cái đĩa có một chỗ sứt ở chỗ đáng sứt, một chỗ đáng sứt giống như cái đĩa nhà thầy ký Gồ! Cái đĩa của thầy ký Gồ chỉ để cho thuê, tùy theo công việc lớn bé, độ một, hai, ba đồng một chốc mà thôi vậy.
Quan Đại hạt này mới ở bên Pháp sang. Bởi ngài chưa biết xứ Đông Pháp bao giờ, chưa hiểu tình hình phong tục và nhân cách dân Đông Pháp ra sao, nên ngài đối với dân còn tử tế lắm; mà nhất là đối với quan Huyện và các người chức sự, thì bao giờ ngài cũng có ý ôn tồn nhã nhặn hơn.
Song ngài chỉ phàn nàn một nỗi là người An Nam làm việc chậm, hình như không ai thiết gì đến việc công cả, mà người nào cũng có tính cầu thả quá.
Từ khi quan Huyện thấy nói quan Đại phàn nàn rằng dân An Nam trễ nải công việc mà ngài lại cho là lỗi tại mình, thì lấy làm lo nghĩ về câu trả lời sao cho chôi chẩy. Một hôm quan Huyện đến hỏi kế ký Gồ, thì ký Gồ xui ngay được một câu trả lời rất là có lý, nếu quan Đại nghe ra, thì ký Gồ xin thầu hết các việc, và xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Quan Huyện cho cái kế ký Gồ là thông, bèn sang chơi ngay bên Quan Đại. Trong khi nói chuyện, Quan Đại lại hỏi:
- Người An Nam thực thiếu xã hội giáo dục. Tôi vẫn thường phàn nàn rằng không hiểu tại sao mà dân đây không thiết gì đến công việc cả. Họ chậm chễ quá chừng, có khi sức hẹn họ đúng ngày đúng giờ phải tới tòa chực hầu, mà họ lên chậm đến hai ba hôm! Vậy mà họ không có chút gì là ân hận sợ hãi cái lỗi của họ cả. Quan Đại trước, nghe nói tính ngài nóng nẩy lắm, thì không hiểu làm sao ngài cũng chịu được?
- Bẩm quan lớn, thế là ngài lầm xét. Vì ngài mới ở bên Quý quốc sang nước chúng tôi, cho nên ngài chưa hiểu thấu dân tình. Cái tính người An Nam tôi vẫn như thế, nhưng có thể làm cho họ vui lòng làm việc cũng không khó gì. Quan lớn thử vào các làng trong ngày có đám xá mà xem, có phải ai cũng tất lực, mỗi người một việc, mà rất nhanh nhẩu không? Vì sao? Thử lắng tai mà nghe, quan lớn sẽ thấy tiếng eng éc của con lợn, hoặc tiếng hồng hộc của con bò sắp bị mổ thịt. Ấy bởi vì họ có miếng ăn vậy. Quan Đại trước, vì ngài ở lâu bên An Nam này cho nên ngài hiểu thấu dân tình, bởi vậy khi ngài mới đến trọng nhậm tại hạt này, ngài có làm một bữa tiệc thết dân, cho nên dân vì cảm cái công đức ấy, mà quan có việc gì cần đến họ, thì họ đến ngay lập tức. Nếu ngay từ ngày quan lớn mới đến, quan lớn cũng đã theo gương quan Đại trước, thì có lẽ quan lớn không phải phàn nàn một tí nào.
- Thế là quan Huyện bảo tôi nên làm một bữa tiệc mời dân, vì dân An Nam không được ăn thì họ hay chểnh mảng công việc có phải không?
- Bẩm chính thế đó.
- Nếu vậy thì tôi cũng theo gương quan Đại trước mà làm bữa tiệc mời dân; nhưng tôi phiền vì nhà tôi chật chội, vả bồi bếp làm không quen cỗ theo lối bản xứ.
- Bẩm quan trước thì mượn công đường chúng tôi để cho họ ăn và bắt lính trong huyện hầu hạ.
- Thế thì tốt lắm. Thôi hay là việc đó, tôi nhờ ngay quan Huyện có được không?
- Nếu quan lớn có lòng tin cậy, tôi không dám quản công.
- Vậy thì bữa tiệc ấy, tốn kém độ bao nhiêu tiền?
- Bẩm chả mấy, chỉ độ ba trăm thì cũng tiềm tiệm đủ được.
- Vâng, rồi quan lớn chọn một ngày nào rỗi việc, bảo lính làm hộ tôi. Để hôm ấy đông đủ cả, tôi sẽ hiểu dụ mấy lời cho dân nghe.
Chuyện trò hồi lâu, quan Huyện cáo từ ra về, cầm ba trăm bạc mà nửa mừng nửa lo. Khi đi qua nhà thầy ký Gồ thì vào chơi để định nói chuyện ấy. Nhưng vừa vào thì đã thấy ký Gồ cười ha hả mà rằng:
- Không trách người ta mất bao nhiêu cũng cố lo cho được về đây! Lãi rồi! Lãi rồi!
- Cái gì mà hí hửng thế?
- Chánh tổng! Chánh tổng! Từ! Bầu! Tiền!
- Chánh tổng sở tại ấy à?
- Phải, quan lớn đã biết rồi à?
- Hơi biết, vì tôi đã nghe thừa phái nói ban chiều. Thế nào, ông nói cho tôi nghe.
- Phải, nó vừa vào tôi để nhờ nói hộ với quan lớn cho nó từ.
- Ông bảo sao? Tôi tưởng nó già yếu lắm, cũng nên cho nó từ.
- Từ dễ lắm đấy! Không khoét thằng ấy thì khoét thằng nào? Quan lớn cứ để mặc tôi thầu cái việc đó. Làm quan mà nhân thì ăn gì? Hễ quan lớn gập mặt nó thì quan lớn phải gắt cho dữ vào, thì nó mới mặn từ. Tôi bảo nó rằng khi ông còn làm việc thì cái công danh của ông là ở trong tay ông Quan. Nay ông xin từ thì ông bỏ cái công danh ông vào hòm, ông còn cần gì đến ai nữa! Vậy trước khi ông được yên tĩnh mà nghỉ ngơi cái tuổi già, trước khi ông không cần đến ông quan nữa, thì ông phải thế nào mới nghe được chứ, chứ quan nào dại mà nhịn đói để cho ông từ?
- Ông bắt nó bao nhiêu?
- Cứ là trước thế nào, sau cũng thế. Lo ra mất bao nhiêu thì lo từ cũng không được kém một xu nhỏ.
- Thế nó có bằng lòng không?
- Chả bằng lòng rồi cũng phải bằng lòng, quan lớn cứ để yên tôi xếp cho, nhưng sau quan lớn nghĩ cho tôi thế nào chứ?
- Thôi, cứ "xẻ cưa"!
- Nó lại còn muốn dắt thằng em họ nó ra thay; em nó là Lý Phàng, quan lớn có biết không?
- Có, tôi cũng nghe thấy nói vậy. Ông đã nhận lời chưa?
- Nhận lời rồi. Cũng "xẻ cưa" chứ?
- Được, miễn là êm thấm là nhất. Nhưng tôi sợ có đứa ra tranh thì mình thêm khó ra!
- Quan lớn đạo đức quá! Mong cho chúng nó tranh nhau chả vẻ thay lại còn sợ! Có tranh nhau mới bở, nếu chỉ có mình nó, thì cái chức chánh tổng hạ giá, mình còn hi vọng gì to? Tôi định rồi nếu không có đứa tranh, thì mình cũng nên xui ngầm cho có đứa tranh nhau mới là phải. Nhưng nghe đâu đã có đứa tấp tểnh ra tranh rồi đấy. Mà nếu có tranh nhau, thì có lẽ kịch liệt kia đấy.
- Ai tranh?
- Phó tổng đương thứ. Chánh tổng nó bảo thằng phó tổng này muốn chừng đắc thế hơn, vì nó hiền lành, hàng tổng nể, lại có thầy ở trên tỉnh, thế lực lắm.
- Thế thì lý Phàng còn hi vọng gì mà nhận lời?
- Nó đã muốn lo trên tỉnh, nó đã muốn không cần đến mình, thì mình làm cho nó biết tay. Nó cậy hàng tổng yêu nó, nhưng yêu ghét mà làm gì? Tiền mạnh là mạnh người yêu. Chánh tổng bảo lý Phàng bao nhiêu cũng dám lo, thế thì thiếu gì người yêu; vả lại yêu gì? Chỉ yêu tiền thôi, thời buổi này mà cứ giở cái hiền lành lắm người yêu mà tưởng tốt thì hỏng, gậm được nó à?
- Nếu vậy thì ông cứ thầu lấy, mấy việc này ta không kiếm nổi vài "phẩy" thì là hèn đấy. À, tôi đã nói chuyện với quan Đại lý rồi đấy.
- Ngài bảo sao?
- Như lời ông đoán.
- Cầm tiền chưa?
- Rồi. Đây, đủ ba trăm đây, ông làm cho khéo kẻo mang tiếng lây đến tôi nhé. Rồi quan Huyện ở chơi đó, chuyện trò tri kỷ mãi đến khuya mới về, mà ký Gồ trong bụng mừng thầm, tự nhiên sao lại được ông quan "chơi được" một cách vô lý thế!
Cách đó hai hôm, thầy chánh tổng sở tại nhăn nhó đến chơi thầy ký Gồ, phàn nàn rằng bị quan quở; và cố nằn nì nhờ thầy nói giúp cho việc xin từ dịch. Rồi một tháng sau, trong nhà quan có kỵ cụ Cố ông. Các bác cai, các cậu lệ lắc đầu lè lưỡi, thì thào với nhau rằng:
- Chưa thấy quan nào hiếu nghĩa như quan ta, vì kỵ cụ Cố, quan làm to lắm! Ngài mời khắp mặt hàng huyện.
Cũng có người nói:
- Mọi năm quan xin phép về làm kỵ ở nhà, vì quan là con thứ. Nhưng năm nay quan bận việc bầu chánh tổng, nên không được phép về.
Các cậu lính phải chạy nháo lên về mua bò, thịt lợn, mua củi, và mượn mâm nồi bát đĩa; các cô thừa, cô đội phải vào làm giúp từ mấy ngày trước hôm tiên thường.
Đến hôm chính kỵ, từ buổi sớm, các kỳ hào lý dịch rủ nhau vào lễ đông rầm rập. Anh nào sắp được chén, mặt cũng tỉnh như con sáo. Bởi vì tuy phải chạy ba cánh đồng mới được một bát cháo, nhưng tiền lễ kỵ đã bổ vào con em phải gánh, trừ phí tổn còn được lãi vài hào. Mà cái bát cháo ấy lại không phải là cháo, lại là bữa tiệc nhà quan.
Từ cổng chòi vào đến cửa công đường, ăn mày ngồi la liệt, thỉnh thoảng tuy cái roi cậu lệ phiết cho cũng khí dát lưng, nhưng cũng cứ lăn xả vào để kiếm miếng.
Công đường rộng là thế, mà họ ngồi chật bốn dẫy phản dài. Còn trong nhà tư và nhà chè cùng nhà khách, cũng đông nghịt những khách chực khao mồm!
Độ mười giờ, ký Gồ giục quan Huyện sai lính dọn cả bàn thờ và cất đi, lại bắt bốn cậu lính cầm quạt lông phẩy mạnh cho hết cái mùi hương vì theo lời ký Gồ nói, thì quan Đại sắp sang chơi, mà ngài sợ mùi khói hương, bà Đầm sợ nhìn ngọn nến cho nên phải dọn dẹp cẩn thận; đoạn rồi mới sai bưng rượu. Các mâm vừa đặt lên phản, thì ở cổng chòi nghe có ba tiếng trống báo.
Khách đang mải khen cỗ to và lịch sự, đồ nấu bầy khéo, thì ba tiếng trống báo làm nháo cả lên, người nào người nấy nhao nhác nhìn nhau mà im phăng phắc.
- Quan Đại! Quan Đại!
Nghe nói quan Đại, anh nào cũng sợ xanh mắt lại, toan chạy ồ vào sân sau, thì quan Huyện đã ra đến nơi mà nói ngay:
- Ấy, không! Các thầy cứ ngồi yên, có việc gì mà sợ! Tôi mời quan Đại sang xơi nước, chứ có việc gì đâu?
Đoạn rồi quan Huyện chạy ra sân đón khách. Quan Đại đi với bà Đầm, nét mặt tươi tỉnh, bắt tay quan Huyện rồi bước vào công đường. Các chức dịch đứng cả dậy vái chào, thì ngài bỏ mũ ra chào giả và vẫy tay cho phép ngồi cả xuống. Khi mọi người đều yên lặng, thì quan Đại đứng ở giữa công đường nói tiếng Pháp, lúc thì trỏ và bọn lý dịch lúc thì trỏ vào quan Huyện, lúc thì trỏ vào mình; rồi ký Gồ thông ngôn lại rằng:
- Quan Đại thấy bên quan Huyện có kỵ, nên lấy thân tình chạy sang chơi, vì ngài thân với quan Huyện lắm. Ngài thấy các thầy đến đây đông đủ như thế này thì ngài lấy làm bằng lòng lắm, bằng lòng vì đã thấy dân An Nam biết trọng quan trên. Vậy quan Đại khuyên các thầy nên chăm chỉ làm việc cho nhanh nhẩu, thì ai đủ lệ, ngài sẽ tư xin cho phẩm hàm. Quan Đại mới ở bên Pháp sang, ngài chưa quen xơi cơm An Nam, cho nên ngài chỉ ngồi chơi đây một lúc rồi về. Các thầy nên nhân dịp này, có việc gì muốn bẩm với quan Đại thì bẩm.
Có một thầy chánh tổng già nhất, đứng dậy gãi tai nói:
- Bẩm Quan nhớn, vì quan nhớn có hỏi cho nên chúng con mới dám nói. Từ khi nhà nước sang bảo hộ cho nước An Nam chúng con, nước chúng con được nhiều sự tiến bộ lắm, nào là đường xá, cầu cống, dẹp giặc giã, mở nhà trường, trị các bệnh hay lây, chống với sức nước mạnh, thực là chúng con lấy làm cảm ơn nhà nước lắm. Nhưng mà duy có việc đắp đê, nhà nước sức mua đất, vậy mà các người thầu khoán ỷ thế bắt nạt dân, suốt một dọc đê, các chủ ruộng đều chưa được tiền nong gì cả. Vậy con xin trình quan nhớn đèn giời soi xét cho dân chúng con được nhờ.
Ký Gồ thông ngôn ra tiếng Pháp, quan Huyện và dân thấy nhanh lau láu, mà quan Đại vừa cười vừa gật đầu ra dáng bằng lòng. Dân và quan Huyện nghe tiếng tây như vịt nghe sấm, lúy súy lùy sùy những cái gì, chỉ rõ có hai tiếng "mét-sì" sau rốt.
Ai nấy đều có ý ngóng xem quan Đại xử việc này ra sao, nhưng rồi không thấy thầy ký thông ngôn lại sao cả. Một lúc, quan Đại giơ cốc rượu lên, nhìn hai bên mà nói những gì, thì quan Huyện cũng giơ cốc lên, đụng vào cốc quan Đại và bà Đầm, rồi ký Gồ nói với chức dịch:
- Quan Đại cho phép các thầy uống rượu.
Dứt lời, bao nhiêu tiếng dạ nối đuôi nhau, rồi đũa bát đụng vào mâm lạch cạch, tiếng "vô phép" ì ộp như ếch kêu.
Quan Đại, bà Đầm cùng quan Huyện và thầy ký Gồ chuyện trò rất vui vẻ. Nhân dân thì thào với nhau, ai nấy đều khen thầy ký Gồ không những tiếng tây đã giỏi, mà nói tiếng đầm cũng thạo, cho nên đối với quan Tây thân thiện như anh em. Độ hai mươi phút, thì quan Đại mét-si, bắt tay quan Huyện và chào chức dịch rồi ra về.
Quan Huyện tiễn quan Đại ra rồi, thì ngài chạy vào, bắt lính dọn cơm ra công đường để cùng ăn cho vui, và cố bắt thầy ký Gồ, cụ Tú ở tổng sở tại và hai thầy chánh tổng già nhất cùng ngồi ăn với mình. Trong bữa cơm, quan dân trò chuyện rất vui vẻ, vì quan cho phép thế, ngài bảo thế mới tự do, thế mới bình đẳng, thế mới thân ái vậy.
Lúc tiệc tan, dân cáo từ xin ra về, nhưng thầy ký Gồ xin phép quan Cố, bảo dân ở lại để đánh canh sóc đĩa, vì chỗ anh em, không mấy khi được họp mặt vui vẻ đông đủ như thế này?
Lúc quan ngần ngại thì thầy ký Gồ đã bảo thầy đội dọn chỗ ở dưới trại lệ để lập bàn, rồi mời cả xuống đó. Nhiều người không mang tiền đi, hoặc sợ vợ thấy đi lâu không về mà kỳ kèo, bèn cố trốn được ra đến cổng. Nhưng cổng đã khóa chặt, mà có thể lọt qua sao được những cái liếc mắt nhanh như cắt của các cậu lệ, cho nên đều bị giữ lại mà lôi kéo cả xuống trại.
Đoạn rồi thầy Gồ lại nói với quan Huyện bảo cụ Tú và tất cả những người ở tổng sở tại ngồi lại để hỏi chuyện, ký Gồ nói:
- Này cụ Tú! Ban nẫy quan Đại có hỏi về việc bầu chánh tổng tổng cụ đấy, Ngài bảo quan Sứ gắt sao chậm thế đấy!
- Bẩm họ còn găng nhau ạ.
- Ngài đã ấn định ngày bầu rồi. Mà cụ là bậc nhất trong hàng tổng, sao không thu xếp cho yên, lại để họ tranh nhau kịch liệt quá thế?
- Bẩm nguyên xưa chỉ có tên lý Phàng ra ứng cử, nhưng vì tổng tôi không ai ưa tên ấy, nên có nói với thầy phó tổng nên ra mà thay.
- Thế thời cứ ý cụ thì ai là người xứng đáng?
- Bẩm không những ý riêng chúng tôi, mà cả hàng tổng cũng vậy, ai cũng muốn cho thầy phó tổng ra chuyến này.
- Muốn cho thầy ấy, thì có bầu cho thầy ấy không?
- Bẩm có.
- Thầy phó tổng đâu rồi?
Mọi người nháo nhác tìm, nhưng lạ quá, thầy phó tổng không có mặt ở đấy. Quan Huyện nói:
- Vì những cớ gì hàng tổng muốn cho thầy phó tổng được làm chánh tổng?
- Bẩm vì thầy ấy hiền lành chăm chỉ công việc.
Ký Gồ bĩu môi nói:
- Cái hiền lành thì tôi không biết, nhưng xem ra thầy ấy chậm chễ công việc lắm, vì thầy ấy nghiện. Vả lại hiền lành có làm được việc đâu? Bầu người ra mà làm việc, lại đi chọn người làm không chạy việc gì, thì có lạ không? Hãy hỏi như khi nước to, như khi có cháy, có cướp chẳng hạn thì lè phè như thầy ấy, liệu có được việc gì cho hàng tổng không? Chọn người thì nên chọn người nhanh nhẩu, sắc sảo, được việc. Tổng cụ vì không biết cách chọn người, cho nên đã làm chậm việc quan; vậy ra cụ mà cũng lầm như thế hay sao? Tôi không ngờ đấy!
Nói xong cười ha hả. Cụ Tú không biết trả lời ra làm sao cho chôi, chỉ gãi tai nói:
- Bẩm không ạ.
- Ừ, có thế chứ, mình là hạng khoa mục, cũng nên lấy dịp này mà tỏ cho mọi người biết mình cũng biết chọn người thay mặt mới được. Thế thì cụ hẳn là bằng lòng cho lý Phàng ra chuyến này!
- Dạ...
Thầy ký Gồ chỉ rình cụ Tú nói ra tiếng dạ là tiếp luôn câu của mình, cho nên thầy nói ngay với quan Huyện:
- Thôi, thế là cụ Tú biết điều lắm rồi! Vậy tôi đứng giữa, tôi cứ thẳng tôi nói, nay nhân tiện đông đủ cả hàng tổng đây, quan lớn hỏi ý kiến thế là phải lắm. Vậy quan đã bảo thế, nhưng còn ai không bằng lòng lý Phàng thì đứng sang bên kia.
Câu nói vừa dứt, thấy anh nọ đẩy anh kia, anh kia kéo áo anh nọ, toan rủ nhau đứng sang, nhưng anh nào cũng muốn đi nước hậu. Nhưng trước mặt quan Huyện ngài đã tỏ ý bênh lý Phàng, thì thôi, bọn dân đen bố bảo cũng không dám bước sang bên kia mà đứng.
Ký Gồ gật đầu khen:
- Vậy ra các thầy đã hiểu cả lời quan mà nghe ngài, đáng khen lắm. Ừ, còn gì cho bằng lẽ phải. À nghe đâu lệ hạt ta có cái món tiền dấm bút mỗi vị dăm mươi đồng thế nào ấy, thì đông đủ cả, quan lớn đưa ngay một thể, tôi tưởng tiện lắm, vì tiệc này cũng có thể coi như bữa tiệc dấm bút của thầy lý Phàng.
Rồi quan gọi lính lấy bút mực và quyển sổ, đưa cho cụ Tú trước tiên:
- Nào, mời cụ ký vào đây.
Cụ Tú cắn ngòi bút, chấm mực, xoáy đi xoáy lại mãi vào nghiên, rồi cắm mặt xuống chiếu viếc ba chữ mà run; viết xong, quan khen:
- Nét bút cụ còn tươi lắm. Cụ còn thọ! Hà! Hà! Nào, ông này! Cho tôi xem chữ nào!
Quan lại dí cái bút vào tay người thứ hai; rồi người thứ ba, thứ tư. Thấy cái cách ngọt ngào chết người, ai cũng biết rồi không khéo mắc lừa thì chết, nhưng nào ai dám cưỡng, hình như dạ dầy mình vừa mới nhồi mới nhét những bong bóng, cá mực của ai nhỉ?!
Lúc trở ra, ai nấy nét mặt ra dáng buồn buồn, nhưng anh nào cũng cố nói khoác một câu cho đỡ giận:
- Tôi đã tính không ký!
Rồi ở dưới trại, trong khi bọn dân ngơ ngác hỏi nhau:
- Quan đưa tiền dấm bút cho ai thế?
Thì ở trên công đường quan Huyện cũng ngơ ngác hỏi thầy ký Gồ:
- Chết chửa, thế ra tiệc giỗ cụ tôi, ông cũng nhận cả với quan Đại là tiệc ngài thết dân đấy à?
Bàn sóc đĩa ở dưới trại hôm ấy to quá; quan cũng xuống đánh. Bao nhiêu người có máu mặt ở hàng huyện đều có cả ở đấy. Ai không có tiền, hoặc ai thua hết tiền, thì quan cho vay. Bởi vậy mấy trăm con người, không ai là không từ cái dịp làm giầu không mất mồ hôi nước mắt cả. Thế mà duy chỉ có thầy ký Gồ ngồi yên. Quái, con quỷ cờ bạc sao đã khéo thành bụt vậy? Chắc các ngài đoán ngay rằng thầy chờ dịp để thi hành cái cớ tinh ma gì đây.
Quả vậy! Túi trong áo ba-đờ-suy của thầy, giá ai nắn thì hẳn bắt được một cái bát. Cái bát ấy thầy đã dụng ý từ trước, phải giống cái bát đương úp tiền; nhưng miệng bát, có căng một lượt da trắng mỏng; trong bát ấy đã có sẵn bốn đồng tiền.
Ấy, cái khí giới của thầy chỉ có thế, nhưng mà nó mạnh lắm thầy chỉ đánh một trận là quyết được thành công; mà cái thế trận của thầy cũng ranh mãnh, là thầy để cho người nọ xâu xé người kia cho nó chán. Những anh hết tiền dần dần đứng dậy cả, thì chỉ còn ngồi lại những nhà sù. Lúc ấy thầy mới hạ thủ. Cho nên thầy cứ ngồi yên mà chờ, người sóc cái nói tức thầy, các con bạc cũng nói kháy thầy, nhưng thầy chỉ lắc đầu:
- Khó đánh lắm.
Thế rồi thầy chờ, chờ mãi; khi thấy chỉ còn trơ lại mấy nhà giầu đánh mà thôi, thầy mới cựa cậy.
- Nào, thì đánh một tí cho đỡ mang tiếng.
Nhưng không hiểu sao, thầy đánh chẵn thì bạc lẻ, mà thầy đánh lẻ thì bạc lại ra chẵn, đến nỗi năm sáu cái thua luôn, mà ai cũng phàn nàn.
- Ông ấy đen tệ nhỉ!
Lúc ấy thầy ký Gồ đã thấy nóng mặt bừng bừng; nghề đời ai thua cũng hay cáu; mà đã cáu dễ sinh liều; cho nên đến tiếng bạc ấy, thầy tức quá, bao nhiêu lẻ cũng bằng ít, nhất là bán cả ruộng nương cơ nghiệp mà được mở bát thầy cũng cam lòng. Ai thấy thầy đắt lẻ cũng đánh tỳ nhà đen, đều quăng tiền thêm ra lẻ cả. Nhiều người đang đánh chẵn cũng phản thùng. Thầy chen vào đứng cạnh nhà cái sau lưng đám con bạc, thò tay xoay bát mà rằng:
- Xong chưa? Này mở này! Lẻ nhé! Thôi chết! Nhịu mồm!
Miệng nói, tay mở bát đánh phựt một cái:
- Lẻ!
Cáu quá, thầy dậm chân, nghiến lợi mà rủa trời đất. Nhưng nhanh như cái cắt, thầy úp giả bát vào đĩa mà giục nhà cái sóc đi rồi hãy dam tiền sau. Nhà cái thấy thầy đang tức, cũng không dám trái ý, liền sóc ngay.
Thì ra bấy giờ thầy mới giở thủ đoạn ra đấy. Lúc nẫy thầy mở bát rõ nhanh, trong khi ai cũng để ý vào cái đĩa bốn đồng tiền, vả thầy đứng ở đằng sau lưng mọi người cho nên thầy bỏ phắt nó vào trong túi, mà đánh tráo ngay cái bát mưu mô kia ra, rồi bắt nhà cái sóc ngay. Trong khi sóc, thì bốn đồng tiền trên đĩa bị lần da mỏng đè dí xuống, không dậy được, mà tiếng tiền nẩy tức là tiền ở trên lần da vậy.
Dam tiền xong, thầy hầm hầm, cầm cuộn bạc vứt trước vào lẻ. Thôi, bây giờ còn ai dại gì mà theo nhà đen nữa. Cả làng đánh xô sang bên chẵn.
- Đắt! Đánh nữa ra! Quan Huyện cho tôi "lay" một nghìn nhé!
Sau tiếng thầy đắt, bạc giấy bạc đồng vứt ra như mưa. Rồi độ mười phút, thầy cầm bát, rụt rè nói:
- Hay là chẵn về?
- Thôi, ông đắt rồi, ai lại trẻ con thế!
- Lậy tổ, chẵn cái này thì chết con cháu!
Nói đoạn, thầy xoay bát nói:
- Cái xướng?
- Bán chẵn!
Phựt một cái, cái bát lại lọt vào túi áo ba-đờ-suy, mà cái bát kia đã theo tay thầy ngửa đồng kềnh giữa chiếu.
Ba đồng ngửa, một đồng sấp rõ ràng như đếm. Thầy ký Gồ cười ngặt cười nghẹo vơ tiền vào túi mà rằng:
- Thế chứ lị! Đen mãi.
Sau tiếng bạc ấy rồi đám sóc đĩa cũng tàn, vì anh nào anh nấy sơ như rộng.
Khi ở trong huyện ra phố, những người ở tổng sở tại ai nghĩ đến cái tiền dấm bút cũng bực mình, cho nên họ bảo nhau:
- Ký rồi thì ký, mà mình cứ bầu cho Phó tổng thì đã làm sao!
... Chẳng mấy hôm nữa, ngày bầu cử đã đến nơi. Hai bên tranh nhau vẫn kịch liệt quá. Bên Phó tổng hơn bên lý Phàng những tám người; cho nên ký Gồ bảo lý Phàng phải dùng đến kế ăn cướp phiếu vậy, bèn sai bốn người lực lưỡng mà trung thành, đến rình ở chuồng tiêu nhà phó tổng; đợi đó đến khi có người bảo cử nào say rượu khật khừ ra đó, là cõng tuốt chạy đi, mà cần nhất là phải dí ngay cuộn bạc vào tay đã. Thì ra nhậy quá, bạc dí vào tay thành mồm cũng câm tắc, mà khi cõng được về đến nhà Lý Phàng, thì vị nào cũng đãi bôi:
- Ừ, anh em mình có bao giờ bỏ được nhau. Phó Tổng nó giữ tôi, tôi tức quá.
Nhưng dùng kế ăn cắp ấy, cũng chỉ được thêm có hai người mà thôi, vì rồi bên Phó Tổng biết, cho nên cẩn thận lắm. Rồi mỗi người đi ra khỏi nhà, là cũng phải có hai tên tuần cầm mác đi kèm bên cạnh.
Chiều hôm trước ngày bầu, giời mưa phùn. Đường trơn như mỡ. Tuy vậy mà đường phố huyện cũng đông không kém gì ngày hội. Thỉnh thoảng có cái cáng hai người khiêng, tùm hum cái mui bằng chiếu cạp đỏ, bốn bên có bốn tay lực điền cầm bốn ngọn dáo, và có một người nữa, cắp cái tráp con đựng bạc theo sau. Tráp bạc ấy chưa phải là của người ngồi trong cáng, nhưng để dử cho người ấy chớ bỏ nó mà về hùa với bên kia. Những cái cáng ấy đều vào cả trong nhà thầy Gồ thì đỗ xuống.
Bên cánh Phó tổng thấy tin lý Phàng đã cáng những người đi bầu lên cả huyện rồi, thì cười cả lên mà rằng:
- Thiếu sáu phiếu nữa, mà làm gì hăm hở quá lắm thế? Hay là thi nhau ai đến huyện trước thì được làm Chánh tổng!
Rồi thầy Phó tổng cũng đắc chí mà nói rằng:
- Mời các ông cứ vui thú ở nhà, tội gì mà phải chầu chực! Có nhà không ở, lại phải đi ở nhờ! Mai cứ cơm nước sớm rồi lên huyện cũng vừa, tám giờ mới bầu, sợ gì!
Lý Phảng tuy có thầy là quan Huyện và ký Gồ tất lực giúp, nhưng vẫn mười mươi chắc hỏng. Đến cái tối sau cùng mà vẫn kém sáu người thì còn mong gì, thế nào cũng trượt. Nghĩ lắm lúc lại hối, thật là quăng tiền xuống sông xuống biển mà xem tăm lại còn sướng hơn là nghe ký Gồ xui dại. Nhưng chết một nỗi bao nhiêu tiền đã khoán cả cho ký Gồ rồi, cho nên dở chừng mà thôi chắc cũng mất.
Thầy ký Gồ thì vẫn ung dung như không, như chẳng có ý lo ngại gì cả, có lẽ vì bao nhiêu công việc, thầy đã xếp gọn cả vào cái óc cỏn con của thầy vậy.
Tối hôm ấy, quan Huyện ra hỏi tình hình, thấy thế cũng lấy làm lo lắm. Hỏng việc này, không những không được món lợi to, mà lại mang tiếng nữa. Quan Huyện có ngỏ ý với thầy Gồ, thì thầy cũng vẫn cứ điềm nhiên như không vậy.
Trợt anh trạm mang dây thép báo tin vợ thầy tạ thế, rồi thầy lại tiếp được luôn cái thơ tuyệt mệnh của người bạc phận! Thầy xám ngắt người lại, chống tay lên cằm, cắn môi mà nghĩ những gì gì.
Cả quan Huyện lẫn lý Phàng cùng các người bảo cử thấy cái tin ác ấy, thì ai cũng hết cả hy vọng, họ bảo nhau:
- Đến thế này thì còn ăn thua gì nữa.
Nhưng thầy ký Gồ tặc lưỡi quyết quên ngay chuyện gia đình, gấp cái dây thép và cái thư vào túi, rồi nói:
- Được, thầy không lo, miễn là bên mình canh phòng cho kỹ, đừng để cho họ cướp mất người nào là vững.
- Nhưng còn những ba người nữa mới bằng bên họ kia mà? Hay là ta lại cho đi ăn cướp một chuyến nữa?
- Không công hiệu nữa đâu; ai để cho mình ăn cướp được mãi.
- Vậy thì làm thế nào?
- Còn từ giờ đến tám giờ sáng mai, lo gì không còn kế, còn dịp. Tôi tưởng lấy ba mươi người mới khó, chứ ba người thì khó gì? Mà tôi không thèm lấy một người nào bên ấy cả. Thầy cứ tiếp khách cho tử tế, cho đằm thắm. Bảo nó nấu cháo gà nữa đi, mua rượu thuốc phiện cho nhiều vào, giục các ông ấy đánh trống cho cô đầu hát đi, hễ cô đầu nào mà kiêu căng, không chịu tiếp quan viên cho chu đáo, thì phải phạt tiền mới được. Bắt nó chia bài đi. Thầy cứ chắc ở tôi, không việc gì mà núng thế.
Đoạn rồi một mặt thầy sai mổ một con lợn, một mặt cho gọi hết cả phu xe ở phố huyện đến mà bảo rằng:
- Thầy Chánh mới mời các anh đến uống rượu. Các anh cứ đánh chén cho no say phải nên tự do như ở nhà các anh vậy. Chén xong, thầy Chánh cho mỗi anh đồng bạc, mà lập cuộc gì đánh với nhau cho vui, hoặc là ai thích hút thuốc phiện, thì rồi sẽ có bàn đèn bưng lên đây; ai thích cô đầu thì rồi thấy Chánh bảo cô đầu xuống hát cho mà nghe. Rồi tha hồ mà nô đùa, cứ việc mà vui vẻ. Sáng mai thầy Chánh lại thưởng cho mỗi anh một đồng bạc nữa mà về.
Bọn cu-ly xe được cái tin mừng bất ngờ, bảo nhau kéo đến đầy nhà. Lắm đứa quanh năm chẳng biết cái xe nặng hay nhẹ, cũng đội lốt phu xe đến ăn phõ. Lắm đứa khập khà khập khiễng, cũng cố đi lấy dáng ngay lành để nhập bọn. Thôi, họ ăn như phá, hạch hết cái nọ đến cái kia, anh nào được một bữa tự do cũng cố ăn lấy được.
Chén xong, chúng xoay ra búng quay, đố mười rồi hút thuốc phiện, rồi nghe hát, cũng có anh lè nhè toan cà khịa đánh nhau vì chữ tình. Cô đầu vừa được họ kéo ban chiều, nay bị họ vần báo thù cũng khổ. Đến độ ba bốn giờ sáng, đứa nào cũng bí tỉ, nằm nhoài ra, ngủ như chết! Thầy ký Gồ chờ họ ngủ yên, khóa tách cửa lại.
Sáng hôm sau, sắp đến giờ bầu cử mà giời vẫn mưa phùn. Bọn Phó tổng hôm trước được chè chén hát xướng ngay ở nhà, thì sung sướng tự do hơn, vì nhà cách huyện có độ hơn một cây số.
Bẩy giờ, ăn uống xong, phó tổng cho ra huyện gọi xe, nhưng ô hay! Bói cũng chẳng thấy một cái nào có cu-ly cả; mà cái nào cái nấy gục cả mui xuống hình như còn đang thi nhau ngủ với chủ nó vậy. Cùng thế, phải lấy chẳng xe để thuê người kéo vậy, nhưng không hiểu sao, những người lực lưỡng, mọi khi nhan nhản ở ngoài phố nay cũng đi đâu mất cả rồi?
Đường vừa trơn vừa lội mà không có xe, thì làm thế nào? Thôi, đành cáng các ông ấy lên huyện vậy.
Đúng giờ, quan Đại và quan Huyện công bố cho bỏ phiếu, thì kết cục, lý Phàng hơn bên Phó tổng tám phiếu!
Công việc xong xuôi, tính toán tiền nong các khoản. Cộng tiền quan Đại cho, tiền lãi ngày kỵ, tiền Chánh tổng từ dịch, tiền lý Phàng lo lắng, cả thẩy được một vạn hai. Trừ trăm rưởi của ký Gồ chi phí tiếp khách trước ngày bầu, còn bao nhiêu thì xẻ cưa. Nhưng vì ký Gồ giữ tiền cho nên cưa vẹo ngay đi một tí, thì quan Huyện được bốn nghìn, mà cũng lấy làm bằng lòng lắm và nói:
- Giá cứ kệ một mình tôi, thì có lẽ mất cả chì lẫn chài!
Hai hôm sau, vừa tan buổi hầu chiều xong, quan Huyện tất tả, tay cầm tờ nhật trình, đến nhà ký Gồ mà rằng:
- Hỏng to, hỏng to, ông đọc mà xem! Tôi đã biết nhật trình chúng nó hay nói láo, mà vẫn cấm trẻ con không cho mua kia mà! Đây này, thế có tức không?
Ký Gồ giở tờ nhật trình ra đọc:
"Nghe đâu ở huyện ta có một cái ghế Chánh tổng thiếu, mà hai bên tranh nhau rất kịch liệt.
Nghe đâu M. phó tổng đương thứ ra tranh nhau với P. là lý trưởng cựu.
Nghe đâu M và P hai bên cũng đã mất khá của. M thì thần thế ở trên tỉnh, mà P thì có thầy là những tay có tiếng là quỷ quyệt xưa nay.
Nghe đâu hiện nay M vẫn được nhiều người nể vì, nhưng P cũng chẳng hiếm gì người chê cọc bạc, mà P lại dùng nhiều cách ám muội để cố thắng bên kia.
Nghe đâu thầy tên P phen này đã kiếm bẫm, nhưng biết đâu, rồi cái kế tinh ma của chúng sẽ bị hỏng?
Rồi cái kết quả sau này, ký giả sẽ công bố lên báo trương.
Đ. Q.
Dưới bài này còn một bài nữa:
Đêm hôm 20 Novembre, lúc mọi người đương yên giấc điệp, thì bỗng đâu ở đầu làng, tiếng kêu làng nước như xé cái màn tĩnh mịch để thấu cho tới trời xanh. Ai nấy tưởng có đám cướp trộm chi đây, bèn lắng cả tai để nghe. Nhưng có gì đâu, té ra hai vợ chồng thầy Chánh hội đánh nhau, mà vợ thì vừa khóc vừa kêu vừa diếc móc chồng cho bõ cơn hờn tức.
Tò mò, ký giả hỏi biết chuyện, thì số là ngày hôm ấy, thầy Chánh hội lên huyện để lễ kỵ trong Quan. Khi chén xong thầy trở ra về thì cứ bị mấy cậu lệ lôi kéo xuống trại để đánh canh sóc đĩa. Cũng vì tấm lòng tham lam muốn bốc lấy của giời, nên thầy cũng đánh, và sau khi một hồi lăn lộn trong vòng đen đỏ, thầy thua hết cả vốn nhà, mà lại nợ thêm một món năm mươi đồng nữa.
Ôi, bàn sóc đĩa ấy ai bày ra? Sao mà vô lương tâm thế. Mong rằng mấy lời này thấu đến tai quan trên để dăn bảo bọn lừa người ấy đi, để bận sau chớ có giở cái thói đê mạt ấy để bóc sống bóc áo nhau nữa.
Đ. Q.
Ký Gồ đọc xong, răn trán, cắn môi mà nghĩ, rồi nói:
- Nhật trình đăng đã lâu, sao quan lớn không đọc?
- Có bao giờ tôi đọc đâu những cái trò trẻ con này!
- Quan lớn ngờ cho đứa nào đăng?
- Có lẽ phe Phó tổng? Nó tức nên nó đăng báo chăng?
- Không phải, hôm ấy đã bầu đâu mà nó tức. Tôi chỉ ngờ là đứa nào nó ghen ăn đây!
- Ừ! Hay là thừa phái?
Ký Gồ nghĩ một lát rồi gật đầu nói:
- Có lẽ, hẳn việc này được nhiều tiền mà họ không kiếm trác được gì, cho nên đăng báo cho đỡ căm chăng?
- Nhưng lại ký tên là Đ. Q.
- Nó ký tên bậy thì sao?
Quan Huyện tức lắm, đỏ mặt mà nói:
- Để rồi tôi kiện tòa báo cho mà xem. Quái Đ. họ Đặng, hay họ Đỗ? Hay họ Đoàn họ Đinh? Q, Qu, Quảng, Quý...
Nghĩ thế, rồi quan Huyện móc túi lấy ra quyển sổ tay, giở từng tờ ra mà tra, một chốc, như trong mắt nẩy ra một tia sáng, quan Huyện bỗng rú lên:
- Đây rồi, à thằng này!
- Thằng nào? Có chắc không?
- Ông hãy nghe tôi nói qua về nó xem oan hay không. Nó là con Hai Nhã là người đã xui dân kiện ông huyện trước. Trước nó tòng học tại trường Bảo hộ nhưng thấy nói vì hạnh kiểm xấu nên đã bị đuổi. Nó thôi học từ năm 18 tuổi, đến năm nay là hai năm. Từ khi về nhà thì cha nó bắt tòng cổ, bắt để búi tóc và nhuộm răng đen.
Ông phải biết trong hạt mình cai trị, mà có những thằng láo xược ấy, chẳng khác gì cái gai trước mắt. Bây giờ nó đăng báo láo thế; chắc rồi nó còn kiếm nhiều chuyện của mình nữa.
- Đem mà trừ quách nó đi, để làm gì?
- Nhưng chả nhẽ bỗng dưng mà bắt nó thì còn công lý quái gì!
- Cần gì công lý, nếu quan lớn muốn bắt nó, thì tôi làm cho, khó gì!
- Chết, vậy thì lương tâm mình để đâu?
- Quan lớn gàn quá, phải nên tập bỏ lương tâm thì mới làm được nhiều thủ đoạn phi thường.
- Tên nó là gì?
- Đỗ Quyên!
- À, tôi thường nghe nói. Vậy không sửa thằng ấy thì sửa thằng nào? Quan lớn phải biết rồi không khéo bài báo này mà đến tai ông Đại, thì cái mưu gian của mình bị lộ mất. Này, ngày 20 Novembre, nếu ông Đại nghĩ ra, thì ông ấy sẽ hiểu là ngày dân lên dự tiệc của ông ấy. Những tay thầy thợ của Chánh tổng mới, nếu ông ấy hỏi dò, tất biết là quan lớn cùng tôi, thì lúc đó mặt mình có là mặt mẹt. Ấy thế mà còn lương tâm với chả đạo đức mãi! Vậy quan lớn có định sửa nó hay không?
- Thằng Đỗ Quyên này, cứ như tôi thì tôi đã thám ra nó nhiều cái khả nghi lắm, nhưng mấy lần định bắt nó, thì quan Đại còn do dự mãi, vì chưa có đủ chứng cớ.
Lần này quan lớn cứ mặc tôi làm cho có chứng cớ hiển nhiên, rồi cho người báo Quan Đại cho lính về mà bắt. Thế là mình ở giữa vẫn không tai tiếng gì. Để lũ ấy ở lại, thì còn làm ăn quái gì được.
- Ừ, ông nói cũng xuôi tai đấy!
Lúc ấy ở ngoài cửa nhà thầy ký Gồ có một cái bóng đen đen, hình như bóng người, thui thủi đi ra phía đằng cửa. Bóng ai? Nào ai biết, giời tối um, thì nhận sao biết được là bóng ai, chỉ biết rằng có lẽ cái câu chuyện bí mật của quan Huyện với thầy Gồ nó sẽ nhờ hai chân của người ấy mà biết đi vậy.
Vậy thì, thưa độc giả các ngài, các ngài đã sợ cái lối gắp lửa bỏ tay người chưa? Bấy lâu nay, nhờ thời cục bí beng, các hạng đê mạt này xuất hiện không phải là ít, mà những người vô phúc, bất hạnh bị chúng báo thù như thế, thì phỏng còn cãi làm sao để được minh oan? Lưới pháp luật vẫn dang ra để trừng trị những bọn người khốn nạn ấy, nhưng nào có hết, mà những ai kia, lênh đênh ngoài góc biển chân giời, hoặc thui thủi nơi ma thiêng nước độc, ngọn trào hòa lệ, mây Hàng là đâu?
Đỗ Quyên đây, mà các ngài đã biết qua một ít tội, ở trong bộ tiểu thuyết này cũng chiếm một địa vị quan trọng như thầy ký Gồ vậy, cho nên tác giả không thể nào bỏ qua mà không nói qua về chàng một ít được.
Cậu Tú Quyên! Ở hạt này, phàm ai có để tâm đến bọn tân học, không ai là không biết đến tên cậu Tú Quyên. Cậu Tú Quyên, tức là Đỗ Quyên, mà vì suốt cả hàng huyện, có một mình cậu ta theo đuổi sự học được lên đến ban tú tài, cho nên ai ai cũng gọi sẵn cho như thế. Ở vào cái đất hiếu danh, thực lắm cái chức tước kỳ khôi! Nhưng cậu ta thực là cái hy vọng cho cả hàng huyện, ở trường cậu học giỏi lắm, nếu số phận tốt như người ta, thì sức học thế, lo gì chẳng nắm chắc cái tú tài. Bởi vậy không những cậu có tiếng trong huyện hạt, mà đối với trong học giới, cậu cũng lại là một tay anh tuấn, có nhiều hy vọng tương lai. Ở trong trường, anh em bạn đặt đùa tên cậu là "cô đầu" vì cậu thủy mị đẹp đẽ, trắng trẻo và nhí nhảnh như con gái lại có cái giọng hát rất hay.
Đến bây giờ cái cậu Tú tài tây ấy nằm mèo ở xóm nhà quê; cứ trông bề ngoài có lẽ chẳng ai dám bảo là người về phái tân học. Cái búi tóc núp ở trong khăn lượt quấn, hàm răng đen ẹp ở giữa hai làn môi, trông lù dù có vẻ nhà nho một chút.
Ông thân sinh ra Đỗ Quyên cũng lấy làm buồn về công danh của con, nhưng cũng thấy con là người có tư tưởng, nên chỉ bảo qua rằng:
- Không thiếu gì lối lập công danh, con ạ. Người có chí nên chọn lấy mục đích mà đi tới; mà đã có mục đích thời nên phải kiên tâm; chờ thấy hơi khổ mà nản lòng, chớ thấy hơi sướng đã hởi dạ. Thầy chỉ khuyên con nên làm một người dân xứng đáng mà thôi.
Năm ấy cậu mới có hai mươi tuổi, nhưng đã có hai con trai, mà vợ cậu đang có mang được vài tháng. Đỗ Quyên hay làm việc phúc đức. Kẻ ăn xin khi đã tới ngõ thì không mấy khi phải tiu nghỉu ra không.
Nhưng cái óc mới ở vào chỗ nhà quê cũ rích như không hợp, cho nên cậu chỉ chơi thân với một ông Giáo tên là Quản Sinh dạy ở trường làng ấy. Cậu Tú Quyên và ông Giáo Sinh còn lẽ thân hơn anh em ruột; người ta thường thấy hai người nói chuyện với nhau đến đêm khuya; lắm khi ngày nghỉ thì thấy hai người dắt nhau đến những nơi tĩnh mịch, hoặc sườn non bên suối, hoặc trong đình góc chùa, có đêm ngủ nhà nhau mà đến sáng chửa thấy về. Cho nên ở nhà cũng biết tính, có việc gì cần gọi, thì như không phải hẹn chỗ cũng khắc tìm thấy.
Thế nhưng mà Giáo sinh cùng Tú Quyên còn có thể thân thiết với nhau được mãi mãi hay không? Thủ đoạn của ký Gồ ghê gớm là thế, thì cái anh chàng thiếu niên lanh lợi kia, biết đâu vài hôm nữa không phải bước chân vào một con đường cay đắng mới.
Một hôm vào sẩm tối, Giáo Sinh đến tìm Tú Quyên, dắt đi chơi ra chỗ vắng mà rằng:
- Anh có thích phiêu lưu không?
- Tại sao anh hỏi tôi thế?
- Bởi có lẽ anh nên phiêu lưu để nếm mùi đời.
- Chí phiêu lưu vẫn là hy vọng của tôi, từ khi ở nhà không đi học nữa, tôi vẫn quyết một phen thử đi ra khỏi nhà trong một ít lâu xem ra sao.
- Anh định phiêu lưu bằng bao nhiêu tiền?
- Nếu phiêu lưu mà còn cần phải tiền thì chả hóa ra hèn lắm ru?
- Nếu vậy thì có lẽ anh được thỏa nguyện. Anh ơi, bọn ở trên huyện họ định báo thù anh vì họ ngờ anh đăng báo nói xấu họ. Họ định vứt truyền đơn vào nhà anh rồi bắt anh đấy. Tôi nhân lên huyện lĩnh lương mới nghe đích sự bàn bạc bí mật này, có lẽ tối mai thì anh sẽ bị bắt. Nguy lắm anh ạ. Nó mà phản mình thì thế nào mình cũng bị. Tôi định về bảo anh, rồi anh đi trình ngay quan Đại để báo bắt bọn ấy trước đi. Anh nghĩ sao?
- Cái kế ấy cũng phải, nhưng mà...
- Nhưng mà sao?
- Tôi thích phiêu lưu!
- Anh định đi?
- Phải.
- Nhưng còn gia đình anh?
Đỗ Quyên tùi ngùi nét mặt. Con người ít khi lộ ra vẻ buồn rầu, đến nay cũng sinh ra cảm động. Hai người lặng yên một lúc, rồi Đỗ Quyên ra ý quả quyết mà rằng:
- Thôi, anh đừng can tôi nữa, tôi đã định từ lâu.
- Anh ơi, thực là một bước không may cho tôi mất một người bạn quý, anh cầm cái này gọi chút kỷ niệm tôi cùng anh.
Giáo Sinh trút chiếc nhẫn vàng đeo ở tay trao cho Đỗ Quyên. Đỗ Quyên nhìn bạn, ứa hai hàng nước mắt ra không nói được một tiếng. Giáo Sinh nói:
- Bây giờ ông bà thì già, chắc anh đi cũng không đành bụng. Mà hiện nay chị ấy đi vắng, hẳn anh không biết lấy tiền ở đâu để đỡ trong mấy ngày đầu của anh chắc là khốn quẫn. Tôi tin rằng anh chắc không chết đói, nhưng mà anh nên nhận cho tôi cái nhẫn này, để hoặc khi nào cần đến nó, thì gọi là tôi giúp anh chút đỉnh lúc đó mà thôi. Cái nhẫn này là của riêng tôi, tôi đánh những hai chiếc, đều có khắc ở mặt trong hai chữ tên tôi Q.S. Cái nhẫn này bao giờ tôi cũng đeo luôn ở tay, vì tôi quý nó lắm, tôi đã nghĩ đánh riêng kiểu của tôi. Còn cái nhẫn kia, cũng đánh hệt như cái này, tôi vẫn cất đi, định bao giờ cưới vợ thì tặng cho vợ làm thứ nhẫn cưới. Nhưng bây giờ anh đối với tôi, thật là hơn ruột thịt, có lẽ còn thân hơn vợ chồng, thì anh cứ cầm lấy cho tôi được vui lòng trong khi ly biệt. Dù anh không cần đến nó, thì anh cũng cứ nhận cái nhẫn này như là tấm lòng của bạn anh.
Đỗ Quyên càng nghe thấy bạn nói bao nhiêu lại càng đau lòng bấy nhiêu, cầm lấy nhẫn rồi từ biệt bạn mà nói:
- Vâng, nếu là tấm lòng anh thì tôi xin nhận, mà rồi sẽ tặng lại một người ân nhân sau này.
Than ôi! Bấy giờ Đỗ Quyên cảm tưởng ra làm sao? Ta không thể biết được, anh chàng ấy vẫn lượt thượt cái áo the dài, vẫn lộp cộp cái đôi guốc gỗ, lủi thủi về nhà. Nhưng trong óc có lẽ chan chứa biết bao nhiêu cái thảm kịch nó đang dọa nạt, hay yên ủi vậy.
Khốn nạn! Đỗ Quyên nào có đông anh em gì? Cha mẹ sinh được một mình, trước đã thất vọng về đường công danh, nay sắp đau khổ về đường ly biệt. Mà nay vợ trẻ con thơ, gia đình đương vui hòa, mà nay sắp chia uyên rẽ thúy, để mình ai thui thủi, đêm khuya canh vắng, than cùng bóng, khóc cùng con, biết tiếng tăm rồi nữa có vuông tròn, mà thân gái canh khuya đường xa dậm thẳm!
Đỗ Quyên về đến nhà, thấy cha mẹ đã ngủ yên cả, nhìn vào giường vợ, màn chưa buông, chăn vẫn gấp, mà trạnh lòng thương. Vợ con hiện nay còn đi vắng cả, khi về mà biết tin chàng bỏ nhà trốn đi thì sẽ ra sao? Ôi, tâm sự một người đàn bà góa ra sao, thì hẳn nỗi đau lòng của nàng cũng không kém. Mà giả sử nàng có bị góa chồng chăng nữa, thì số trời định thế, nàng cũng nuốt lệ cho đành, nhưng chồng đi, sống hay thác, liên miên man mác, biết thế nào là đích để an ủi tâm can?
Đỗ Quyên ngồi ở bàn vơ vẩn nghĩ, chống tay lên má, bỗng giật mình như người chợt tỉnh ngủ, đập tay xuống bàn mà nghĩ rằng:
- Còn chưa quyết thì đến bao giờ?
Rồi chàng đứng phắt dậy, giở trong ngăn kéo và tủ sách ra, chọn hết các thư từ giấy má, sách vở tranh ảnh, gói gọn thành một bọc, rồi nậy hòn gạch to buộc díu vào một bó.
Lúc ấy độ mười giờ đêm, làng xóm đã im phăng phắc chàng se sẽ mang cái bó ấy ra ao, lần ra giữa cầu, đưa đi đưa lại, rồi lăng mạnh ra giữa. Ùm! Tiếng chó nổi lên, cắn ran tứ phía; bóng giăng lờ mờ chiếu xuống mặt nước, chàng còn trông rõ những cánh bèo rập rềnh và bọt đùn lên trắng xóa. Nhưng rồi hòn gạch nhẹ quá, không đủ dìm cái bọc to hơn, nó lại nhô lên nổi lềnh bềnh, làm cho chàng sợ hết vía. Đàn chó đã thưa tiếng sủa, nhưng trống ngực vẫn còn thình thình, chàng bèn vớ lấy cái sào, cố cời bọc sách vào bờ, rồi buộc đèo thêm hai hòn gạch nữa. Buộc rất cẩn thận, chàng lại cố đưa đi đưa lại, rồi lại lăng cái bọc ra thật xa. Lại ùm tiếng nữa, tiếng chó lại sủa ran khắp mọi nơi; chàng chờ một lúc, thấy cái gói không còn nổi nữa, chàng mới yên tâm. Thế rồi vào nhà, sẽ khép các cửa lại, chờ một lúc cho các phía yên lặng, chàng bước chân ra đi.
Đỗ Quyên rồi nữa ra sao? Lênh đênh chiếc bách một con chèo, mà sóng to gió cả, chẳng qua muốn phong trần được phong trần chứ sao?
Chàng đi như thế, sung sướng hay khổ sở? Nếu không phải trốn tránh, nếu không phải ngủ đường, nếu không phải nhịn đói, nếu không phải nghe mỗi tiếng động lại giật mình, nếu không phải gập mỗi người lại chột dạ, thì có thể gọi là sung sướng được vậy.
Bóng giăng mờ, cỏ sương như ngọc, ngọn gió du dương như giục khách giang hồ. Chàng Đỗ Quyên ơi! Nước non nặng một lời thề, biết bao giờ chàng lại trở về nơi quê cha đất tổ?
Tờ báo không những là cái cơ quan để truyền bá tư tưởng mà thôi đâu, cũng như đám hội hè, ngày chợ phiên, nó lại là chỗ để trai gái hẹn hò nhau, có khi nó giúp cho người ta nên vợ nên chồng được, mà bất cứ tờ báo nào, cũng có thể đóng thêm được vai ông Tơ nữa.
Vợ thầy ký Gồ chết, đã lâu, mà sở dĩ tác giả không nói đến nữa, không phải là muốn kể nốt chuyện bầu cử hoặc kể thêm chuyện Đỗ Quyên, nhưng chính là thầy ký Gồ quên bựt đi mất vậy!
Ừ phải, cái tối hôm đó thầy đang bận rộn về việc lập kế cho lý Phàng thắng phiếu, thì tiếp được cái dây thép báo tin buồn, thầy xem xong là bỏ ngay vào túi. Rồi chuyện nọ chưa xong đã tiếp luôn đến chuyện khác, làm cho thầy không lúc nào trong óc được rỗi để nghĩ đến người bạn bạc mệnh của thầy.
Nay vì nhân chuyện Đỗ Quyên đăng báo nên thầy mới buồn, sực nghĩ đến vợ đã chết được ngót một tháng! Nhưng sinh tử là lẽ thường, có làm chi cái vặt ấy, mà ai chết thì thiệt người ấy, chứ người sống dù có đau đớn, nhưng sự đau đớn rồi cũng theo thời gian mà tiêu tán đi. Vả lại cái ngày đau đớn đã qua rồi, hơi đâu nhai lại nó làm chi cho thêm bận. Người chết, đến lúc chết thì nghĩa vụ và công việc cũng hết, mà người còn sống, thì nghĩa vụ và công việc không biết đến bao giờ mới xong.
Ký Gồ nghĩ vậy, nên đã toan xin phép về nhà nhưng rồi lại thôi. Thôi, ở lại để làm nốt cái án Đỗ Quyên vậy. Rồi đêm hôm ấy, thầy vơ vẩn không sao ngủ được, bèn cắp mũ đi bách bộ ngoài phố, rồi dẻo bước đến cầu nhà thương.
Đứng giữa cầu, ngắm bốn bên, sông rộng sóng rào, trời cao mây vẩn, lờ mờ phố xá như lẩn dưới bức màn sương. Bỗng mấy ngọn đèn trong nhà hộ sinh chiếu thẳng mấy tia sáng đến tận mặt thầy làm cho thầy phải chú ý. Lúc ấy, như một người mới phát minh ra một điều gì, thầy ra ý vui vẻ, và nhanh nhẩu đi đến gần, vừa đi vừa như có ý nhận kỹ cái tòa nhà, cái bãi cỏ, cái bụi cây cái cổng ra vào, các đường ngang dọc, rồi thầy tự nghĩ rằng:
"Ta cần phải cưới vợ kế, mà người vợ sau này phải đẹp để giúp cho ta sự kiếm quan thầy mới được. Chứ như con mẹ trước, thực là cưới phí tiền toi! Đi làm mà không có quan thầy thì còn mong gì sự bay nhẩy cao xa? Nó chết đi, có lẽ là sự may cho ta được dịp tốt về đường công danh chắc! Vợ ta sau này không những phải đẹp, mà phải thạo mới được. Thì có lẽ trời xanh đã định, con bé kia vẫn chăn đơn gối lẻ chờ ta chăng? Ứ, con người ấy, cứ như mắt ta, dễ thường đẹp nhất vùng này đấy. Hai cái má bánh đúc, hai con mắt lá dăm, cũng đủ làm cho khách đa tình chết mệt. Vậy thì thể nào ta cũng lấy được nó làm vợ mới nghe. Ở đời này không nên để phí một cơ hội nào cả; mà ở vào thời buổi cạnh tranh, lại rất nên kiêng sự chậm trễ, nếu ta không lập kế mà lấy ngay được nó, thì tất chẳng bao lâu nó sẽ vào tay đứa khác, mà đứa ấy tất không biết người biết của như ta, hẳn là nó không được việc gì có ích, thì dùng một vật không đúng với cái giá trị của nó chẳng là hoài ru?"
Ghê gớm chưa? Cái mục đích lấy vợ của thầy ký Gồ? Mà cô bé nào đã vô phúc lọt vào mắt xanh của thầy ấy?
Thưa rằng đó là cô khán hộ Trần Ánh Tuyết, ở nhà thương đẻ, trông người đẫy đà, xinh đẹp và sang trọng lắm. Cô ấy ở đây có một mình và một đứa ở gái, vì cô ấy mới về thay tạm bà đỡ trước xin phép nghỉ hộ sản ở nhà. Không ai biết tung tích cô ấy thế nào, vì từ ngày bổ về đây đã ngót một tháng, nhưng cha mẹ anh em không thấy có ai lui tới. Lắm người thấy cô có sắc, nên cũng muốn hỏi để kết nghĩa trăm năm, nhưng cô đều trả lời bằng câu của cụ Nguyễn Du rằng:
"Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha".
Nhưng nào có ai biết mẹ cha cô ở đâu để mang trầu cau đến hỏi. Có người nào thân thiết mà hỏi cô sao chưa nghĩ đến chuyện chồng con, thì cô chỉ cười tít mắt mà trả lời một câu cụt thun lủn rằng: "Chửa chán đời".
Nhiều ông tòng sự thấy cô ấy có vẻ đa tình, bèn bắt chim bằng lối đưa thư, nhưng đều bị xé mà gởi trả lại.
"Con bé ấy ghê gớm lắm! Ấy, nó chỉ dễ dãi bề ngoài chứ mà đố anh nào chim nổi nó!"
Nhiều người thì thào với nhau như thế, nên rút cục lại, anh nào cũng gọi cô khán hộ là "mợ nó" cho đỡ thèm.
Nhưng đến thầy ký Gồ thì hẳn được. Thầy nghĩ mãi về tâm lý của cô Ánh Tuyết rồi thầy kết cục rằng:
"Con này không phải đứng đắn đâu. Họ không chim nổi là vì họ không hiểu ý nó. Đưa thư cho một người con gái, đừng có người ấy không thèm xem, thì mấy chịu, chứ mà còn xé mà gởi trả lại, thì là nó bằng lòng chim rồi đấy, vì như thế tức là có ý cho ta được một câu chuyện thêm nữa để tán tỉnh nó. Nếu cứ nhân thế mà tiến mãi thì làm gì không có kết quả hay? Ở đời này không có cái gì là cái khó cả, duy chỉ người không có chí mới gập cái khó mà thôi.
Nhưng muốn lấy nó mà phải chim nó thì ai chứ ta đây nào phải dùng cái kế trẻ con ấy? Vả lại con bé này khôn ngoan, tất nó sợ bọn trăng gió vật vờ, thì mong chi nó tin mình là hạng chồng vĩnh viễn! Vậy ta phải mưu mô khéo lắm mới được".
Thầy về đến nhà, lấy ngay bút mực, thảo một bài đăng báo, nói về "môn đỡ đẻ rơi", đại ý nói rằng: Môn đỡ đẻ là một môn học khó, phải cần đến tay mềm mại của bọn đàn bà con gái mới được. Nhưng đàn ông cũng nên biết, biết không phải tranh kiếm gạo với bọn nhà nghề, song để cứu những người đẻ rơi, khi chưa kịp về nhà hoặc đến nhà thương đẻ. Vậy thì ai cũng nên biết, vì thường ở tầu thủy, xe lửa, bên đường cái, ta vẫn thấy những người giở dạ một mình, mà không gập ai thiện nghệ để đỡ.
Rồi thầy nói đến cách đỡ đẻ, trước hết phải chùi mắt đứa bé, rồi móc rãi rớt trong miệng nó ra, đoạn cắt rốn. Cát rốn thì phải dùng dao, kéo, hoặc nứa thật sạch, trước khi cắt, lấy chỉ hoặc dây nhỏ, nếu không thì dứt giải yếm của người mẹ mà buộc rốn cho thật chặt. Khi đứa bé lọt ở lòng mẹ ra, thì ta trông thấy cái rốn dài thòng lòng một đầu dính vào bụng đứa bé, một đầu dính với cái rau còn ở trong bụng người mẹ. Trước hết đo cái rốn độ một gang từ bụng đứa bé rồi thắt chặt lại. Rồi lại đo độ một gang từ bụng người mẹ và cũng thắt chặt xong rồi cắt chỗ giữa.
Cắt xong, lấy rượu xoa đầu rốn bọc và buộc lại, ngang bụng đứa bé và gói đứa bé cho kỹ. Khi rau của người đẻ ra rồi, thì phải gói lại, và cho người ấy một miếng vải hoặc vạt áo để làm khố, rồi bắt nằm cho thật yên.
Nếu khi nào gập phải đứa bé có tràng hoa quấn cổ, nghĩa là cái rốn nó dài quá nên quàng cả lên cổ, có khi quàng qua nách nữa, thì phải gỡ ra, nếu không gỡ được thì hãy cắt. Khi ấy lựa tràng hoa quấn cổ hai ba vòng, sẽ kéo một vòng ra, cắt như kiểu cắt rốn, nhưng hai chỗ thắt cách nhau độ ba phân tây thôi. Cắt xong một vòng thì kéo được mấy vòng khác. Cắt xong vòng hoa rồi hãy cắt rốn.
Bài ấy viết xong, thầy đọc đi đọc lại, rồi gởi ngay lên Hà Nội, đăng vào tờ báo mà cô khán hộ mua năm. Đoạn thầy viết ngay một bài khác, công kích rất kịch liệt bài kia. Rằng người viết bài về khoa đỡ đẻ có lẽ chỉ xem hoặc chép ở một đoạn sách nào, rằng dễ thường tiên sinh chưa hề trông thấy ai đẻ bao giờ, nên cứ nhắm mắt viết liều; mà trong bài có cái cần nhất là cách rút đứa bé ra thế nào thì không nói đến; bài ấy lại lộn xộn, không có mạch lạc thứ tự gì, tỏ ra rằng tác giả chưa hề đỡ ai đẻ bao giờ.
Kết cục, khuyên tác giả nên thực hành hơn là lý thuyết, mà trước khi thực hành, nên chịu khó đi mà hỏi han kĩ lưỡng những tay nhà nghề, chứ mà lỡ ra thì oan gia cả mẹ lẫn con, phúc chả biết có được hay không, hay lại phải tội.
Bài về khoa đỡ đẻ, được tòa soạn đăng lên báo rồi, thầy liền gởi nối ngay bài công kích ấy lên. Nhưng bài trước thầy ký tên thầy, mà bài sau thầy lại ký tên cô Ánh Tuyết.
Khi bài sau này đã in lên báo, thầy ký Gồ lấy làm mừng lắm, vì ý định của thầy rất trúng.
Sẩm tối hôm ấy, thầy cầm hai tờ báo lên nhà hộ sinh chất vấn cô Ánh Tuyết, rồi lan man nói chuyện đến hơn một giờ mới về.
Rõ khéo chửa, thực là vu vơ quá! Cô khán hộ chối đây đẩy là không phải cô viết bài ấy, nhưng ba chữ tên cô ký Trần Ánh Tuyết to bằng cái mẹt thế kia, cô bảo sao?
Hai bài ấy từ khi lọt vào mắt nhiều người, thì ai cũng đều bảo ký Gồ rằng:
- Thôi, nước lắm rồi!
Cũng có người hỏi:
- Tối hôm ấy, anh vào làm gì nhà hộ sinh? À gian quá!
Ký Gồ không trả lời, chỉ bấm khẽ mà liếc mắt, rồi rỉ tai nói rằng:
- Đừng nói với ai.
Dặn người đừng nói với ai, tức là bảo ngầm người ấy cứ nói đi. Vì chuyện đã cần giấu kín là chuyện đáng kể, và hay cả.
Rồi vài tối sau, cứ độ chín mười giờ đêm, thì giá ai có ý nhìn ở nhà hộ sinh, tất thấy có thầy ký Gồ lui lủi bước rảo cẳng ra, trông trước trông sau như có ý gì gian dảo lắm. Thầy vào chuyện trò với cô Ánh Tuyết chăng? Không phải, thầy đứng nấp ở bụi cây, đợi lúc nào có đông người đi qua cổng thì thầy ở trong đi ra cho họ chú ý đến.
Rồi từ đó, ai gặp thầy cũng nhoẻn mép cười để chia vui cùng thầy. Nhiều người tò mò, cố gợi chuyện ra cho thầy nói, nhưng thầy thề sống thề chết, rằng họ ngờ thế chứ có gì đâu. Nhưng hễ có ai đến chơi một mình với thầy, thì thầy nói chuyện cô Anh Tuyết ra ý tự nhiên không ai khảo mà cũng xưng vậy.
Rồi ai họ cũng bảo:
- Chả có mà lúc nào cũng nói chuyện đến cô Ánh Tuyết!
Hễ ai tò mò hơn nữa, thì thầy lại cho xem bản thảo của các thư từ. Những thư từ ấy, thầy chỉ cần cho công chúng biết, chứ có gởi cho cô Ánh Tuyết bao giờ đâu, mà ở phố, một trăm người, thì chín mươi chín người tin rằng thầy phải lòng cô Ánh Tuyết. Nhưng trong nhà hộ sinh, chẳng biết cô Ánh Tuyết có nghe thấy những lời đồn thị phi ấy chăng?
Muốn cho cô Ánh Tuyết biết tin ấy và cổ động rằng mình chưa vợ, một hôm thầy nghĩ bài vè gián ở cổng nhà hộ sinh rằng:
Đường phố này lắm cát dễ đi.
Cô đỡ đú đởn làm chi?
Để cho thầy ký một khi phải lòng!
Gái tơ sao đã ngứa chồng.
Giai tân còn để phòng không đợi gì?
Lấy phứt nhau đi!
Tờ truyền đơn gián ở trên cổng, ai đi qua cũng phải đọc, và đoán là hạng hạ lưu nào đó, ngứa mắt viết chơi.
Cái tin cô khán hộ phải lòng thầy Ký rồi thầy dò ra quả đến tai cô thật.
Thầy ký Gồ đắc chí vì cái mưu thần diệu, nghĩ thầm rằng:
- Giá con này có chồng rồi thì hẳn phen này cũng phải kiện nhau, mà nó đã biết, tất chú ý đến mình. Rồi mỗi ngày gập mình bốn lượt, hẳn ít ra chị em cũng tơ tưởng mà phải lòng mặt. Khi đó thì thi hành dễ hơn.
Một tối, cô Ánh Tuyết đang sắp sửa đi ngủ, thì có một bà cụ, hớt hơ hớt hải, chạy vào nói rằng:
- Lậy bà, cháu nó nhà tôi giở dạ từ ban chiều, đến nay chưa đẻ được, mà xem chừng nguy lắm, xin bà làm ơn cứu cho.
- Bà ở đâu?
- Thưa bà chúng tôi ở dưới cuối huyện, cho nên đến đây khí muộn.
- Bây giờ tối khuya rồi, mà bà bắt tôi đi à?
- Thưa bà chúng tôi biết thế, nên đã mượn sẵn được xe ô tô lên đón bà, xin bà cứ đi chớ ngại.
Cô Tuyết thấy rồi bà cụ cứ nằn nì mãi thì động lòng thương, bèn khăn áo ra đi. Đến cửa đã thấy chiếc ô tô chờ sẵn. Đi đến nơi, đỡ xong, chưa đến một giờ đêm cô Ánh Tuyết đòi về; nhà chủ lại phải tiễn xe ô tô lên huyện.
Bốn bánh xe bon bon như nuốt đường cái, độ hai ba cây số, thì bỗng kêu phành phạch ầm lên, rồi tài xế hãm lại.
- Sao thế, anh tài?
- Bẩm hỏng máy!
- Liệu chữa có được không?
- Tôi còn xem.
Cô Ánh Tuyết nghe tiếng người tài xế như quen quen, chỉ vì giởi tối nên không rõ mặt, vả lại tùm hum cái cát-két và cái cổ áo tơi, cho nên không nhận là ai nữa. Tài xế thử hết máy nọ lại đến máy kia, rồi vặn trục quay mà xe vẫn chết mãi. Lúc người tài xế lúi húi ở trước ngọn đèn, cô lại hỏi:
- Gần chạy được chưa?
Anh tài xế liền bỏ cái mũ ra, thì cô Ánh Tuyết nhìn ra rõ mặt, bỗng giật mình kêu rú lên:
- Chết! Lại là ông?!
Độc giả các ngài có biết ông nào đấy không?
Thưa rằng: trừ ông ký Gồ ra thì còn ông nào có cái kế sâu sắc ấy nữa!
Thầy ký Gồ cứ giả vờ chữa cái nọ lại vặn cái kia, rồi thỉnh thoảng lại cho xe chạy được vài thước rồi lại tịt, khiến cho cô Ánh Tuyết cứ còn có hi vọng về ngay nhà, mà không dám một mình trở lại chỗ nhà mình vừa đỡ đẻ. Ấy, chết độ nửa giờ, rồi lại chạy được vài thước như thế mãi cho đến sáu giờ sáng, cô Ánh Tuyết thì cứ ngồi ở đệm, buồn ngủ rũ người ra mà không dám ngủ, mà thầy ký Gồ thì cứ đứng ở trước cái xe giả vờ giả vịt. Lúc xe chạy được thì đã rõ mặt người, khi về qua chợ, thì trời ơi, hôm ấy lại là ngày phiên, cho nên hàng nghìn hàng vạn con mắt nhìn vào, ai cũng thì thào với nhau:
- Rõ mặt mo! Hai đứa dắt nhau đi đâu từ đêm kia đấy!
Một hôm, các anh em tòng sự xúm xít nhau lại tranh nhau đọc những bản thảo của các bức thư thầy Gồ gửi cho cô Ánh Tuyết. Những bản thảo ấy, họ dụng công để ăn cắp được, vì thầy Gồ cất kỹ vào trong ngăn kéo có khóa!
Ngày 18 Décembre,
Thưa bà,
Bà đã y hẹn mà trả lời tôi, tôi cũng xin y hẹn mà lưu bài công kích lại, không gửi đăng báo nữa. Nhưng tôi không thể vâng lời mà xé bản thảo đi được, vì tôi muốn giữ làm chút kỷ niệm trong tập văn của tôi. Tôi lại xin phép bà gài cả bức thư ấy vào trong ấy cho vui nữa.
Trong thư của bà có vài câu ngắn, nhưng lời lẽ hoạt bát, ý tứ sâu xa, càng đọc càng thấy mặn. Tôi xin cảm ơn bà, vì bà đã có công đọc kỹ bài công kích của tôi. Vâng, thưa bà, quả bà có con mắt xanh của con nhà văn lắm. Bà bảo lời lẽ của tôi có ý buồn mà lại hoa nguyệt. Song tôi chỉ hoa nguyệt ở lời mà trong bụng thực không có gì cả. Thì chẳng qua văn chương cái giống đa tình, dòng lệ chẩy theo ngòi bút mà xuống giấy, cho nên đọc lên nó não nùng thống thiết đấy thôi. Nhưng có đi có lại cho toại lòng nhau, ý của bà tuy không nói rõ, nhưng tôi cũng đoán mà hiểu được. Than ôi! Đồng bệnh tương lân; tôi lấy làm ân hận vô cùng là có một người tri âm mà chưa chi đã phụ bụng! Vậy mấy lời thô thiển này, xin cảm ơn và xin lỗi bà, kẻo tơ vò vấn vít năm canh.
Nào ngờ mình phụ lắm tri âm.
* *
Ngày 20 Décembre,
Thưa cô,
Trời ơi! Trách chi vội thế! Cô bảo thói nhà băng tuyết, song xin cô biết cho rằng ở đây mình là người mà nhĩ mục quan chiêm, thì ta phải giữ danh giá cho nhau nhiều chứ! Có đâu lại một kín hai hở được. Thư từ đi lại bằng cách bí mật như thế này thì còn ai biết mà dám ngờ.
Tôi ở chỗ này quê người đất khách, chúng bạn không có ai là thân, ngày đi làm hai buổi, tối lại thui thủi một bóng một đèn, ngâm câu thơ, viết bài luận, mà tuổi mình cứ cao, ngày tháng vẫn đi nhanh vùn vụt, thì càng nghĩ đến thân thế mà càng xót xa! Trông giời đông bóng tà dương hờ hững, lá vàng lác đác đầy đường mà lại càng buồn, buồn đến nỗi thương vẩn nhớ vơ...
Ngày tháng thoi đưa.
Sầu đông nhện dệt thành tơ;
Tơ sầu rối sợi gỡ chưa ra đầu!
Than ôi! Chẳng biết có ai thương đến mình hay không, mà chỉ thấy giọt lệ mình cứ ngắn dài hoài thế? À, quên, quên, mình cũng có một người tri âm, người tri âm vô danh ở chỗ tối mờ mờ kia, đến bây giờ mới tỏ tấm lòng cho mình biết! Cảm tình thay! Bấy lâu im tiếng náu hình, chờ chi mãi tá? Này, mảnh trăng kia qua rầm thì hết tròn, bông hoa nọ nở to thì héo đóa, xuân tàn, hạ qua, thu hết, đông sang, trăm năm chừng độ bao gang, đầu xanh mấy chốc tóc sương da mồi!
Nếu thực cô chẳng hổ mà cho tôi là bạn, thì từ nay xin chớ nề hà, xin cứ thư từ đi lại cho tiêu phiền khiển muộn.
Nước mấy trùng
Mây gương giăng nước ngẩn ngơ lòng,
Ai buồn hoa biết không?
Người cũng trông,
Hoa cũng trông,
Hồn xưa mộng cũ giấc mơ mòng,
Thẹn mình tu chửa xong!
Người bạn quý của cô.
* *
Ngày 28 Décembre,
Cô Ánh Tuyết yêu quý của tôi ơi!
Cô phòng lữ khách! Não nùng thay nghe tiếng nhạn khóc thu qua! Buồn quá, Ánh Tuyết ạ, khêu to ngọn đèn mà đọc thư, đến chữ đầu mà giận. Sao tôi gọi Ánh Tuyết là cô mà Ánh Tuyết cứ gọi tôi là ông thế? Đã yêu nhau xin chớ nề hà, từ nay cứ tên nhau mà gọi.
Ánh Tuyết ơi! Tôi cũng nghĩ như Ánh Tuyết, muốn đem văn chương mà tô điểm non sông, nhưng non sông sầu oán trăm chiều, văn chương nào bớt ít nhiều được ru? Bởi thế tôi lấy văn chương để di dưỡng tính tình, cho khuây khỏa cảnh ngộ.
Người ta chẳng ai là sắt đá cho nên ai chẳng có tình. Không có tình thì sống sao được. Ánh Tuyết chẳng thấy có người hy sinh tài sản tính mệnh về một chữ tình hay sao? Duy tình có nhiều lối, có nhiều vẻ khác nhau, mà người hợp tính tình nhau, thì ắt giời cho được hội ngộ, vả ngàn năm mấy cuộc tao phùng tri âm?
Ánh Tuyết ơi! Hôm nọ Ánh Tuyết làm gì mà xin phép nghỉ thế? Chẳng hay người về có nhớ ta chăng, mà mỗi khi tôi không được cầm bút viết thư cho Ánh Tuyết hoặc nhận được thư Ánh Tuyết mà đọc, thì thực không lấy gì làm vui mà sống nữa.
Đau đớn thay là cảnh ly biệt Ánh Tuyết ạ.
Nhìn nước nước xuôi,
Trông bèo bèo cũng trôi trôi,
Bèo ơi! Nước hỡi! Mây hời!
Cảnh vô tình khéo trêu người biệt ly!
Bên trời một lứa tương tri,
Trăm năm biết có??...
Ý trung nhân ơi! Tôi yêu Ánh Tuyết quá! Ước gì tôi sẽ có người bạn trăm năm, có sắc, có tài, có địa vị như Ánh Tuyết thì thực là thỏa dạ! Chẳng hay mảnh lụa phất phơ kia đã lọt vào tay ai chưa? Mình định nâng tay hứng lấy mang về làm bảo vật, nhưng chẳng biết kiếp trước tu có dầy không?
Này, Ánh Tuyết ơi, vẫn biết rằng nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha, nhưng dù thế nào Ánh Tuyết cũng được làm chủ cái ý định, thì tiện đây xin một đôi điều, đài gương soi đến dầu bèo cho chăng?
Tôi mong thư trả lời lắm.
Người yêu của Ánh Tuyết.
Ngày 31 Décembre,
Trăm năm tiếng cũng chưa chầy,
Trăm năm còn chóng, một ngày mới lâu,
Mong nhau mấy đỗi bạc đầu,
Đắng cay thay ngậm cái sầu tương tư!
Bức thư hôm kia, tới nay chưa thấy phúc đáp, tôi cũng biết là đã ra cho Ánh Tuyết một bài luận cần phải nghĩ ngợi sâu xa mới trả lời được.
Ấy bởi lẽ đó, nên tôi mới dùng thư mà hỏi, chứ gập mặt không thể được có câu trả lời ngay.
Vả lại giáp mặt Ánh Tuyết thì tôi lại tự thẹn mà không dám đả động đến chuyện ấy nữa, chẳng hay chim cú có xứng đáng với cành mai!
Mà có định nói chắc cũng chẳng hết lời được, Ánh Tuyết ơi! Đôi mắt tôi còn mải ngắm cái cặp thu ba kia, cái mái hương vân nọ, kìa cái miệng cười hoa nở, nọ cái má lúm đồng tiền, đứng trước Ánh Tuyết mà hồn siêu phách lạc, khác nào người phàm tục đối cảnh bồng lai, thì còn tinh thần đâu mà nghĩ được ra câu gì nữa.
Mấy đêm nay, không tài nào nhắm mắt được, chằn chọc giở dậy, ra sân mà trông giời, thì khốn nạn!
Chờ ai? Trăng đứng hững hờ trên không?
Gọi ai? Gió hót ngoài song?
Thương ai? Hoa đẫm lụy hồng như sương?
Rồi mà tôi lại nghĩ đến thân thế, lênh đênh bẩy nổi ba chìm, bể tình man mác biết tìm về đâu?
Tôi thiết nghĩ chim khôn đậu nóc nhà quan, giai khôn tìm vợ gái ngoan tìm chồng, mà kia điểu thú là loài vạn vật, dẫu vô tri cũng bắt đèo bồng, nữa là người ta. Bây giờ thời buổi mỗi ngày một tự do, giai gái đến tuổi thì được phép kén chọn người mà yêu mà quý. Còn gì vui thú cho bằng đôi thanh niên kia đã quen biết nhau trước mà được xum họp! Còn gì khoái lạc cho bằng cái gia đình kia, đôi vợ chồng trẻ cùng nhau kính yêu chiều chuộng! Còn gì sung sướng cho bằng cái gia đình ấy, hai vợ chồng cùng có nghề nghiệp, hết sức mua lấy cái hạnh phúc trọn trăm năm!
Vậy Ánh Tuyết nghĩ thế nào, xin phúc thư cho biết, còn như bài vè gián ở cổng ấy, tôi chắc là của một đứa nào nó nói xằng nói xịt, hơi đâu mà quan tâm. Để rồi tôi cho người dò được đứa ấy, tôi sẽ đi trình quan Làm tội, Ánh Tuyết chớ nghĩ ngợi làm chi.
Gởi cho Ánh Tuyết trăm cái hôn.
* *
Ngày 4 Janvier,
Mợ ơi!
Một bầu tâm sự giãi bày trong bức thư hôm nay, thực là một phương thuốc cứu bệnh rất mầu nhiệm! Ánh Tuyết ạ, tôi ốm là vì mong thư mà ốm, là cái ốm tương tư đó mà thôi.
Phải lắm, chữ rằng nhân định thắng thiên, tôi tưởng dù can trường đành gửi nơi nao, chả lẽ chịu con thuyền hờ hững cắm sào chờ ai nhỉ!
Vâng, thì từ nay nghĩa trăm năm, xin nguyện với giăng già, dù vật đổi sao rời, lòng này xin một niềm sắt đá.
Hôm nay tôi còn mệt lắm, nhưng nếu cứ được những cái thư như thư này, thì chẳng mấy chốc mà tôi lại như cũ. Còn như Ánh Tuyết bảo chớ nên lui tới trên đó luôn luôn, mà người ngoài trông thấy thì họ dị nghị, thì xin vâng, một cái gật đầu của Ánh Tuyết trong thư hôm nay, bằng vạn lần giáp nhau mà tình tự hão.
Mợ ơ, chữ tình là chữ chi chi? Chẳng nhẽ đắng cay mà nuốt khối tình mãi sao được. Tôi định rồi hôm nào khỏe mạnh, tôi sẽ mang ô-tô đón mợ lên Hà Nội để nói chuyện lâu lâu. Vậy xin mợ định lấy ngày, hoặc bảo cho cách nào là kín đáo.
Tôi xin dừng bút, vì thấy hơi nhức đầu.
Affections.
Người yêu mợ
* *
Ngày 20 Janvier,
Em Ánh Tuyết ơi!
Từ ngày quen hơi bén tiếng, mới đêm qua mới tìm thấy chữ tự do! Trời ơi! Cái buồng cỏn con kia, cái gác cao lâu nọ, duyên gì mà trông cũng xinh xinh! Hôm nay về mà đứng không yên, ngồi không được, bâng khuâng còn như lúc chiêm bao!
Mở cửa trông xa xa, thấy nóc nhà thương đẻ, mái ngói đen xì, đầu hồi trắng xóa, mấy ngọn cây đưa lá, ẻo lả như đón người quen... Nhắm mắt lại mà nghĩ, thì chao ơi! Chán quá, cái đêm hôm ấy là đêm gì, mà đêm nay mình lại gối lẻ chăn đơn, ngọn đèn leo lét đầu tường, hồn mộng vẩn vơ trước bóng!
Trưa hôm nay đặt mình xuống giường cuộn chăn vào ấm mà ngủ, thì hồ thiu thiu giấc, cái cảnh ấy đã như phim chớp bóng nó chêu cợt khách đa tình, chợt tỉnh dậy mà bâng khuâng chán ngắt!
Bừng mắt xa nhau mấy dậm ngàn,
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
Thương ôi! Hữu tình gập bước vô duyên,
Nhìn giời toan trách, thấy đám mây tan giật mình!...
Kìa! Vạt áo tôi còn như đẫm những giọt lệ của mợ, mắt tôi còn tưởng tượng đến mợ tựa vào vai tôi mà thổn thức, tai tôi còn văng vẳng những lời than vãn của mợ, rằng dại dột, rằng nhẹ dạ. Mợ ơi, mợ là vị hôn thê của tôi, mợ là của tôi, có bao giờ tôi lại khinh mợ là không biết gì, mà mợ phải lo nghĩ!
Em ơi, em Anh Tuyết yêu quý của anh ơi! Ước gì ngày tháng này rồi sẽ là ngày tháng của đôi ta nhỉ! Nhưng mà cái ngày cưới cũng không lâu đâu, anh định bàn với em nên thu xếp ngay vào mùa xuân sang năm thì phải.
Việc này nên cẩn thận, em định liệu rồi cho anh biết tin.
Chồng mợ
Đọc xong từng này bức thư, ai mà không tin rằng cô Ánh Tuyết cùng thầy ký Gồ gian díu cùng nhau, đã đưa nhau lên chơi Hà Nội.
Có người nói:
- Văn chương nó đĩ bợm thế không trách con kia chết cũng là phải!
Lại có người nói:
- Hình như con Ánh Tuyết này là con Toét thì phải, nó là con ông phủ Toản. Thuở bé mắt nó lúc nào cũng toét nhoèn nên mới thành tên là Toét, rồi lúc đi học mới gọi chệch đi là Tuyết, là Ánh Tuyết cho nõn nà đấy chứ! Nếu có phải là con Toét thì tôi biết tung tích nó, nó có con riêng rồi, nay bị cha mẹ ruồng bỏ.
- Anh chỉ khéo bịa chuyện, không chim được thì nói xấu, tồi quá!
Cái mưu kế của thầy ký Gồ dùng để đổ tiếng oan cho cô Ánh Tuyết thực là mầu nhiệm. Giả sử Ánh Tuyết đã về tay ai, thì hẳn thầy cũng cướp được như bỡn!
Cái trò người Việt Nam mình hay có lối kéo dài câu chuyện cho vui tai, cho nên nhiều người bịa thêm nhiều chuyện về thầy ký Gồ và cô Tuyết.
Người đầu tiên nói:
- Dễ thuờng cô Ánh Tuyết có mang!
Người thứ hai, muốn cho câu nói có giá trị hơn, bỏ phắt hai tiếng đầu cho rắn rỏi mà rằng:
- Cô Ánh Tuyết có mang!
Rồi người thứ ba, muốn cho câu nói của mình có chứng cớ hơn, nối thêm rằng:
- Cô Ánh Tuyết có mang, chính con sen nhà cô ấy nói chuyện đích thế.
Ấy thế là cô Ánh Tuyết có mang đấy, có mang với thầy ký Gồ đấy, các ngài ạ!
Rồi nhiều người có ý nhận cách cử chỉ của cô, ngắm cái bụng của cô, mà quả quyết rằng:
- Chẳng còn sai nữa!
Rồi lấy trí tưởng tượng và mồm mép nhà tiểu thuyết mà đặt thêm những là cô ấy định uống thuốc thôi thai, cô ấy định xin đổi.
Ta đã nghe chuyện cô Ánh Tuyết có mang đầu đuôi là thế, ta cũng nên biết cô Ánh Tuyết từ khi bị cái tiếng tăm ấy thì thế nào.
- Nếu cái nhà ông mũi to ấy quả là chưa có vợ, thì cứ việc nhờ người đến nói với ông bà tôi, nếu ông bà tôi bằng lòng thì việc xong, chứ can chi!
Ai đem tiếng đồn trong phố đến tai cô, cô cũng trả lời câu ấy. Nhưng cô ấy vẫn làm cao, chẳng bảo ai nhà cửa ở đâu cả.
Một hôm cô nghe thấy có người nói chuyện những bức thư gửi cho cô, cô cười mà rằng:
- Hão quá!
Nhưng rồi cô đoán ý, biết là thầy ký Gồ định dụng tâm để lừa công chúng; cô lại xét đến hôm ô tô chết giữa đêm, tờ truyền đơn gián cổng, thì cô tự bảo rằng:
- Chắc anh chàng này muốn kết duyên cùng ta, nhưng sợ ta không thuận, nên lập kế nắm đằng chuôi đây.
Rồi quả một hôm, có một bà lên đánh tiếng với cô cái chuyện nhân duyên ấy. Cô không trả lời, chỉ thở dài rồi khóc.
- Tôi chỉ sợ ông ấy có vợ ở nhà quê rồi! Tôi nghe hình như thế. Mà ông ấy vờ để ghẹo tôi đấy chứ gì!
- Ông ấy quả là trai tân, cô ạ! Ông ấy nói thực đấy.
- Bà phải biết các ông ấy bây giờ ghê gớm lắm. Thấy gái đẹp thì ước ao, là nói dối nói dá, hứa nọ hứa kia; bà chẳng thấy ở đời nay vợ chồng họ bỏ nhau soành soạch là gì, kết cục chỉ tại bên đàn ông bạc bẽo. Nhà tôi thì gia pháp nghiêm, cha tôi chả ra gì cũng đã làm đến tri phủ, mà nay vớ được những rể như hạng nói trên kia, thì chỉ tổ thế gian mai mỉa!
- Cô không ngại. Ông này tôi biết đến tận tông. Ông ta cũng con nhà gia giáo mà giầu có lắm. Thực là hiền lành ngoan ngoãn, ngày bé tôi vẫn chế là con gái đấy! Đi làm được đồng lương nào thực là hà tiện chắt bóp! Khốn nạn, giá sáng ngày có bỏ ra mua xu sôi ăn lót dạ cũng tiếc! Thành ra từ ngày ra làm việc tới nay, đã tậu được khối ruộng ở nhà quê ra đấy. Thầy ấy bảo giá lấy được cô, thì mua miếng đất ở bờ sông này, làm cái nhà tây, rồi hai vợ chồng xin từ chức, chồng xuôi ngược buôn bán, vợ thì làm công-táp và mở một nhà đỡ riêng.
Bà khách tán tỉnh rất lâu, và đến chơi cô Ánh Tuyết luôn luôn, mà lần nào cũng chỉ có một chuyện vơ cho cô lấy ký Gồ.
Cô Ánh Tuyết trước còn chê mũi thầy to quá, sau lại chê thầy răng khểnh, nhưng những câu ấy cũng không lấy gì làm khó cãi cho bà mối quen nghề. Rồi kết cục, cô bằng lòng mà rằng:
- Nhưng tôi chỉ ngượng vì những lời thiên hạ đồn trước nay thành ra sự thật.
Đến tháng ba năm sau, thầy ký Gồ định ngày cưới.
Nhưng thầy lấy làm hoảng vì sự thách của cô dâu. Cô không thách vàng thách bạc, không thách tàu bay hay ô tô, nhưng chỉ thách rằng đến ngày cưới, thì phải có mặt cha mẹ chồng, và họ hàng cho đông đủ.
Mả vợ thầy có lẽ chửa xanh ngọn cỏ, chửa nỏ hòn đất, mà từ ngày ấy thầy cũng chẳng đoái hoài đến, về đã không, mà bức thư cũng chẳng có. Ông cụ nhà thầy nhiều lần viết đến mắng thầy, nhưng thầy cũng lờ đi. Đến nay thầy cưới vợ một cách thượng khẩn như thế này, ông cụ mà biết thì hẳn bị ngăn trở.
Vậy mà Ánh Tuyết thách phải có cha mẹ chồng đi đón dâu! Đấm ai ra?
Thầy ký Gồ nhắn mụ mối xin lại, nhưng Ánh Tuyết không bằng lòng, mà bảo:
- Ở nhà tôi có thầy mẹ tôi, thì lấy lý gì ông dâu da không thèm tiếp? Hay khinh nhà tôi hèn?
Bất đắc dĩ thầy ký Gồ phải chịu lời cho trôi câu chuyện, nhưng thầy xin cô một điều là cho thầy được thuê nhà ở Hà Nội để cưới cho tiện. Vì nhà cô cũng ở Hà Nội, mà nhà thầy ở nhà quê vùng Kiến An, đi qua tám chín chiếc đò mới đến, thì dù có ô tô cũng phiền phức. Vả lại cưới ở Hà Nội, vừa tiện vừa được khoe sang với thiên hạ thì hơn.
Mụ mối lại khổ về điều này, vì cô Anh Tuyết mãi mới nhận nhời, nhưng đền lại, cô bắt thầy phải làm giấy cam đoan trước rằng trong ba hôm kể từ ngày cưới, không được sinh chuyện với họ nhà gái, nhất là không được vin lẽ nọ cớ kia vì cô dâu, để làm cho nhân duyên của cô phải trắc trở vì bao nhiêu chuyện là ở chú rể gây ra cả.
Thôi thì bảo sao thầy Gồ chả phải nhận lời mà sở dĩ phải làm giấy cam đoan, vì thầy đã gây nên cho cô bị cái tiếng bất chính. Cũng may đấy, giá cô bắt chú rể phải liếm chảo trước khi đi đón dâu, có lẽ thầy cũng cố nhắm mắt nhắm mũi mà liếm vậy.
Thầy ký Gồ xin phép nghỉ mười lăm hôm để cưới vợ. Thầy lên Hà Nội, thuê nhà cưới. Thầy chọn một cái nhà rất lịch sự, bắt phải bày biện rõ sang trọng. Những bức dán trăng kim chữ "Loan Phượng Hòa Minh" mọi khi treo các đám cưới thường thì thầy bắt bỏ đi mà thay bằng những tranh thêu mới thuê ở hiệu. Y môn, màn quần, lọ hoa câu đối cưới, mâm ngũ quả, bàn thờ ông vải, bàn tế tơ hồng, hai bước truyền thần ông cụ bà cụ, thức nào không sang trọng là không dùng.
Những đồ đạc, dù giá cao đến đâu, nhưng có tiền cũng sắm được, chứ đến bố mẹ thì sắm đâu cho ra? Thầy bèn nhờ người sắm những vai ấy. Mà may cho thầy làm sao, thầy nhặt nhạnh đâu được một ông cụ ăn mày, tóc bạc phơ, mà cái mũi cũng hùng hồn chẳng kém gì mũi thầy mấy. Thầy thuê ông cụ ấy để làm bố, bèn may mặc, và dạy những câu nói, những bộ điệu, sao cho dõng dạc, cứng cát. Rồi thầy lại kiếm được một bà lão, cũng trạc tuổi ông cụ ấy, để đóng vai mẹ thầy. Ông cụ, bà cụ, trông rõ ra người nhà quê chất phác.
Đến bọn anh em chị em, thì thầy kiếm một cách dung dị hơn, vì thầy có quen thân với một người chủ ban diễn kịch, đã lên sân khấu nhà hát Tây mấy lần công chúng hoan nghênh. Bọn này, người thì đóng vai chú thầy là ông Huyện có thể bài ngà, người thì đóng vai em thầy đương học trường cao học, người thì đóng vai mợ, buôn to bán lớn ở Hà Thành và mừng cho vợ chồng cháu cái ô tô, người thì đóng vai cô em con nhà chú, hiện đương làm cô giáo dạy khoa toán pháp và kỷ hà học trường nữ sư phạm. Lại có đứa bé con, đóng vai cháu thầy, nhanh nhẩu và lễ phép, vân vân. Khi các vai đã tìm kiếm được đủ, thầy cho diễn thử một lần, thì thấy hoàn toàn lắm, thầy khen vai ông bố, không ngờ đâu lại đặc sắc nhất, vì khéo mượn đâu được cái kính râm, luôn luôn đeo trên mắt, và đã mua riêng được một cái cối giã trầu, lúc nào cũng gò vai rụt cổ mà ngoáy!
Ngày cưới đã đến!
Các vai tài tử đã tề tựu tới cả; mười chiếc ô tô kính cũng sình sịch xếp hàng ở trước nhà. Sác pháo đỏ ngòm trước hè, thầy đội xếp dát cổ về dẹp lũ trẻ con bướng bỉnh, cứ lăn xả vào mà cướp.
Rồi mười cái ô tô nối đuôi nhau đi. Đến nhà gái, một tràng pháo nổ khói bay mù giời, sác bắn tứ tung không sao mà vào được.
Nhà cô Ánh Tuyết bày biện cũng không kém vẻ sang trọng. Họ nhà giai ai nấy ngồi yên, ông bố chồng mới đứng lên nói mấy lời với nhà gái. Đoạn rồi thầy ký Gồ mặc áo thụng lễ gia tiên nhà vợ, rồi đến mừng tuổi ông bà nhạc.
Làm chú rể, thì dù người ta bảo lễ xó cửa cũng phải lễ, cho nên thầy Gồ lễ la liệt mà chả ngại công. Mà họ nhà giai không bao giờ tỏ tình thân và cần phải lễ phép đối với họ nhà gái cho bằng hôm đón dâu. Nào là hai nhà như một, nào là con mình dâu người, nào bẩm, nào dạ, nào chắp chân chắp tay, nào nâng chén nước chè, nào cầm hầu ống phóng.
Bên họ nhà gái, họ hàng cũng sang trọng đông đúc không kém gì họ nhà giai. Đấy ông Huyện, thì đây ông Hường, đấy Cao học, thì đây Tham tá, lại này cô Giáo bạn vì chờ bổ nên viết báo dạy đời, nọ cô em xuýt dự vào cuộc tiểu thư đi bộ. Mà nổi nhất là ông Phủ, đường đường một đấng bố vợ, mặt mũi phúc hậu như một ông cụ có con gái đẹp, cái áo gấm lam, cái khăn xếp nhiễu, bệ vệ rõ bậc quan hưu. Hai họ đã đăng đối, mà giai nhân tài tử lại xứng đôi.
Tiệc rượu sâm-banh xong, nhà giai xin rước dâu thì ông cụ nhạc quay mặt vào trong hỏi:
- Nào cô Đốc, ấy quên, mợ Phán đã sắp sửa xong chưa, gớm, còn phấn sáp mãi; tám mươi trống canh không chải xong cái đầu! Nào bà còn dặn con điều gì nữa không?- Thưa cụ lớn chị con còn đương khóc nhớ nhà đấy ạ!
Quan Huyện chú lên giọng diễn kịch mà nói:
- Ấy, cái lối các cô con gái về nhà chồng bao giờ cũng có thứ nước mắt quý ấy đấy, thưa cụ. Cái nước mắt ấy, do sự mừng mà ra. Ngày tôi mới đỗ soóc-ti trường Hậu bổ, tôi lại khóc nhiều hơn ngày tôi đỗ Cử nhân! Hà! Hà! Hà!
Lúc ấy bà cụ nhạc ở trong và đi ra, mù-xoa chấm mắt đỏ hoe, ra dáng buồn rầu quá, nói rằng:
- Xin hai cụ cho phép cháu chậm lại một tí, thật là đẻ con ra, đến lúc này mới biết thương con!
Cụ phủ ông nói:
- Vâng, mấy hôm nay hai mẹ con lúc nào cũng khóc với nhau đấy ạ, mà nhiều khi tôi đến phải phát gắt!
Cô Giáo khoa toán pháp kiêm kỷ hà học nói:
- Bẩm mười hai giờ hai phút rồi!
Bà mợ cũng góp lời:
- Rồi chẳng thấy độ dăm bữa nửa tháng, chị phán nó có về hầu hai cụ, mà hai cụ có giữ lại vài hôm, thời đã kêu nóng ruột đấy!
Một lúc sau, cô dâu ra; mười chiếc ô tô lần lượt đánh đến trước cửa, nuốt chửng hết cả quan viên hai họ, rồi từ từ đi rong hết phố nọ đến phố kia, mới đến nhà thuê cưới.
Các tài tử lại một phen cố lột hết tinh thần của vai mình đóng, bởi vì thầy ký Gồ hứa sẽ thưởng thêm cho những người diễn giỏi.
Cô dâu chú rể lễ gia tiên xong rồi mừng tuổi bố mẹ. Ông cụ cũng nhai trầu khéo như hôm tập, dõng dạc nói rằng:
- Thầy mẹ cũng chả có gì mừng cho anh chị, thì thôi, nay đã gập được dâu hiền, thầy mẹ giao cả cơ nghiệp cho anh chị coi sóc.
- Thưa hai cụ, cái cơ nghiệp ấy những bốn mươi vạn đấy ạ!
Bà mợ khoe ngay như thế, rồi tiếp luôn rằng:
- Còn mợ nữa, chẳng may cậu mất đi, cho nên mợ gọi là có tí chút mừng anh chị. Cái hốt-kít, tài xế nó đánh lại chưa?
- Đã ạ!
- Đấy, mợ cho anh chị lấy mà dùng, chiều mát đi chơi, đến hè có ra Đồ Sơn thì cứ đến cái biệt thự của mợ mà ở.
Quan Huyện nói:
- Chú cũng như cha! Thầy mẹ cho cơ nghiệp cũng như chú cho! Hà! Hà! Hà! Thưa hai cụ, tiếng rằng chúng tôi làm quan, nhưng mà nghèo hơn anh phán nó đấy ạ!
- Ấy, ông Huyện đây không biết ăn tiền, thưa hai cụ ạ! Thì ra chỉ làm quan để nối nghiệp nhà, để làm ơn làm huệ cho người ta thôi! Người ta mà đi tri huyện từng ấy năm giời thì nhà gạch đã có hàng dẫy rồi đấy!
- Thưa hai cụ, anh Phán nó cũng giống tính chú Huyện nó lắm, cũng hiền lành dù dì thế.
Bà mẹ chồng nói:
- Hiền lành để tiếp lấy phúc nhà, quý hóa gì cái giả dối! Mà cụ Phủ đây thực đã khéo kén được rể hiền!
Bà mợ lại lên giọng:
- Vâng, thực quả ông bà tôi hiền lành quê kệch lắm, cho nên lậy giời đẻ được anh Phán nó cũng giống như đúc!
Chuyện vãn hồi lâu, hai họ dự tiệc. Những hầu sáng hiệu cao lâu ăn mặc rõ nền, đến hầu hạ rất nhanh nhẩu; món ăn làm đã khéo, lại được quan viên hai họ tính khí dễ dãi, nên chẳng phải mời lâu như bữa tiệc tỉnh Nam.
Độ bốn giờ chiều, họ nhà gái cáo từ ra về cả, chỉ còn con bé bằng trạc Ánh Tuyết ở lại hầu cô dâu mà thôi; rồi chú Huyện, mợ chủ, em giáo vân vân, đều ai về nhà nấy. Đến sẩm tối, thì hai cụ cũng rủ nhau chuồn.
Màn hạ. Trong buồng trò, còn hai vai chính với con ở mà thôi; nhưng rồi con bé này cũng không thấy mặt ở nhà ấy nữa.
Sáng hôm sau, thầy ký Gồ đi sớm để trang trải món tiền thuê diễn kịch, nhưng vừa đến cửa thì gập con bé hầu vợ đến, bèn quắc mắt mắng rằng:
- Mày đi đâu tối hôm qua, mà để mợ gọi mãi!
Con bé không ra dáng sợ, toét mồm cười mà rằng:
- Mày tao gì? Anh nhìn kỹ tôi xem quen hay lạ!
Ký Gồ có ý ngợ một chút, rồi ra dáng ngạc nhiên hỏi rằng:
- Ờ kìa, chị Cúc Hồn, sao bây giờ phải đi ở thế chị?
- Chị ấy mượn tôi đóng vai đứa ở đấy chứ có phải nghề tôi đâu.
- Thế bây giờ chị vẫn đi học hay đã lấy chồng?
- Cậu nó làm tham tá ở phụ Toàn quyền, Tham Chi ấy mà, anh cũng có quen đấy, hôm nào anh đến chơi.
Ký Gồ ngẩn người ra, hỏi:
- Chi Béo ấy à?
- Phải!
- Thế còn những người kia, hôm qua, là thế nào?
- Giả dối cả đấy, thuê mỗi đứa mười đồng đấy.
Ký Gồ xám người lại, rồi đi; con ở lên buồng cô dâu, hỏi luôn:
- Thế nào, nó có biết không, mày?
- Giá không có mày nghĩ ra kế mực đỏ thì hỏng bét! Vả lại đã có tờ cam đoan, tao nắm đằng chuôi, tao sợ gì?
- À, Toét ạ, thằng bố mày nó bảo vai nó đóng nặng nhất, nó không chịu lấy mười đồng đâu. Tối hôm qua, chúng nó ắng nhau ỏm tỏi cả lên.
- Thế sao mày không thu xếp cho xong?
- Kệ mẹ chúng nó, hơi đâu, miễn là xong lúc bấy giờ thì thôi chứ còn rắc rối làm gì?
- Sao tao bảo mày ở đây với tao đêm qua mà mày không ở, thế ngộ câu chuyện lộ ra thì một mình tao, tao xử ra sao? Khỉ quá, làm tao lo mãi. Ôn con!
- "Ông" về với con mày chứ "ông" về làm gì? Hôm qua thằng bé nóng suốt đêm. À, Toét ạ, không khéo chúng mình cũng mắc lừa chúng nó đấy, vì chúng nó cũng thuê như chúng mình!
- Sao mày biết?
- Tao còn lạ gì những quân này đã diễn kịch mấy lần trên nhà hát Tây! Mà chồng mày tao biết, vợ nó mới chết tháng mười năm ngoái đấy!
Ánh Tuyết giật nảy mình, ngã ngửa người ra:
- Thôi chết! Mình tưởng mình lừa được nó, té ra nó cũng lừa mình.
Cúc Hồn lăn ra cười, nói rằng:
- Thôi! Thế là hòa.
Bóng trăng mờ, cỏ sương như ngọc, ngọn gió hiu hiu như giục khách giang hồ...
Đỗ Quyên quay lại nhìn. Cái mái nhà dưới bụi cây kia làm cho chàng xiết bao đau đớn; cái lối đi nho nhỏ, ngoằn ngoèo trên bãi cỏ như con rắn bò ngang, chả là cái dấu vết chân chàng bấy lâu qua lại; cái gốc cây đa kia, từ nay chiều mát, có còn ai thơ thẩn chơi đó nữa không? Than ôi! Một bước chân đi mấy đoạn trường!
Đỗ Quyên vừa đi vừa nghĩ, nghĩ hết cha mẹ đến vợ con, hết vợ con lại đến bạn. Cái nhẫn vàng lóng lánh ở tay như cũng giương hai con mắt sáng lên để nhìn chàng làm cho chàng phải thở dài. Nhưng chàng sực nhớ ra rằng bạn chỉ nói rằng "họ trả thù" nhà mình cũng quên không hỏi rõ xem "họ" là ai? Nhưng biết thêm điều đó có ích chi? Dù ai thì cũng mặc trời vậy.
Cái cánh đồng rộng mênh mông, lúa xanh rờn rợn, rập rờn như làn sóng ngoài bể khơi. Chàng đi giữa cái cảnh bát ngát ấy mà bất giác giật mình nghĩ thực chẳng khác chi con thuyền lênh đênh lên mặt biển, nào biết lái vào nơi nao? Bỗng xa xa một giải rừng mù mịt mập mờ ở trước mặt, chàng bèn cứ thẳng đó mà đi.
Độ hơn một giờ thì tới. Cánh rừng đó, cây cối rậm rạp, tối um. Lúc ấy trăng đã lặn, sao đã thưa dần; giọt sương từ tầng lá, tí tách gieo xuống, như giọt lệ khóc kẻ phong trần. Chàng mỏi chân quá, tựa gục vào gốc cây mà nghỉ.
Nhưng chợp mắt nào có ngủ được? Lá bay sột sạt, hơi động một tí là đủ làm cho chàng choàng ngay dậy, tưởng đâu như lũ lính đi tìm đến bắt mình. Nhưng trông chung quanh, nghe bốn phía, quả là được bình yên, chàng mới lại được an tâm như trước. Rồi đó, hồ ngủ được một phút là chiêm bao, những cái chiêm bao ghê gớm, nào là một bọn lính kéo đến, nào là một lũ tuần vây quanh; chàng bực mình, bèn đứng phắt dậy, cố đi một thôi nữa.
Một lúc, vầng đông đã hơi đo đỏ, chàng đã đi tới giữa rừng. Rồi một tia sáng ở chân giời tóe lên như hình cánh quạt, mấy đám mây cũng được viền thêm tí ánh thiều quang.
Đỗ Quyên nhìn bốn chung quanh, đã rõ ràng cả, thấy lá xanh hoa thắm, nhởn nhơ trước gió như mừng rỡ bóng kim ô, thực trái hẳn với tâm lý chàng càng thấy sáng rõ mặt người càng sợ. Chàng đứng dừng lại, nhìn qua tầng cây cối, cố nhận ở đằng chân giời, xa xa một điểm trắng lộ hẳn ra ở giữa dặng cây xanh rì, chẳng là bức tường đình làng mình đó ư? Chàng tưởng tượng đến cái nhà gianh lẩn đằng sau đình ấy, hẳn lúc này là lúc cha mẹ chàng đã dậy cả, mà khi tìm con không thấy, thì sẽ ra sao? Cha chàng thì hẳn long tong chạy hết đầu làng cuối xóm, tuy đã thấy thất vọng mà vẫn còn mong cái hão huyền; mẹ chàng thì hẳn mếu máo, hỏi thăm nhà này, hỏi thăm nhà nọ, vừa sợ vì không hiểu ra sao, vừa lo vì rồi cái vạ này hẳn dắt thêm cái vạ nữa. Rồi đến tối, nhà cũng vẫn vắng vẻ như khi chàng đi vắng nhà, nhưng tự nhiên thấy vắng tanh vắng ngắt, có cái hơi lạnh lẽo, lạnh lẽo như nhà có người chết vậy. Cái buổi chiều đã như khơi động tấm lòng sầu, nhưng cái buổi chiều nay, hẳn là trong nhà mình sẽ có một cái cảnh tượng rất thương tâm, mà chửa tối, hẳn hai ông cụ bà cụ đã nằm dí mà thở dài, mà khóc vụng. Than ôi, cái cảnh ngộ này có phải nó an ủi cho cái tuổi già đó chăng? Rồi đến khi vợ con chàng về, tiếng khóc thương chồng, tiếng gào nhớ bố, giọng bi ai nào thấu đến trời xanh?
Rồi cha mẹ già như chuối chín cây, như đuốc trước gió, biết rồi rầy nắng mai mưa ra sao? Mà vợ chàng, ngót hai mươi cái xuân, biết có chịu thay mình mà dâng bùi kính ngọt. Hai con chàng, biết rồi ai nuôi nấng, ai dạy dỗ, ai trông nom cho chúng nó được nên người? Vợ chàng đang có mang, thì sau này sẽ đẻ con trai hay con gái. Đứa con không bố rồi nữa ra sao? Họ hàng thân thích không còn ai, được dăm ba người thì đông bôn tây tẩu, vậy thì những khi sóng gió bất kỳ, biết cùng ai trông cậy. Có người bạn là Quản Sinh có thể tin được, nhưng nay đây mai đó, cái thân đã vào vòng danh lợi, thì chắc chi không phải đổi đi nơi xa? Một vài tháng nữa, một hai năm nữa, khi chữ "quên" cầm bút xóa mờ cái tên mình đi ở nơi quê hương, thì mấy ai nhắc nhỏm đến cậu Tú Quyên ngày trước?
Đỗ Quyên vơ vẩn nghĩ như thế, thì trong mình thấy hết cả cái hăng hái lúc ban đầu, mà tự nhiên thấy chân tay mệt lử, rồi không biết thế nào, thấy hoa mắt, ù tai, trong đầu choáng váng. Chàng đương tìm xem cái cớ vì đâu, thì bỗng sực nghĩ ra là cái đói nó đến dọa chàng vậy. Chàng thấy đói, vì chàng đã đi suốt cả đêm hôm qua. Ừ, rồi ngày hôm nay thì lấy chi ăn cho đỡ lòng? Nhìn chung quanh, toàn là gốc to, rễ lớn, có phải là thứ gậm được đâu?
Lúc đó Đỗ Quyên mới thực hiểu rằng cái văn minh bao giờ cũng đi đôi với cái phiền phức, cái dạ dầy nếu quen được những thịt sống quả xanh như đời người cổ, thì đến nay có lẽ không phải lo nỗi đói lòng, vì chung quanh mình biết bao nhiêu thứ có thể nuôi sống được loài động vật mà chẳng nuôi sống được loài người!
Bỗng thoang thoảng đằng xa gió đưa lại, một mùi tanh tanh thum thủm như mùi cóc chết, chàng sực nghĩ ra rằng cánh rừng này xưa nay có tiếng rằng dữ, thì có lẽ cái mùi ấy là mùi con hươu con nai bị cọp ăn còn bỏ lại chăng, chàng bèn cứ theo cái hơi ấy mà tiến gần vào. Nhưng khi đương vạch cây rẽ lá mà đi như thế, thì tai chàng nghe thấy sột sạt có tiếng động. Đứng dừng lại, vừa lắng tai vừa lé mắt, thì chàng nhận ra rằng chỗ ấy rộng có lẽ là lối đi, mà cây cối như có nhiều vết dao vết búa.
Đỗ Quyên mừng thầm đã tìm được lối đi nữa, nhưng vừa toan bước chân tới, thì chàng giật mình, thấy một con cọp! Giá người yêu bóng vía thì quyết đã ngã lăn ra đấy, nhưng Đỗ Quyên chỉ rùng mình thấy hơi rờn rợn một tí thôi. Khi đã định được thần rồi, chàng mới nhận ra rằng con cọp đương vần cái mồi, mà cái mồi thì hẳn là một anh chàng nào xấu số thiệt phận đó, vì rõ ràng thấy còn cái đầu lâu và cái thân, máu me bám vào từ bao giờ bê bết! Đỗ Quyên sợ quá, mềm nhủn cả người, giá không víu chặt vào cái thân cây thì có lẽ ngã ngửa ra đấy rồi! Trước thì tưởng là cái mồi định chia đôi cùng cọp, nay lại lo cho mình có lẽ đến lượt làm mồi! Chàng nhịn thở, se sẽ núp ở dưới tầng lá và nhìn ra, định hễ cọp đi thì cũng lủi mất. Con cọp vờn mãi cái mồi, lúc tiến lúc lui, lúc chồm lại, lúc quăng lên, như thể con mèo vờn con chuột, trước khi ăn, còn để nhìn cho sướng mắt, còn để tập miếng võ cho dẻo thêm!
Đỗ Quyên đoán người bị cọp vồ đó, hẳn là người tiều phu, mà thấy cái lưng trần trùng trục, thì có lẽ người này không mặc áo; đưa mắt cạnh đó, quả cái áo còn vắt trên cành cây.
Con cọp vờn cái mồi một lúc lâu, lúc thì làm bộ dữ tợn mà vồ lại, lúc thì ra dáng hiền lành mà lui xa, lúc thì ve vẩy đuôi, lừ lừ mắt; Đỗ Quyên ngắm cái bộ dạng của bác chúa rừng mà lòng cũng phấn chấn, bỗng một cành cây khô ở trên bị gió đánh gẫy, rơi bộp xuống đất, làm cho con cọp giật mình, nhẩy đánh vót một cái thực xa, rồi trốn mất. Đỗ Quyên lúc đó hồn vía cũng lên mây xanh bám chặt lấy thân cây không dám cựa. Một lúc nghe đã hơi yên lặng. Đỗ Quyên nhìn chung quanh, rồi se sẽ lần ra, lấy cành cây con kều lấy cái áo của bác tiều phu, móc trong túi, còn một gói thuốc lào và may sao, có cả cái thẻ.
Đỗ Quyên mừng quá, mừng cho mình sẽ được đổi tên khác thì có lẽ không ai ngờ vực gì nữa; bèn cởi cái áo the của mình mặc ở đó, và vứt cái thẻ mình bên cạnh, rồi đi.
Thế là nay Đỗ Quyên tức là anh Trần Văn Xa làm nghề đốn củi rừng vậy.
Anh Trần Văn Xa này, tuy có cái áo cộc nâu bàng bạc, nó ra mốt con nhà lao động một tí, nhưng hãy còn có cái quần trắng với cái khăn lượt con nhà văn! Nhưng biết làm sao? Cứ đành vậy mà đi, lúc ấy đã thấy đói lắm.
Vậy mà kể cũng may cho Đỗ Quyên, đương ngồi củ rũ ở gốc cây thì có một ông lão tiều phu ở đằng xa đi lại. Đỗ Quyên trông qua ông lão, biết là người thực thà trung hậu, bèn lại gần mà rằng:
- Cụ cho cháu xin hớp nước!
- Nhà bác đi rừng mà không mang nước đi, lỡ không gập tôi thì xin ai?
- Thưa cụ, nguy lắm, cụ cho cháu hớp nước, rồi xin cụ đi mau qua quãng này đi, kẻo có cọp. Hai anh em cháu đi kiếm củi từ hôm qua, chẳng may nó vồ mất một, cháu hoảng hốt chạy trốn, đến nỗi ngất người đi, bất tỉnh nhân sự, tới nay tỉnh lại thì lạc đường.
- Sao nhà bác nói vô lý thế? Hay nhà bác mới đi rừng lần này là lần thứ nhất? Hổ chẳng qua như con chó dữ, đàn bà lấy đòn càn còn có thể đánh chết được, huống chi là hai anh em bác?
- Nếu cụ không tin, cháu đưa cụ lại chỗ kia. Cụ có thấy mùi gì không?
- Có...
Lúc đó ông cụ nhìn mặt Đỗ Quyên, rồi bỗng chợn mắt mà hỏi:
- Thằng sát nhân, à mày định ăn cướp có phải không?
- Thưa cụ, nếu cụ không tin lòng ngay thẳng của cháu, mà lại ngờ như vậy, thì cháu biết nói ra làm sao?
- Vậy thì anh đưa tôi đến chỗ đó.
Lúc ông cụ đến nơi, có ý dò xét, thì quả thấy có những vết chân cọp dẫm nát một khoảng đất; ông cụ mới cười mà rằng:
- Vậy thì lão lầm thực. Anh có đói không?
- Thưa cụ có!
- Đây, anh ăn cho đỡ lòng, rồi lão đưa ra khỏi rừng cho khỏi lạc.
Đỗ Quyên vớ được nắm cơm, ngoạm mấy miếng đã hết ngay một góc. Thật là quý hóa quá. Lúc đói mới biết quý cơm, cho nên khi ăn được một nửa thì Đỗ Quyên đưa lại ông lão mà nói rằng:
- Cháu no rồi, cháu cảm ơn cụ.
- Không, anh cứ ăn hết đi.
- Cháu no thực cụ ạ. Cụ để lại một nửa này để phòng lúc cụ đói; cháu đa tạ cụ.
- Tôi đói thì tôi về nhà sẽ có cơm; vậy anh cứ ăn hết cũng được.
Đỗ Quyên càng quý bụng ông lão bao nhiêu, càng hết sức chối từ, mà ông lão vẫn không nghe, sau Đỗ Quyên nói:
- Cụ cứu cho cháu khỏi chết đói, cháu chẳng biết lấy gì đền ơn cụ; cho nên cháu không dám ăn cả...
- Ơn với huệ gì, người ta không giúp nhau lúc khốn cùng thì sống làm sao được, quý hổ sự cứu giúp của mình không đến nỗi lầm mà thôi. Tôi thường đi rừng, gập những người như anh luôn, cho nên thường tôi vẫn phải nắm cơm to, họa may để cứu được chăng.
Đỗ Quyên lấy làm cảm động vì cái bụng phúc đức của ông lão, thực là hiếm có trong chốn phồn hoa. Nhân thấy ông cụ có cái khăn mặt bông sặc sỡ cuộn ở trên đầu, Đỗ Quyên bèn định lấy để đánh đổi khăn lượt mình, bèn nói:
- Thật là hạnh phúc cho cháu mà được gập cụ cứu được sống, cái ơn ấy dẫu trả bao nhiêu cũng chưa đáng. Nay gọi là một chút lòng thành, cháu xin biếu cụ cái khăn lượt này, để cụ nhớ lại cái người gập gỡ giữa rừng mà cụ đã cứu sống.
- Chà! Nếu tôi cứu được ai mà cũng có vật làm ghi, thì có lẽ nhiều lắm rồi, nhưng tôi có cần nhớ đến những việc đó đâu? Bụng cho thế là nên thì làm, chứ có phải cốt cầu lợi đâu?
- Không phải thế, nhưng mấy khi gập người như cụ, cho nên cháu phải nhớ suốt đời, mà chả nói giấu gì cụ, cháu muốn biếu cụ cái khăn này, rồi cháu muốn xin cụ cái khăn của cụ, để được nhớ đến cụ luôn luôn.
Ông lão cười, se sẽ giơ tay lên, trật khăn ra mà rằng:
- Vậy là anh muốn nhớ tôi. Thì đây, cầm lấy. Nhưng tôi không muốn nhớ đến anh đâu.
- Vậy cụ cho cháu biết cụ ở đâu, hỏi thăm đến nhà cụ thế nào?
- Anh hỏi làm gì? Chừng nào anh muốn gập tôi, thì anh lại phải đến chỗ rừng này, anh lại phải gập hổ như vừa rồi, và đói khát như ban nẫy!
Đỗ Quyên lấy làm ngạc nhiên, sao ở trong cái hình thức cục mịch mà lại có cái tinh thần văn minh cao thượng đến như thế? Có lẽ còn ngạc nhiên hơn là gập những hạng bề ngoài có cái vỏ văn minh mà bề trong lại dã man đểu giả; vì hàng trên hiếm mà hạng dưới này nhiều!
Lúc ấy Đỗ Quyên mới nhớ đến cái nhẫn của bạn, không biết người này đã là ân nhân mình hay chưa? Nhưng dù sao, Đỗ Quyên vì đã hứa với bạn nên trút chiếc nhẫn ra, đưa ông cụ và nói:
- Xin cụ nhận cho tấm lòng thành này!
- Anh khinh tôi hay sao? Sao tôi thấy mặt mũi anh hiền lành khôi ngô làm vậy, mà không có bụng dạ tốt tí nào thế? Nếu anh cho tôi là đã làm ơn cho anh, thì rồi mai kia ngộ anh có cứu được ai, thì anh sẽ lấy công những gì?
Đỗ Quyên xấu hổ quá, tịt, không nói được câu nào cả. Ông cụ nói:
- Anh đi thẳng đường này mà ra, kẻo trưa rồi; khi thấy đường rẽ sang tay trái, thì theo lối ấy mà đi. Nếu có gặp hổ, thì làm thế này, trông đây.
Ông lão vươn tay ra, se sẽ trèo lên cây, vớ lấy một cành từ từ uốn cong lại, rồi buông phựt ra, khiến cho Đỗ Quyên đương để ý đến cũng phải giật mình đánh thót.
- Đấy, cốt đừng để cho nó nhìn thấy mình và đừng cho nó nghe thấy tiếng mình làm; nó giật mình là nó hoảng, nó liền chạy mất; bằng nó đã trông thấy mình, thì nguy đến tính mạng, lúc ấy phải một sống hai chết mà xông vào đánh nhau.
Đỗ Quyên càng lấy làm ngạc nhiên, không ngờ đâu một cụ già mà khí phách hùng tráng hơn mình là thiếu niên! Đỗ Quyên mướt mồ hôi ra; ông lão ở trên cây, lần lần xuống gần đến đất thì nhẩy tọt xuống rồi đi.
Đỗ Quyên đứng thừ người ra, nhìn theo mãi, lúc ông lão đi đã khuất, mới nghĩ rằng:
- Có lẽ giời sai ông cụ này xuống cho ta bài học chăng?
Ngùi ngùi nét mặt, Đỗ Quyên chạy theo, nhưng không thấy hút đâu cả, chàng mới thở dài mà than rằng:
- Mình đi học trong bấy lâu nay, thực là phí áo phí cơm, tủi bàn, tủi ghế, nào trí dục, nào đức dục, nào thể dục, đến nay mới biết nó có là thế thôi!...
Nhà kia có ba mẹ con. Bà mẹ trông người đảm đang mà phúc hậu, cô con gái ra dáng nhanh nhẩu mà dễ dàng, cậu con trai bé mặt mũi khôi ngô vui vẻ. Quanh năm mẹ con cầy cấy nuôi nhau, cũng có vẻ phong túc.
Một hôm, về buổi chiều, hai mẹ con ngồi ở sân nói chuyện, bỗng nghe thấy ở ngoài cổng có tiếng ăn mày kêu:
- Lạy ông lạy bà, tôi đói khát lắm.
Bà cụ ngước mắt lên nhìn, rồi bảo con:
- Em vào trong bếp xem còn cơm nguội thì lấy cho người ta một bát.
Cô con bĩu dài cái mỏ ra mà rằng:
- Mặc kệ! Ăn mày mà cũng cao thượng! Nó có thèm xin đâu mà cho?
- Lạy cô, chúng tôi có lỡ bước mới phải thế này, chứ ông cha chúng tôi có làm nghề này đâu mà dạy cách xin!
Hai mẹ con thấy thằng khốn nạn trả lời câu rắn rỏi làm vậy thì ngạc nhiên, bèn nhìn cả ra, thì thấy một người trẻ tuổi, mặt mũi xanh sao, đầu cuốn cái khăn mặt bông sặc sỡ, mình mặc cái áo nâu đã rách. Bà cụ thấy người ấy mặt mũi có vẻ khôi ngô, bèn chép miệng mà rằng:
- Sao người lành lặn thế này mà không kiếm việc làm, lại lười lĩnh thế?
- Thưa cụ, cùng lắm con mới phải đi ăn xin, con cũng biết là nhục lắm. Con đi làm mỏ, nhưng vì độ này đồng tiền khó kiếm, mà than ở sở bán ra cũng không chạy, nên người ta loại bớt phu yếu ớt đi.
Cô con bảo:
- À, thế là cái nạn kinh tế khủng hoảng. Độ này báo đăng ở Sài Gòn, ở Hà Nội, các cửa hàng vỡ đôm đốp!
- Thưa cụ, con đã mất việc làm, về nhà lại bị vợ con nó bỏ con, nó đi theo đám phường chèo mất. Con nay đi tìm nó, và rồi cũng phải tìm việc làm để kiếm ăn. Nhưng chẳng may bây giờ bị lỡ độ đường, nên chưa về được đến nhà.
- Nó đã định bỏ mình, thì tội gì mà tìm nó?
Bà cụ ra ý động tâm nói thế, cô con lại tiếp luôn:
- Ăn mày mà cũng công tử bột, sao anh không bán cái nhẫn của anh đi?
- Thưa cô, nào có ai mua mà bán!
Bà cụ mắng:
- Sao con hay lôi thôi! Kệ người ta có được không?
Người ăn mày nói:
- Thưa cụ và thưa cô, tôi đói lắm.
Bà cụ thân hành xuống bếp lấy cơm cho người ăn mày; trong khi người này ăn, thì bà cụ nói khẽ với con gái:
- Trông thằng này cũng thực thà, chả biết nó có làm gì được không? Nếu nó chịu khó, thì nhà nuôi nó làm vườn có lẽ được rẻ công.
- Mẹ cứ tham rẻ công, nào biết người lương thiện hay ăn cướp, hay là nó đi dò la gì chăng.
Cô con nói to, anh ăn mày nghe tiếng, đặt bát cơm xuống mà rằng:
- Tôi tưởng người thế nào thì nó lộ ngay ra nét mặt chứ giấu thế nào được?
Bà cụ bảo:
- Anh có cuốc được vườn không?
- Thôi đi me! Nào biết nó tung tích ở đâu, nhỡ ra thì hối không kịp!
- Thưa cô thẻ tôi đây. Bẩm cụ xưa nay con vẫn quen làm máy, nhưng vườn thì con chắc có thể cuốc được.
- Vậy anh có muốn làm ở đây với tôi không?
- Sao mẹ hay lôi thôi thế?
- Thưa cụ nếu cụ thương đến thì may cho con lắm.
- Anh lấy bao nhiêu công một năm?
- Con hãy ở đây với cụ, rồi cụ xem việc làm của con mà cho con bao nhiêu con cũng xin vâng. Vì cụ đã làm ơn cứu con lúc này, thì con chưa dám nói đến chuyện công xá vội.
Bà cụ khen sẽ với cô con:
- Ừ, nó ăn nói nghe được đấy chứ!
- Mẹ lạ quá!
- Thẻ anh đâu, đưa tôi xem.
Người ăn mày đưa thẻ ra, cô con đọc:
- Trần Văn Xa, nông nghiệp... à, ra anh ta quê cũng ở gần đây, ngay huyện bên cạnh à?
- Vâng, nhưng mà ở nhà quê tôi bây giờ chẳng còn gì, vì vừa rồi có cái nhà thì bị cháy mất!
Bà cụ nói:
- Tội nghiệp! Thôi anh cứ ở đây với tôi!
Thế là Đỗ Quyên được chỗ an thân vậy.
Đỗ Quyên suốt ngày với cái cuốc ở ngoài vườn. Giời thì nắng hanh, đất thì toàn cát, cuốc một nhát, bụi bay mù! Mà nào cái cuốc có được nhẹ như đôi đũa và cơm? Nhỡ sẩy tay nó va cho một cái vào chân là đủ chết! Vả từ thuở bé, chỉ quen chỉ tay năm ngón có làm việc nặng nhọc như thế này bao giờ đâu? May mà không cầm ngược đầu cuốc cũng đã là giỏi lắm. Nghĩ lại cái cảnh chân cờ tay vượn mà tốn vải dài lưng, đến nay mới thấy không biết làm là khổ!
Từ sáng đến trưa, Đỗ Quyên đứng ở ngoài vườn, đầu đội trời, chân đạp đất, mà phải luôn tay, chẳng được nghỉ tí nào. Buổi mới, hãy mong được tín nhiệm bà chủ, có gì thì sau sẽ hay. Lúc độ một giờ trưa, bà cụ cho thằng bé con chạy ra vườn bảo cho nghỉ.
Đỗ Quyên vác cuốc lên vai, đến đầu hè đã thấy sẵn bát nước chè tươi để đó, bà cụ bảo:
- Làm từ sáng đến giờ có mệt không? Tôi quên không bảo nó gọi về nghỉ!
Lúc ấy cô con gái ở trong nhà đi ra, tay cầm hai tờ nhật trình, thấy Đỗ Quyên vác cuốc lên vai liền mắng rằng:
- Bận sau anh chớ vác cuốc thế kia nhé, ở nhà quê không được tây như cái máy mỏ nhà anh đâu.
Bà mẹ thấy con nói chua ngoa, liền ngăn ngay. Cô bé lại nói với mẹ:
- Mẹ ạ, có một việc mà hai tờ báo đăng khác nhau.
- Việc gì, em đọc cho me nghe.
- Me nghe nhé, đây là báo đã đến ngót một tháng nay, nhưng bây giờ con mới mượn được. Đây con đọc tờ báo ngày hôm trước cho me nghe nhé; chính là chuyện vùng này đây:
"Cọp! Cọp!
Ở về vùng rừng Voi Phục, người ta mới tìm thấy xác một người bị cọp vồ. Người này có lẽ đang đi giữa rừng thì chẳng may bị nạn, mà có lẽ bị một con cọp lớn ăn thịt; xét vết chân dẫm nát bên cạnh tử thi, thì có lẽ người này trước khi làm mồi cho ông chúa sơn lâm, đã hết sức chống cự với ác thú; bên cạnh đó, có một cái cành cây như bị uốn cong xuống, thì người ta đoán rằng người bị nạn là một người lực lưỡng, nên sau khi một hồi lâu chống chọi, đã nhẩy được lên cây, nhưng không biết tại làm sao, hoặc là vì số bị thiên tướng nhà trời bắt, mà cành cây gẫy đến nỗi mới phải thiệt mạng.
Khi người đi rừng biết, thì người khốn nạn này đã nát nhừ ra, chân tay có lẽ bị ăn cả rồi, chỉ còn trơ cái thân và cái cổ; cái đầu lâu cũng còn ở gần đó, nhưng máu mê đen kịt lại, mà vết quào cấu rách nát cả mặt ra, không thể nhận là ai được. Nhưng sau người ta cũng tìm thấy cái áo người vô phúc ở cạnh đó, và nhặt được cái thẻ, tên là Đỗ Quyên.
Đỗ Quyên, hẳn các độc giả còn nhớ tên, tức là người bị nghi mà khi khám nhà các nhà chuyên trách đã tìm thấy nhiều giấy má quan trọng giấu ở đống rơm vậy, nhưng vì nhanh ý, nên đã trốn thoát. Hiện nay Đỗ Quyên đương trốn tránh cho khỏi mắc vào lưới pháp luật, thì bị nạn giữa rừng, cho hay thiên bất dung gian vậy.
Tin riêng của phóng viên bản báo".
Bà cụ nghe xong, nói:
- Đỗ Quyên có phải là Tú Quyên không con?
- Vâng.
- Còn báo kia thì đăng thế nào?
- Báo này đăng vào tờ ngày hôm sau, có ý rõ ràng hơn:
"Thiên bất dung gian
Nhắc đến cái tên Đỗ Quyên, chắc độc giả còn nhớ cái người thiếu niên có chứa giấy má quan trọng ở nhà, khi bị khám, đã nhanh chân tìm đường cao bay xa chạy.
Thì bấy lâu, các nhà chuyên trách vẫn để ý dò xét, nhưng con người quỷ quyệt kia đã khéo lẩn mặt giấu tên, có khi ăn bận giả làm kẻ tiều phu, đi vào rừng kiếm củi, và nhân chỗ sơn lâm vắng vẻ, để chiêu tập đồng chí ngay ở đó, để lấy nơi làm chỗ sào huyệt, lui tới cho tiện.
Một hôm, về buổi sáng, mặt trời đỏ chót còn đương cố sức lách đám mây đen mà ra làm việc ích cho nhân gian, ta đã thấy bác tiều phu trá hình kia săm săm cầm dao vào rừng đốn củi. Ngờ đâu vừa bổ được mấy nhát, thì trời ơi, kìa, một con cọp vươn mình ở đằng xa chồm lại. Sau khi một hồi vật lộn, Đỗ Quyên cố giở hết sức bình sinh ra mà chống cự, nhưng ông chúa sơn lâm không lẽ chịu thoái trước cái mồi ngon. Hổ giơ móng sắc quào mặt Quyên. Quyên cũng giơ dao quắm ra đỡ miếng, rồi kết cục, Quyên bị thương đau quá, phải giật ra mà chạy. Nhưng chạy đầu cho thoát hàm con thú dữ này?
- Âu là cây kia, hẳn chính chỗ cho ta ẩn núp. Đỗ Quyên nghĩ.
Thì đây, hết sức gân, Đỗ Quyên đã nhẩy vót lên cây, nhưng trống ngực vẫn đánh thình thình, mà ngồi không vững, vả lại trong óc lại tưởng tượng những khi làm điều trái pháp luật, cho nên hối, mà nghĩ vẩn vơ, hoặc có lẽ là lưới trời giăng ra đây bắt mình chăng?
Cái tư tưởng luẩn quẩn đó nó làm nao nao óc kẻ bất lương, làm cho Đỗ Quyên rùng mình run đây đẩy, cúi nhìn xuống thì ông Thiên tướng nhà trời vẫn đương gầm gừ chừng chừng đôi con mắt đỏ ngầu nhìn lên, Đỗ Quyên sợ quá, sẩy tay víu không vững, cành cây khuỵu xuống, đâm nhào xuống đất...
Thế là đáng kiếp con người hay làm rối cuộc trị an!
Tin riêng của phóng viên bản báo".
Đỗ Quyên nghe xong hai bài báo, vẫn giả vờ như không để ý đến, nhưng trong bụng buồn cười thầm, lại muốn cảm ơn hai ngài phóng viên nào đó viết thời sự giỏi như chính mắt đã trông thấy vậy!
Ngồi nghỉ đó một lúc, Đỗ Quyên lại vác cuốc ra vườn làm việc đến chiều. Trời vẫn nắng, đất vẫn bụi lầm, thực là mặt phong trần nắng rám mùi nâu vậy!
Đỗ Quyên xem ý bà cụ cũng phúc hậu, mà cô con hay nói bẻm nhưng tâm địa cũng giống mẹ.
Một hôm, chiều giời êm ả, gió hiu hiu như khơi động tâm hồn thơ, Đỗ Quyên tựa tay vào cái cuốc, lên giọng ngâm rằng:
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh.
Ai lên thú Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.
Vừa gặp lúc bà cụ và cô con ra vườn, cô con nói:
- Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, chữ qua là nghĩa thế nào? Xứ Lạng chứ thú Lạng là nghĩa thế nào?
- Thưa cô thấy thầy và bạn ngày trước đọc thế, thì nay tôi cũng cứ thế mà đọc, chứ tôi có biết thế nào là đúng với sai!
Bà cụ hỏi:
- Chả! Ra trước anh Xa có đi học à?
- Vâng, có được ít nhiều.
- Ừ, này, thằng bé em đã lên chín, bắt đầu học quốc ngữ kể cũng đã là muộn, vậy mà chưa vỡ lòng. Vậy tôi nhờ anh cứ đến tối thì bảo cho nó dăm ba chữ.
Từ đó Đỗ Quyên nửa làm thầy tớ, nửa làm thầy đồ, cái giá trị cũng có hơn trước một mẩu. Bà cụ cho dọn lên ở một trái nhà, chứ không phải nằm ở cái buồng cạnh chuồng trâu như trước. Rồi trong xóm, một vài nhà xin cho con đến học, được bà chủ nhận lời, thì Đỗ Quyên không phải ôm cuốc đứng vườn nữa; từ nay, cái quần đã được giặt xà phòng, cái áo dài của bà chủ mới may cho mới được chùm qua lưng mỗi ngày một buổi.
Nhưng giá trị được tăng, thì tự do phải giảm, nghĩ lại tiếc cái thú vùng vẫy giữa vườn, một mình tha hồ mà nghêu ngao, thỉnh thoảng lại được vác rá theo cô đi chợ, mà cô hỏi tẩn mẩn, tớ nói mập mờ. Đến nay bà chủ có ý nể, cô con có ý thẹn, học trò có ý sợ. Địa vị hơi khác, cho nên không được tung hoành như trước nữa.
Một hôm, đang buổi học, bỗng ở ngoài đường có tiếng rao:
- Ai mắm tôm ra mua!
Thầy đồ bảo một tên học trò ra gọi vào, rồi thầy cho học trò tạm nghỉ một lúc.
Người bán mắm tôm gánh vào đến sân; thầy đồ vẫy tay gọi vào trong buồng và hỏi học trò rằng:
- Bà với cô đi đâu đã về chưa?
- Bẩm chưa.
Người bán mắm vào trong, thầy đồ đóng cửa lại. Học trò thì chơi đùa ở sân. Một đứa tò mò ghé mắt dòm qua khe vách, thì lạ quá, chẳng thấy thầy nói chuyện mua bán gì cả, chỉ thấy thầy mình và anh hàng hai người ôm nhau mà khóc.
Nó thấy cái cảnh lạ, nên nó sợ, không dám nhìn nữa; một lúc khi bà chủ về, nó đem ngay chuyện ấy ra nói hớt!
Lúc đó anh hàng mắm cũng kĩu kịt hai gánh nặng đi ra. Bà chủ có ý nhận mặt và xem người, rồi đến tối bà vào buồng Đỗ Quyên và hỏi rằng:
- Này anh Xa, người bán mắm ban chiều, là thế nào với anh?
- Thưa không!
- Vậy sao hai người lại ôm nhau mà khóc? Thế nào anh phải nói cho thực, tôi không làm hại anh đâu!
Đỗ Quyên thấy bà cụ hỏi vặn, thất sắc đi, không biết nên nói thế nào được.
- Anh phải biết tôi tự nhiên mà nuôi anh ở trong nhà, tôi còn chẳng ngại gì, vậy anh có ngại gì mà không nói thực cùng tôi.
Đỗ Quyên vừa nhìn cái nét mặt trung hậu của bà cụ, vừa nghĩ: Bây giờ mình mà bịa ra để nói dối, thì hẳn bà cụ cũng nghi kỵ mình như ví dụ bà cụ biết mình là Đỗ Quyên. Vậy mà nếu ta cứ nói thực tên, thì may bà cụ biết tên ta xưa nay, mà không nỡ làm hại, âu là cứ thực mà nói.
Nghĩ xong, Đỗ Quyên bèn kể rõ đầu đuôi, không giấu một mẩy may gì, rồi kết cục, Đỗ Quyên nói:
- Chúng tôi biết là ở đây thì lụy đến cụ, cho nên định lần lữa dăm bữa nữa, rồi cũng đi.
- Nếu có phải đích thế, thì tôi cũng ái ngại cho anh, vì tôi vẫn biết tiếng anh xưa nay. Thôi, anh không cần phải đi đâu cả, anh cứ ở đây với tôi. Nhưng chứa anh vẫn là nguy hiểm cho nhà tôi con côi mẹ góa, thì âu là tôi bảo anh cách này: Tôi giả anh cái thẻ và cấp cho anh mỗi ngày năm xu, và cho anh con dao rựa, để anh đi mà kiếm củi. Cứ sáng tinh sương, thì anh chở dậy, anh thổi nấu cho tôi, rồi cùng ăn. Ăn xong, anh đi rừng kiếm củi, rồi bán. Đến lúc chiều sẩm tối thì anh hãy về, mà anh cứ ở dưới buồng trước anh vẫn ngủ ấy. Tôi để riêng cho anh chỗ ấy. Bởi vì nhà tôi rặt những đàn bà, mà chứa anh là người lạ mặt, thì tôi cũng hơi ngại một chút.
Đỗ Quyên cảm lòng tử tế của bà cụ, rồi từ hôm ấy ban ngày không ai thấy Đỗ Quyên ở nhà ấy nữa.
Đỗ Quyên mấy buổi đầu, chui lách vào các rừng cây, kiếm củi khô đi bán, thì bao giờ cũng đủ ăn. Món tiền năm xu của bà chủ cấp cho, thường không phải dùng đến mấy khi. Nhưng rồi củi khô không phải ngày nào cũng mọc sẵn ra cho anh chàng cần đến, nên rồi sự tìm tòi cũng khó dần ra, mà có hôm không đủ ăn. Nhưng Đỗ Quyên về nhà cũng không dám xin cơm bà cụ. Nghĩ bà cụ là người ngoài mà xử với mình quá tử tế, thì cũng không dám phiền đến nữa. Thỉnh thoảng bà cụ cũng ái ngại mà hỏi thăm, nhưng Đỗ Quyên vẫn không dám nói thực.
Rồi dần dần, phải đi xa lắm mới kiếm được một bó, lắm hôm trời mưa phùn thì thực là ba đào! Đi hàng mấy thôi đường cũng chẳng thấy có ma nào họ hỏi đến. Càng trông thấy lúa ngoài đồng, đòng đòng vàng dần mà càng nóng ruột, vì rơm sẵn đó, ai mua củi làm chi?
Đỗ Quyên tính ra cứ từ buổi sáng vác dao đi, qua năm ngọn đồi thì vừa đến trưa, mới có một cái hàng bán cơm ở giữa đường; hàng cơm ấy, có một bà cụ bán; dần dần khách quen hàng, hàng quen khách, mà khách sòng phẳng, nhà hàng thực thà, nên rồi Đỗ Quyên cứ đến đấy, là bà hàng đã dọn sẵn các thứ ăn vừa khẳm với cái món tiền của người khách kiết. Ăn xong bữa cơm, thì về đến nhà vừa tối.
Một hôm, Đỗ Quyên đi đã gần hết năm ngọn đồi, mà kiếm chẳng được một cành khô nào; nghĩ mà lo quá không có lẽ lại nhịn đói hay sao, bèn cứ định đến nhà hàng mà mặc cả ăn chịu.
Nhưng chẳng may cho Đỗ Quyên, hôm đó đến cái lều ấy thì thấy người khác bán hàng, chứ không phải bà cụ; hỏi ra thì biết hôm nay bà cụ phải bệnh đau tức, không thể thổi cơm cho khách đến ăn, có nhờ bà này trông nom hộ.
Đỗ Quyên không còn hy vọng gì nữa, mà nhìn vào trõng hàng, chỉ có nước uống, với hai bát chè đỗ đen, từ hôm qua chưa bán được. Cực chẳng đã, Đỗ Quyên mới phải mua hai bát chè kia ăn trừ bữa vậy.
Đang ngồi nghỉ ở ghế dài, thì sực thấy năm sáu người tới, Đỗ Quyên không muốn ngồi nghỉ lâu ở đó, liền cầm bát chè, định vội húp quàng lên rồi đứng dậy về. Nhưng khốn nạn, vừa giơ bát chè lên miệng, thì bốp! một cái tát làm cho Đỗ Quyên choáng người, ù cả tai, hoa cả mắt, lóng cóng cái tay, bát chè rơi xuống trõng, đụng phải cái bát kia, chè đổ toé loe, và hai cái bát rủ nhau lăn ra vỡ bốp!
Vừa toan ngẩng lên nhìn thì liền bị ngay một cái tát nữa, làm cho Đỗ Quyên tối mắt lại, xuýt ngã.
- Mày không biết ông là ai à?
Đỗ Quyên chưa hiểu là ai, hay là những bọn này đến đây bắt mình chăng? Thấy câu hỏi ghê gớm thế, Đỗ Quyên mới đứng dậy, xun xoe chưa biết trả lời sao. Một người đứng trước, mặt mũi ra dáng dữ tợn, mặc cái áo cộc năm thân trắng bong dài gần đến gối, cổ cao gần đến cầm; nét mặt còn tức đỏ bừng, phăm phăm toan giơ tay ra tát nữa.
Người bán hàng liền nói:
- Chết! Sao anh hỗn thế, cậu lệ đấy mà, sao anh hỗn thế?
Cậu lệ lúc ấy mới hoạch rằng:
- Sao tao đến, mày không đứng dậy mà chào, lại dám ngồi mà ăn?
- Lậy cậu.
Người bán hàng can:
- Thôi, tôi xin cậu, nó không biết nên nó mới thế, thôi cậu tha cho nó.
Đỗ Quyên mừng là mình đoán không trúng, nhưng cũng ghê thay cho cái oai cậu lệ nhà quan, bèn xin lỗi:
- Lậy cậu tha cho con lần này.
- À, đã biết đến tao thì thôi, được. Lần sau mà thế này nữa, thì ông bỏ tù!
Thu xếp xong việc đó cũng chẳng khó gì, cái khó là thu xếp sao cho cái dạ dầy được ổn thỏa! Nhưng chưa kịp tính làm sao, thì bà hàng đã bảo:
- Còn hai cái bát vỡ, anh tính sao cho nhà hàng?
- Thưa bà...
- Tôi không thưa với bẩm gì cả. Tôi bán hàng hộ, thì tùy anh liệu cho tôi đỡ phải lôi thôi với bà cụ hàng. Chẻ anh không ăn, nhưng anh đã mua, thì đành rằng anh phải trả tiền, nhưng anh còn đánh vỡ bát, anh lại phải đền nữa.
Đỗ Quyên lậy van hết lời thế nào cũng không câu, sau hết phải cắn răng chịu vậy, vừa phải trả năm xu, vừa phải để lại con dao rựa!
Đỗ Quyên đứng dậy ra về, nghĩ đến số phận mình chẳng ra làm sao, nay bị những cái vạ khốn nạn như thế này mà lấy làm chán đời quá.
"Cái bước đường đi của mình thực cay đắng đủ trăm chiều; được một chỗ nhờ để cho qua ngày mà chờ dịp, thì chẳng nhẽ cứ nay phiền mai lụy mãi! Mình có định ở đây lâu đâu, nhưng nay nhân việc này xẩy ra, ta cũng nên sớm liệu mà đi chỗ khác".
Tối hôm đó, Đỗ Quyên về nhà, không dám nói ra để phàn nàn chút đỉnh. Bà chủ thấy Đỗ Quyên mất dao, hỏi thì anh chàng nói dối quanh; cho nên bà cụ hiểu ý, mà bảo con gái lấy cho vài bát cơm nguội.
Bà cụ nghĩ cũng thương hại Đỗ Quyên, con nhà khá mà gập bước lưu ly. Nhưng biết làm thế nào? Sức mình giúp được đến đâu thì giúp đến đấy, có quản tý nào đâu?
...Lúc vào độ hơn mười giờ tối, cả nhà sắp đi ngủ, bỗng bà cụ thấy tiếng người là gọi cổng.
Đang nghe xem ai, thì thấy ở ngoài có người nói:
- Mau mở cửa, cụ Chánh vào có việc!
Bà cụ thấy câu gọi, lấy làm chột dạ, nhưng cũng sai con gái ra mở.
Cụ Chánh vào, đi theo một lũ tuần, ai nấy cũng có gậy gộc thừng chão. Bước chân vào, cụ Chánh hỏi:
- Có phải nhà bà vẫn chứa người lạ mặt phải không?
- Không!
- Bà nói dối, tôi biết!
- À, thưa cụ, đấy là cái anh nhỏ làm vườn cho nhà tôi, nhưng nay nhà tôi không có việc nữa, thì anh ta có xin ở nhờ tôi đây để đi kiếm củi.
- Ừ, phải rồi, nay nó có nhà không?
- Bẩm có, bao giờ anh ta cũng ở đây, thế mà cụ bảo là lạ mặt, làm tôi giật cả mình. Em xuống đun ấm nước! Mời cụ ngồi chơi đã.
Bà cụ có ý nói câu này to lên, để bảo cho Đỗ Quyên biết mà liệu đường chạy trốn, và bảo con gái đun nước, tức là báo cho Đỗ Quyên biết cái tin dữ này mà liệu lấy thân. Giữ cụ Chánh uống nước, để Đỗ Quyên có thì giờ đi xa cho thoát, nhưng cụ Chánh không uống nước, nói rằng:
- Thôi, cảm ơn bà, thằng ấy nằm ở đâu? Bà đưa tôi xuống xem.
- Mời cụ hãy thong thả đã!
- Thôi, nếu tôi không bắt mau nó mà giải quan, thì chỉ trong nội nhật ngày mai quan đến đây bắt nó, thì tôi chịu trách nhiệm.
Bất đắc dĩ, bà cụ phải đưa cụ Chánh xuống nhà dưới, nhưng vừa đến sân, bà cụ nói to lên rằng:
- Con ơi, xuống bảo anh Xa rằng có cụ Chánh đến nhé.
Cụ Chánh bảo:
- Mặc nó.
Bà cụ trông suốt buồng Đỗ Quyên, thấy cửa mở toang ra, thì trong bụng mừng thầm, chắc là Đỗ Quyên đã biết tin lão Chánh này vào đây mà trốn rồi. Vả lại ngoài sân lô nhố đông người đứng canh, thì có lẽ Đỗ Quyên đã thoát rồi, vì nếu không thoát, hẳn chả sao qua được ngọn gậy lũ tuần đứng đấy. Vậy thì Đỗ Quyên trốn thoát, thế là mừng và may lắm.
Ngờ đâu, khi đến buồng, soi đèn vào, thì vẫn còn thấy anh chàng nằm kia, ngáy khè khè!... Nguy hiểm chưa?
Bà cụ giật mình, mặt xám lại. Cụ Chánh thét:
- Khán thủ đâu, bảo tuần vào trói nó lại.
- Dạ!
Lũ tuần xúm lại, người gậy, người thừng, xông vào. Lúc mọi người mó vào Đỗ Quyên, mới thấy Đỗ Quyên cựa và dở mình. Họ liền ôm thốc dậy; Đỗ Quyên mở chòang mắt ra, thấy người đông lố nhố, tuy còn ngái ngủ, nhưng cũng hiểu là việc chẳng lành, bèn hỏi:
- Ơ hay, làm gì tôi vậy?
- Cụ Chánh bảo tôi trói bắt anh.
Đỗ Quyên nhìn chung quanh, thấy một người già đứng trước mặt, đoán là cụ Chánh, liền đứng phắt dậy, vái chào mà rằng:
- Lạy cụ. Cụ bắt con?
- Phải! Anh là Đỗ Quyên có phải không?
- Bẩm cụ, không phải, con xin cụ xem thẻ con đây.
Cụ Chánh xem thẻ nói:
- Anh nói láo, anh là Đỗ Quyên chứ có phải Trần Văn Xa đâu, thằng Xa đi rừng bị cọp vồ rồi còn gì!
Bà chủ nói:
- Thế thì cụ lầm rồi, Đỗ Quyên vừa mới bị cọp vồ chứ, ở cánh rừng Voi Phục ấy chứ gì? Báo đăng thế mà!
- Họ đăng láo, vì họ có biết đích chuyện đâu.
- Thưa cụ, tôi thấy hai cái báo cùng đăng thế kia mà, không có lẽ hai báo cùng nhầm cả.
- Thì tờ nọ mạ lại tin của tờ kia, chứ gì!
Đỗ Quyên nói:
- Thưa cụ, chính con là Trần Văn Xa, xưa nay vẫn làm ăn lương thiện, mà con có tội gì, xin cụ cho biết!
- Anh không có tội phải không? Anh tự hỏi anh thì biết, tôi chỉ biết tôi phải bắt anh Đỗ Quyên mà thôi.
- Thế cụ cho con bẩm điều này.
- Không bẩm báo gì cả. Chúng bay đâu; vào cả đây, thằng này nguy hiểm lắm, bay cứ trói chặt nó vào cho tao!
Dứt lời, bọn tuần xông vào, người ôm chân, người ghì tay, người trói, Đỗ Quyên mất cựa...
Cạnh bờ sông, có một miếng đất, trước để làm Ấu trĩ viên, nhưng rồi thành ra cái vườn chuối. Cái đó tác giả đã nói qua ở hồi trên rồi. Một độ ai qua lại cũng phải thở dài than vắn vì nỗi lòng người nhiệt thành được chốc lát rồi lạnh như nước đá; nhưng đã hơn một tháng nay, khách qua đường, dù đãng trí đến đâu, cũng phải thấy một tòa nhà hai tầng cao ngất, sừng sững đứng như muốn thi cao với dinh Quan Đại vậy.
Cái nhà ấy làm nửa kiểu tàu, nửa kiểu tây, có lẽ là theo cách kiến trúc dung hòa Âu Á, cho hợp thời. Chung quanh nhà, thì bồn hoa, cái tròn cái bầu dục, một vài cây sấu mới giồng vẫn còn trơ cành trụi lá. Một đường sây gạch, từ cửa chính tòa nhà đưa ra đến tận cổng, cái cổng cánh sắt, thỉnh thoảng có ai ra vào, thì rít lên kin kít để báo hiệu cho người trong.
Đó là nhà thầy ký Gồ vậy.
Từ khi Quan Đại tưởng Quan Huyện nhận chằng món tiền của mình để làm giỗ bố, thì ngài ít tin và nể người An Nam hơn trước. Từ khi Quan Huyện biết ký Gồ chia tiền gian, thì ngài không dùng ký Gồ làm môi giới cho công việc quan nữa. Từ khi ký Gồ bị Quan Huyện không tin cậy mọi việc, thì lại bị ngay Quan Đại gọi đến mắng dọa một trận lên thân, cho nên có ý bẽ mặt với bè bạn.
Sau ngày cưới được mấy hôm, ký Gồ làm giấy xin từ việc.
Được thôi việc, lại được nhân dịp nhà nước bán đấu giá cái vườn Ấu trĩ viên, cho nên ký Gồ mua được, rồi vay thêm ít tiền nữa, xây ngay cái nhà này, mà ai đi qua cũng phải khen:
- Đẹp quá!
Nhưng chẳng nhẽ làm xong nhà thì có thể nhìn mà no được chăng? Đã đành rằng cho đời biết rằng: chẳng đi làm cũng chẳng chết nào, nhưng có lẽ từ nay đóng vai "ông đỡ Tuyết"? Ký Gồ khôn ngoan như vậy, hẳn chả khi nào để cái tiếng ấy cho đời mỉa mai?
Một hôm Anh Tuyết có giấy gọi về làm việc trên tỉnh, thì ký Gồ bảo vợ rằng:
- Rồi mợ cũng xin từ chức nốt để về mà giúp tôi trong việc buôn bán.
- Nước dãi mong gột sao được nên hồ, hở cậu?
- Khó gì không có vốn. Cái nhà này, đem mà cầm nó đi, vốn đấy chứ đâu?
- Mà buôn gì?
- Buôn cái này nó khí nguy hiểm, nhưng lãi trông thấy. Phi thương bất phú!
- Buôn gì được ở cái xó nhà quê này.
- Mợ khờ lắm, đến cuối tháng này, rồi tôi mua một chiếc ô tô nữa.
- Mua làm gì?
- Để buôn!
- Buôn thuốc phiện lậu à?
- Chính phải. Ngày trước tôi làm việc trên Lào Cai, tôi thấy nhiều người nổi cơ đồ về nghề này lắm. Tính ra giá thuốc ở trên ấy, bốn ki-lô là 70$, đem về đến Hà Nội bán được 180$, mà về đến Hải Phòng thì được 220$.
- Thế ngộ Đoan người ta bắt cho thì làm thế nào?
- Bắt sao được? Mình phải có tay trong chứ.
- Làm thế nào được? Hão quá.
- Yên tôi nói cho mà nghe. Nếu có buôn thì chở bằng thuyền, mỗi chuyến đi độ hai thuyền, mỗi thuyền chở hai mươi thùng, mỗi thùng đựng ước hai mươi ki-lô thuốc, như thế vốn mất độ 1.400$ mà bán được đến ngót 4.000$. Nếu mình có tay trong, thì đến hạt nào, mình phải có một người đi kèm thuyền mình. Nếu đi trót lọt thì thôi, nhược bằng có người biết, thì người ấy cũng chẳng có lỗi, vì họ sẽ bảo rằng họ bắt đấy.
- Nếu lần nào cũng thế, thì họ ngờ cho.
- Không, mình đi lấy ba bốn chuyến, rồi cho họ bắt một chuyến.
- Họ bắt mất thì phải tù rồi còn gì?
- Ai lại đi đấy cho họ bắt. Vả người ta có hay bắt người buôn đâu? Nếu bắt hết cả người buôn, thì lấy ai buôn cho bận sau họ bắt. Vả làm tù làm tội người ta thì thêm tiếng ác, cho nên họ vẫn thường tha. Người ta cốt được hoa hồng thôi, cho nên họ chỉ lấy thuốc.
- Đi thế bao nhiêu ngày mới được một chuyến?
- Độ mùa nước, thì từ một tuần lễ đến mười hôm là tới được Hà Nội, và về đến đây mất độ một hôm nữa.
- Mùa cạn nước thì buôn thế nào được?
- Ta thuê người bơi xuôi về.
- Bơi thế thì lâu?
- Chóng hơn thuyền, độ sáu ngày thôi; mỗi chuyến thuê độ năm người, mỗi người dong hai thùng; mỗi thùng độ mười hai ki-lô thì vừa. Đi lối này tuy mang được ít, nhưng không phải thông với ai cả, vì ai ngờ đâu, họ cho là bọn đi tắm sông.
- Thuê mỗi người bơi như thế mất độ bao nhiêu một chuyến?
- Từ Lào Cai tới Hà Nội mất 40$ một người. Rồi tôi lấy cả ô tô đi buôn thuốc mặt Hà Giang nữa. Đi đường này mà thoát chỗ Phủ Đoan, thì đã chắc lắm; mà thuốc viện vùng này, rẻ hơn vùng Lào Cai. Rồi mợ cũng phải buôn.
- Tôi buôn?
- Đàn bà ăn mặc sang trọng, thì người ta không hay ngờ. Tuy ở Lào Cai và Yên Bái, lính Đoan lên tầu khám cẩn thận, nhưng người ta cũng tùy mặt, chứ không bạ ai cũng khám đâu. Mợ có đi thì mang va-li đi mà đựng.
- Thê ngộ họ khám thì có nguy không?
- Để nó xa ra, mà đừng nhận nó nữa. Nhất là ở trên xe lửa, mợ nên chọn chỗ gần đàn ông, xem mặt anh nào phong tình, thì nên gạ chuyện, mà nhờ người ta giữ hộ, mình thì giả cách nằm, chùm cái vạt áo lên mặt mà nhìn cho dễ. Giả thử có lính Đoan bắt khám, thì lúc đó giở mặt với anh kia, không nhận va-li của mình nữa. Khi đến ga, giả vờ kêu nặng, hẳn anh kia phải làm bằng lòng mợ, mà xin đam xách hộ. Quá cửa ga, thoát thì là xong chuyện chứ gì. Ở trên ấy, các cô buôn thuốc phiện lậu, đều dùng cái kế này, lắm công tử bị cái vạ tự nhiên buồn cười lắm. Cũng lắm người sai những đứa bé độ mười bốn mười lăm tuổi để mang thuốc phiện xuôi, thì ra lính Đoan cũng không ngờ đến.
- Nhưng mà buôn ở đâu?
- Buôn ở bên Tàu!
- Đi sang tận Tàu à?
- Tàu đây là địa hạt tỉnh Vân Nam, gọi là Hokéou tức là Hà Khẩu, ta gọi là Trấn Phòng. Ở vùng xuôi, cứ thấy nói sang Tàu, đã cho là ghê gớm lắm, chứ ở Lào Cai, đi sang Tàu là một sự thường; bên phố Lào Cai với phố Trấn Phòng, ở hai bên bờ sông Nam ti, có cái cầu xe lửa độ hơn trăm thước bắc qua.
- Nhưng phải giấy thông hành chứ?
- Không phải giấy má chi cả. Đi lại tự do suốt ngày, đến mười giờ đêm thì đóng cửa cầu ai ở bên nấy. Bên Trấn Phòng cũng có một xóm người An Nam. Mà Trấn Phòng như một phố Khách ở bên ta mà thôi, thường các nhà buôn vẫn giao dịch bằng bạc ta cả. Hai bên đầu cầu, có hai sở Đoan, thường ai qua lại khả nghi thì bị khám, nhưng họ cũng tùy, chứ ai quen mặt thì thôi. Bên Tàu thì có Đoan Ăng-lê, bên ta thì có Đoan Tây.
- Sao lại có Đoan Ăng-lê?
- Bởi vì nước Tàu đâu có sợ nước Ăng-lê thì phải, nay phải trả bằng thứ thuế này. Nhưng gọi là Đoan Ăng-lê, mà lính Đoan vẫn là người Tàu, cho nên khi vắng, thì họ cho đi bừa cả, mà chả khám.
- Mang thuốc phiện lối ấy à?
- Không! Lào Cai và Trấn Phòng ở vào giữa ngã ba sông, sông Nam Ti với sông Hồng Hà. Khi buôn nhiều thì mua ở bên Tàu, rồi tải ngay ra bến sông Hồng Hà để đóng thuyền, tôi đã biết nhiều nơi lắm. Buôn ít thì mua ngay ở Lào Cai, tội gì phải sang bên kia cho xa xôi.
- Nhưng tôi nghe như chính những người bán họ hay báo lắm phải không?
- Cũng có lẽ, vì đi báo mà bắt được, họ lại còn được hoa hồng mười phần trăm nữa. Nhưng mình khôn, thì dù báo cũng chẳng can gì.
Ký Gồ cùng Ánh Tuyết bàn bạc công việc làm ăn như thế, thực là chí lý. Buôn thuốc phiện lậu, thì mấy chốc mà nên nhà tư bản, có hàng mươi vạn trong tay?
Hai vợ chồng tính đến sự giàu sang, rồi nào đồn điền, trại ấp, tha hồ mà sung sướng vung vinh.
Thưa các ngài, ký Gồ đã là tay quyệt, lại được vợ cũng chẳng vừa, thì tưởng cái cơ nghiệp này chẳng mấy chốc mà được như lời ước vậy. Khi đó, có lẽ có kẻ nịnh mà tặng cho là "Vua thuốc lậu" cũng nên.
Nghĩ sự đời cũng lạ. Ký Gồ đối với người vợ trước thì thực là quá ư tàn nhẫn; mà vợ trước rất hiền lành nhịn nhục. Vậy mà đối với Ánh Tuyết, ký Gồ đổi hẳn cách ăn ở đi. Thôi thực là chiều chuộng hết sức, bảo sao nghe vậy, suốt mấy tháng giời, trong nhà bao giờ cũng vui hòa.
Hẳn các ngài còn tức một điều, là không biết ký Gồ cùng Ánh Tuyết có biết bộ mặt thực của nhau không?
Thưa rằng có; mà cũng chẳng lâu đâu. Hôm cưới, Cúc Hồn nói chuyện cho Ánh Tuyết biết sự giả dối của họ nhà giai, thì Ánh Tuyết đã định lôi thôi ngay kia đấy, song vì có Cúc Hồn ở giữa can mãi, nên mới nghe.
- Thôi, anh cũng gớm, mà chị cũng chẳng vừa, thực là chó tha đi, mèo tha lại, chứ còn nõn nường gì mà còn hợm!
Nghe bạn nói thế, thì Ánh Tuyết bằng lòng, nhưng rồi còn nỗi của mình nữa, có nên nói thực cho chồng biết chăng?
Nghĩ chán chê, cô cho rằng ở đời này chẳng có cái gì giấu được lâu cả, thà rằng biết lỗi mà xin trước, còn hơn là để người ta dò thấy cái lỗi mình làm. Vả lại, nếu không nhận có cái giấy cam đoan của ký Gồ, hẹn trong ba hôm không được lôi thôi gì, thì không nói cũng hoài mất dịp may. Rồi đến khi quá cái ba hôm ấy, mà ký Gồ biết, thì hẳn nguy hiểm cho đường nhân duyên của mình, vì tay này cũng đáng sợ lắm.
Ánh Tuyết nghĩ thế, rồi tìm lời nói thực cả chuyện cũ.
- Mợ dại dột với ai, cứ nói cho thực?
- Cậu hỏi chuyện cũ của tôi còn có ích gì. Tôi lấy cậu, thì cái đời tôi là ở tay cậu từ ngày cưới; chứ cái đời riêng của tôi về trước, cậu chả có quyền biết đến.
- Đành vậy, tôi nào hẹp bụng như ai? Cái lỗi trước của mợ, cũng như cái tội trước của tôi, chúng ta đều nên dung thứ cho nhau mới là con người đại lượng. Nhưng đã dung thứ tức là không cho nó là lỗi nữa, thì dù có nói thực, đã can chi? Đứa bé con bây giờ đâu?
- Cậu đừng hỏi đến nó nữa.
- Tôi muốn mang về nuôi, kẻo nó khổ sở.
- Nó không khổ đâu, nó ở với cha nó, mà cha nó là con nhà giầu, và có địa vị trong xã hội.
- Vậy thì cũng may, mợ cứ nói cho tôi biết.
Lúc đó Ánh Tuyết ngùi ngùi nét mặt, lấy mù-xoa trong túi ra chấm mắt, mà rằng:
- Chả nhẽ nay vợ chồng đã gọi là một, mà lại còn giấu nhau; thì âu là tôi cũng nói thật cả với cậu, như thể sám hối vậy.
Nguyên ngày xưa tôi tập sự ở nhà thương Hà Nội, thường gập một người học trò trường Thuốc. Người ấy thấy tôi có sắc, bèn đem lời hoa nguyệt trêu ghẹo tôi. Tôi nhất định cự tuyệt, mà nhiều phen trước mặt công chúng, tôi làm cho cậu công tử đa tình ấy phải nhục nhã. Nhưng rồi không biết giời hại tôi hay sao, năm sau tôi bổ đi làm việc ở một nơi ở về vùng thượng du, thì người ấy cũng vừa đỗ ra, và cũng bổ ở đấy.
Đa cảm là cái bệnh chung của bạn gái. Hồi bấy giờ tôi chỉ đi có một mình, mà lại hay buồn quá. Cái lúc trẻ tuổi dại dột, nói ra càng thêm đau lòng. Đoái trông bốn bên không ai là bạn, chỉ có rừng xanh núi đỏ, cây rậm cỏ cao, những buổi chiều, nghĩ đến cái cảnh thân gái đường xa, mà chỉ khóc. Nhất là những khi đêm khuya, chim rừng điểm mõ, tiếng cọp gầm sương, thì càng buồn càng sợ. Ông y sĩ thấy tôi cả ngày thờ thẫn, thì có ý gạ chuyện; tôi tưởng cũng nên giao thiệp cho khuây buồn, nào ngờ đâu, ở đời ai học tới chữ ngờ, lửa gần rơm, ông ta dần dần dắt tôi vào cạm lúc nào tôi không biết.
Vì vậy tôi phải xin nghỉ một năm. Đáng lẽ tôi lấy ông ta thì phải, nhưng tôi không thể nào kết hôn với một người mà tôi không có ái tình được! Bởi vậy tôi vẫn định đi tu cho trót đời! Sự đời đã tắt lửa lòng, vui gì thế sự mà mong nhân tình!
- Thế bây giờ ông Y sĩ ấy đâu?
- Từ ngày ông ấy thấy tôi tỏ ý cự tuyệt việc hôn nhân, thì tôi cũng không gập, vì ông ấy xấu hổ, mà không thư từ đi lại nữa. Nhưng tôi nghe tin một người chị em bạn nói rằng vì việc ấy, ông Y sĩ thành bệnh ho ra máu! Những khi bệnh nổi cơn, thì ở trong màn cứ mê mẩn, mà gọi đến tên tôi, lúc trách móc, lúc lậy van, lúc lại chửi giời rủa đất. Hiện nay ông ta xin nghỉ dưỡng bệnh ở quê nhà, không biết đã bình phục được như cũ chưa, vì lâu nay người chị em tôi không nói chuyện.
- Thế thì mợ cũng khí ác, mà phụ người ta quá!
Nhắc đến việc cũ, Ánh Tuyết cứ bồi hồi trong dạ, như đống gio đã nguội lửa, mà nay lại thổi bốc lên. Ánh Tuyết thổn thức, gục mặt xuống bàn mà khóc, ký Gồ vội chạy đến gần mà yên ủi dỗ dành.
Nhiều lúc ký Gồ lại hỏi Ánh Tuyết xem ông nhạc thực ở đâu, thì Ánh Tuyết gạt đi mà rằng:
- Bố chồng thực của tôi, cậu không cho biết mặt, thì cậu hỏi bố vợ cậu để làm gì? Thầy tôi nay đã về hưu trí, yên cảnh già ở nhà quê. Tôi không muốn để cậu tới, sợ lôi thôi đến cậu, vì thầy tôi trước có làm quốc sự nữa.
Hai vợ chồng ấy hòa thuận với nhau, nên bao giờ làm ăn gì cũng dễ, mà việc gì cũng coi như không vậy.
Rồi ký Gồ đi buôn thuốc phiện lậu. Một tháng hai lần đi vắng, mỗi lần trong ngoài mươi hôm. Khi ô-tô, khi tàu thủy, khi thuyền, khi bè, trong nhà bao giờ cũng có phu đến tính tiền khuân vác.
Người ngoài không ai ngờ, vì thỉnh thoảng Ánh Tuyết thường bán buôn cho các hiệu ngoài phố hàng hòm xà phòng, hàng kiện vải trắng.
Tay trắng mà làm nên hàng vài mươi vạn, ký Gồ thường nghĩ đến hậu vận mình mà sướng, thường khi mắt nhìn két bạc, xoa tay tủm tỉm cười mà nói với vợ rằng:
- Số giầu mang đến dửng dưng thật!
Một hôm Ánh Tuyết ngồi ghế xích đu, đương đọc dở cuốn tiểu thuyết thì nhận được bức thư của bạn ở Hà Nội; càng đọc càng thấy biến sắc mặt, rồi lẩm bẩm rằng: Để cái bướu ấy, thật là khổ cho mình; phải trừ nó đi mới được.
Ánh Tuyết cắn môi, lừ đừ hai con mắt để nghĩ; bỗng đứng phắt dậy, thoăn thoắt đi vào bàn viết thư rằng:
"Chị Cúc Hồn,
Tôi đã nhận được thư của chị nói việc ấy, tôi mới biết rằng chị đã hết lòng giúp tôi, nhưng việc không thành, vậy xin cảm ơn chị.
Độ này tôi cũng rỗi, có thể đi được, nhưng mấy hôm nay cậu nó đi vắng, nên tôi phải ở lại coi nhà. Vậy xin chị bỏ ít thì giờ quý báu đến chơi cùng tôi, để tôi được hỏi cho thủng câu chuyện, và bạn cùng chị xem nên xử trí thế nào cho êm thấm.
Vậy bắt được thư này, thể nào chị cũng đi hộ tôi lần nữa, đến nhà nó mà bảo thì hơn. Nếu không đi được, thì chị hãy cho gọi nó đến mà bảo cũng được.
Chị nên dỗ dành nó, không được hãy dùng đến sẵng. Nếu không khôn khéo thì có lẽ hỏng việc mất.
Trăm sự nhờ chị.
Ánh Tuyết"
Xem đến bức thư này, hẳn độc giả các ngài đã thừa đoán ra rằng Ánh Tuyết nhờ Cúc Hồn thu xếp hộ một chuyện gì can hệ vậy.
Chuyện can hệ lắm. Nguyên là cái ông Y sĩ mà Ánh Tuyết đã nói chuyện với chồng ấy, nay thấy tình nhân bỏ mình mà kết duyên với người khác, cho nên tức, tức lắm. Nhiều phen ông ấy lại nhà Cúc Hồn mà dày vò mà bắt đền.
Nhưng Ánh Tuyết đã hết lời dành dỗ, mà ông Y sĩ ấy khăng khăng một mực không nghe.
Hôm sau, Ánh Tuyết có ý mong bạn suốt ngày, đến mãi chiều mới thấy Cúc Hồn đến nơi. Tay bắt mặt mừng, cho nên Cúc Hồn chưa ngồi vào ghế, Ánh Tuyết đã vội hỏi dồn ngay rằng:
- Thế nào, sao tôi nhờ chị thu xếp việc ấy cho xong, mà chị còn để lôi thôi mãi thế?
- Giá cứ một mình nó với tôi, thì tôi chắc mười mươi là êm thấm. Nhưng tôi đoán là có đứa nào dạy khôn dạy khéo nó đây! Sau hôm đưa cho nó trăm bạc, thì nó lại đến, mang trả, mà nói rằng không bằng lòng lấy tiền. Tôi hỏi:
- Vậy ý anh muốn thế nào, anh cho tôi biết.
- Bẩm cô, cô là bạn thân với cô con, thì chắc đầu đuôi việc này cô con cũng nói thực cả với cô, nên cô mới gọi con đến đây mà bảo cho con hay câu chuyện ấy. Con thì quả là túng thực, nhưng con xin cô nói với cô con rằng con xin trả cái món tiền này. Nhiều bận con muốn đến chỗ cô con làm việc, để con bẩm với cô con, nhưng vì con chả được sang trọng như người khác con sợ nhỡ rồi tai tiếng đến cô con, nên con lại thôi. Con muốn viết thư, nhưng con vẫn còn hồ đồ chỗ ở của cô con, cho nên con không viết. Vậy con chẳng biết tính thế nào cả.
Tôi bảo:
- Anh cứ nói mập mờ, hay là ai xui anh?
- Bẩm cô, con còn có ai quen nữa mà xui! Nhưng thật quả là con giận cô con quá, nên bất đắc dĩ con mới phải nhờ cô, con chắc cô con mà phải nghĩ ngợi đến chuyện cũ, thì cực lắm, nhưng từ ngày cô con sắp cưới, con cũng đã định việc này rồi.
Ánh Tuyết phát cáu lên mà nói:
- Sao nó định muốn gì nó không nói rõ thế?
- Tôi chắc có đứa nào xui xiểm nó, cho nên loanh quanh nói có mấy câu ấy mà thôi, rồi rút cục nó bảo:
- Cô con thương con phận nào, con nhờ phận nấy.
- Hay là anh muốn hơn thì anh cứ nói.
- Bẩm cô, con vẫn định hôm cô con cưới, thì con đến!
Cúc Hồn lúc ấy cười và nói thêm:
- Đấy, chị xem, thằng ấy thì làm gì biết cái kế quái ác ấy?
- Thế ai bảo cho nó biết rằng tôi cưới? Mình đã giấu kín thế, mà sao cũng lộ?
- Thì con mẹ ranh con Mộng Vân chứ còn đứa nào? Nó lại nói:
- Con định đến, nhưng con sợ cô con, mà con lại thôi, không đến nữa, vả con cũng không biết cô con cưới ở đâu về đâu.
- Rồi cô ấy thế nào cũng thu xếp cho anh được bằng lòng, nhưng cần một điều là anh nói cho thực cái điều anh muốn. Nó nói:
- Thưa cô, cô hãy cứ bảo cô con định thu xếp thế nào thì con cũng xin bằng lòng.
Tôi mắng nó:
- Anh hay lôi thôi lắm. Đây, anh Cam! Tôi nói cho anh nghe. Anh nghĩ lại cái thân anh xem. Anh đi ở kéo xe nhà cô ấy, mà thân làm đầy tớ, phải biết là hèn mọn, mà được cô ấy thương yêu đến thế, tôi tưởng anh phải nên tự biết là đủ rồi mới phải chứ! Anh ngẫm quanh mình anh xem, giá ở với nhà người khác thì còn phải đánh phải chửi khổ sở, chứ đã được may mắn thế à? Đáng lẽ thì anh không nên kêu ca gì mới phải. Mà khi cô ấy có mang với anh, thôi thì ông bà cũng lẳng lặng, cho anh một ít tiền làm vốn để anh về. Giá phải nhà khác, họ ác nghiệt, thì họ cho anh là đi ở rồi quyến rũ con chủ nhà, anh có chết không?
- Bẩm chính cô con quyến rũ con chứ con nào dám quyến rũ cô con, chả tin cô hỏi cô con thì rõ, cô con cho phép con được hỗn đấy ạ!
Ánh Tuyết choàng dậy hai môi xám ngoẹt nghiến răng mà hỏi:
- Nó bảo thế?
- Mày cũng động đĩ lắm kia. Sao khỉ thế? Tao đã dậy mày bao nhiêu cách mà mày không nghe!
- Khỉ! Im đi! Nó nói thế nào?
- Tao hỏi thực nó, nó nói rõ cả đầu đuôi. Có phải một hôm nó rức đầu, mày đến gần, rồi xoa dầu cho nó phải không? Nó bảo lại một lần nữa, nó ngồi chẻ củi ở ngoài sân sáng giăng, mày bắc ghế vải nằm cạnh đấy, rồi mày gọi nó đến gần, tán chuyện phải không? Nó nói rằng:
- Bẩm cô, thì con có hiểu đâu ý cô con như thế, mà mọi khi con sợ cô con lắm, vì hễ lúc ông bà con ở nhà thì cô con hay mắng con lắm; khi ông bà con đi đánh tổ tôm vắng, hoặc ở nhà có đám bạc ở trên gác, thì cô con hay rủ vú già với con đánh tam cúc ở giường con, có khi đến hơn một giờ đêm; rồi cô con díp mắt lại, nằm ềnh ngay ra đấy mà ngủ. Rồi sau, con thấy cô con mua cho con cái áo buy-lo-ve, và cái lược, lại thêu cho con cái mù-xoa lụa, có tên cô con và cho con cái ảnh nữa. Nhưng dặn rằng: đừng để ông bà biết mà phải đòn cả đôi nhé! Lúc ấy con mới hiểu ý.
Từ ngày ấy cô con cứ bắt con kéo lên nhà bạn luôn, nhưng rồi đến vườn hoa hàng Đậu, thì cô con trỏ đi thẳng ra bờ sông, rồi qua con đường Cổ Ngư cho vắng để nói chuyện. Thì cô tính nói chuyện như thế còn sung sướng gì, con thì kéo, cô con thì ngồi đằng sau, giá có câu nào thích cũng chẳng được nhìn mặt!
Nhiều lúc cô con lộ quá, con sợ ông bà con biết, nhất là những khi khuya mà cô con còn giả vờ đau bụng! Ấy bẩm cô, con chả ngờ, mà cô con chắc cũng chả tính trước được, rằng cô con có mang với con!
Từ ngày câu chuyện vỡ lở ra, cô con trước còn nói dối để giấu quanh, sau mới chịu thú thật! Con vẫn xui cô con nên nói rõ với ông bà con, để liệu thuốc thang mà bịt mắt thiên hạ, nhưng rồi để quá đi, cho nên không sao được nữa.
Ông bà con cho con về, từ đấy con cũng không dám lai vãng đến nữa. Nay nghe cô con đã đi làm được tiền, và đã sắp lấy chồng, nên con phải có lời nói lại.
Hôm qua tôi bảo nó rằng tôi đến chơi chị, nó nằng nặc đòi đi, nhưng tôi phải trốn nó.
- Hiện nay nó vẫn ở Hà Nội?
- Chẳng ngày nào nó không đến kè nhè với tôi ít ra là một giờ.
- Khó tính lắm nhỉ!
- Chị định thế nào?
- Có cách gì trừ nó đi hay không?
- Trừ nó đi đâu?
Ánh Tuyết cắn môi, ra ý nghĩ ngợi, một chốc gật gù nói:
- Được, mai tôi lên Hà Nội với chị, chị cứ mặc tôi, tôi chắc từ nay chị không phải bận lòng nữa. À, thằng bé con ra sao?
- Gớm, tao cũng nợ nần gì mày kiếp trước đây, cho nên bây giờ tao khổ với mày thế này. Mày đem nó đi đâu thì đem. Thằng Béo nhà tao như thằng khỉ ấy, nó cứ mắng tao xa xả cả ngày, nó bảo hơi đâu mà rước lấy nó về nhà cho bận.
- Chết! Thế nó có biết là con tao không?
- Không, nó vẫn tưởng là tao mua lại của mụ ăn mày.
- Sao mày không giả quách thằng Cam cho nó nuôi con nó có được không?
- À, thằng Cam có biết là con nó đấy không?
- Làm gì mà biết? Nó bế thằng bé con, vẫn nựng rằng: Anh bé ra em bế nào! Và nó khen giống tao như đúc!
- Khó nghĩ quá! Nó có hỏi chị rằng đứa con bây giờ đâu không?
- Tôi vẫn bảo nó rằng chị đã cho một người ở Yên Phụ rồi. Nó hỏi nhà, thì tôi bảo không biết. Nay hình như nó muốn dò xem đứa bé ở nhà nào, để nó mang về.
- Mang về làm gì? Nó mà biết được thằng bé ở đâu, thì nó lại làm khổ tôi; chẳng hay nó có ra ý hỏi con nó lắm không?
- Nó hay hỏi lắm!
- À, từ hôm thằng bé con nó nóng, tới nay vẫn chơi ngoan đấy chứ?
- Nó lèo nhèo quá, ai lại đến bây giờ rồi mà còn bú.
- Cho nó tập ăn cơm cho cứng cát.
- Nó không chịu ăn; mà con vú nó lười quá. Chị tính mình chịu mất tiền nuôi vú, thì con vú phải trông nom coi xóc đứa bé thay mình mới phải chứ, vậy mà nó chỉ bỏ liều. Mình thì mấy khi trông được luôn luôn, nay mẹ này lôi đi đánh chắn, mai mẹ kia dắt đi tài bàn, có ở nhà mấy khi đâu! Cho nên con vú nó bỏ liều quá. Khốn nạn, lắm lúc thấy nó đặt thằng bé bò lê bò càng ở hè phố, nắng chang chang, mặt mũi nhem nhuốc, ăn đất ăn cát mà thương! Một hôm thế nào mà nó để ngay thằng bé lê một mình ra giữa phố, một xuýt nữa thì xe đè bẹp! Hôm nọ nó để thằng bé nghịch quay bánh xe đạp của cậu nó, thằng bé thò ngay tay vào, bị bánh nghiến thành ra máu mê lênh láng, khóc mất mấy giờ đồng hồ. Buộc mất khối tiền thuốc, nhưng xem ra cái ngón tay trỏ khó chữa nhất, có lẽ bị gẫy!
Ánh Tuyết bưng mặt khóc mà rằng:
- Thực là cái tội ác ở em, chị ơi, nếu chị không trông nom cẩn thận cho em thì em cũng đến chết mất. Nó cũng là một giọt máu rơi của người bạn thân chị, thì chị cũng nên vì em mà cứu lấy nó là đứa trẻ vô tội của Tạo hóa.
- Thì ai chả biết thế!
- Hay chị không thể trông nom, thì chị cho nó vào nhà trẻ mồ côi hộ em vậy. Khốn nạn nó chẳng biết bố mẹ là ai!
- À này, thảm quá chị ạ, lắm lúc trông thấy nó mà động tâm. Một hôm nó đương thơ thẩn chơi một mình ở gần cửa, chợt có một người đàn bà đi thoáng qua, thế là nó chạy theo, vừa chạy vừa khóc, vừa khóc vừa gọi: Mợ ơi! Thì ra hình như nó khát khao cha mẹ hay sao ấy! Con vú chạy theo bế nó vào, nó cứ lăn xả ra theo người lạ mặt ấy; hỏi ra thì biết thỉnh thoảng người ấy vẫn cho nó quà!
Ánh Tuyết thừ người ra, rồi lại nức nở khóc. Cúc Hồn thấy bạn buồn, bèn nói lảng chuyện khác:
- Thôi, chị cứ yên tâm; à không nói chuyện ấy nữa, bây giờ ra phết bà chủ lắm; xem chừng thằng cha cũng khá thì phải nhỉ!
Ánh Tuyết gật đầu. Cúc Hồn lại nói:
- Còn thằng Béo nhà tôi, tôi ghét quá. Chồng với con! Hình như nhà nó có mả gàn hay sao, mà cả nhà lọ không biết để đâu cho hết! Làm việc gì cũng không dám tự quyết, còn đắn đo bàn tán mãi mới xong. Hôm nọ bảo nó sắm đôi hoa kim cương, nó cứ lưỡng lự mãi, đến nỗi tôi phải quật đôi lọ cổ vỡ tan ra vào quát: thì đi vay vậy chứ gì, nó mới nghe ra! Ngủ đâu có đời nhà ngu thế!
- Thằng này thì lúc mới thế này, chứ biết có bền không?
- À, thằng cha này, thuở bé nó cứ chấp chới chim tao đấy!
- Điêu! Nó hiền lành lắm kia!
- Chửi cha đứa nào nói điêu! Thì ngày ấy nó học trường Bưởi, Tao học Hàng Cót, ngày nào không chạm trán nhau bốn lượt. Ngày ấy nó hay lê đôi giày trắng tứ thời, với mặc cái áo the rách chỗ này mà lại! Cái mũi ấy thì còn chộn đâu cho lẫn. Thế mày còn nhớ một hôm nó ném cho tao cái thư, rồi tao đưa mày xem không? Chính nó đấy!
- À, có, tao thì chưa từng gập mặt nó bao giờ.
- Bao giờ nó về, mày cứ hỏi lại mà xem, nó nói cho mà nghe, buồn cười đáo để. Tao cũng đã bị nhiều giai chim, nhưng không có đứa nào như thằng cha nhà mày, nó dai như đỉa ấy, có khi nó theo mình hàng giờ. Một hôm mình trêu, vào nhà đằng cửa trước, rồi chuồn ra đằng cửa hậu, anh chàng cứ tưng hửng như mèo mất tai!
- Cơ chừng nó đã chim được mày!
Cúc Hồn bĩu dài cái môi ra, nguýt một cái mà rằng:
- Gớm! Chị tưởng chồng chị hay lắm đấy!
Rồi hai chị em bạn gái nói chuyện với nhau đến khuya, sớm hôm sau hai người cùng đi Hà Nội. Trước khi đi, Ánh Tuyết dặn người nhà rằng:
- Cậu về thì nói rằng tao đi Hải Phòng có việc nhé!
Cúc Hồn cười mà chế rằng:
- Sao việc gì không nói rõ! Thực là mình làm khổ mình nhé!
Ánh Tuyết bĩu môi, nhìn vào cái dinh cơ lộng lẫy mà vênh váo trả lời rằng:
- Khổ ngay! Chị đã thấy tôi khổ chưa?
Năm hôm sau...
Lúc ấy độ sáu giờ chiều, một cái ô tô từ đằng xa chạy lại, ánh sáng hai ngọn đèn pha chiếu lóe đến tận chân giời. Ô-tô qua cầu, đến trước cửa cái nhà Tây có dậu sắt, thì còi bóp vang như ếch kêu, và dừng lại. Khi chưa đỗ hẳn thì đã thấy con chó nhẩy vọt từ trên xuống đất ngoe nguẩy đuôi, vừa sủa vừa chồm lên hai người trên xe đương bước xuống.
Đèn xe tắt, cửa xe đóng, hai người bước vào nhà. Hai người đều âu phục, mặc lối đi săn, trên đôi ghệt còn bê bết những bùn, vai đeo súng, tay xách sâu chim nặng chĩu. Con chó chạy trước, vừa chạy vừa quay cổ lại, vừa vẫy đuôi vừa ẳng. Trong hai người đó, có một người dong dỏng cao, mặt xương xương, cứ nhận cái núi mũi cao ở giữa mặt, thì chắc chẳng phải nói, các ngài đã thừa biết là thầy ký Gồ rồi vậy.
Ký Gồ vào đến nhà, vào trong buồng thì Ánh Tuyết vui vẻ vừa quấn tóc vừa chạy lại đón chào, và hỏi thăm:
- Thế nào?
Ký Gồ nét mặt buồn buồn, lắc đầu nói:
- Nguội!
- Làm sao?
Đen quá! Đi không lọt! Đành phải bỏ giữa đường cho họ bắt.
- Sao cậu nói thánh thần mãi!
- Chẳng may mới có lần này mất là lần đầu mà thôi đấy chứ!
- Mất bao nhiêu?
- Tất cả! Ngót vạn.
- Ai đi với cậu kia?
- Người anh em làm nhà Đoan!
Hai vợ chồng nhìn nhau, thở dài, bỗng ký Gồ hỏi vợ:
- Sao trông mợ xanh thế? Có việc gì lo buồn thế? Có mạnh khỏe không?
- Tôi vẫn như thường, nhưng buồn vì mất của!
- Chẳng hề chi, một chuyến khác sẽ kéo lại vốn.
- Cậu ra mời khách ngồi chơi đi chứ, ai lại để người ta đứng thế kia?
Ký Gồ ra, mời khách ngồi chơi ở sa-lông. Sa-lông của thầy, bầy biện đúng kiểu tân thời, mà toàn là đồ sang trọng đánh bóng nhoáng, tường nhà quét vôi xanh, gạch chỉ xanh, lại được ngọn đèn măng-xông ánh cũng xanh xanh. Cho nên cứ trông trong buồng khách ấy, cũng đủ đoán là tất ông chủ nhà là một tay sành lắm.
Ký Gồ từ ngày dấn thân vào việc buôn, thì cái nghề nghiệp bắt buộc phải giao du rất rộng. Cho nên những ngày đi vắng không kể, chứ mà đã có nhà, thì không mấy hôm không có khách, thỉnh thoảng lại mời bạn ở xa về để khoản thết để thu phục nhân tâm.
Chủ khách vừa ngồi, thì Ánh Tuyết cũng vừa trang điểm xong, bèn ra cũng ngồi đó tiếp khách, con chó cũng nhẩy tót lên một chiếc ghế ngồi chồm chỗm, thè lưỡi ra mà thở. Nhưng lần này, có lẽ vì ông khách mới lại chơi lần đầu, chưa quen lắm, hoặc dễ thường ký Gồ nói đúng là cô có việc gì lo buồn, cho nên cô chỉ ngồi yên, không nói năng mấy, chứ không như mọi lần, dù khách là người Tây mặc dầu, cô cũng ra bắt tay, nói chuyện lau láu!
Một chốc, thằng người nhà đưa thư và nhật báo của nhà dây thép gởi đến. Ánh Tuyết liếc qua các phong bì, rồi đưa cả cho chồng. Chủ đưa nhật trình cho khách xem.
Người khách mở tờ báo, để ngay mắt đến mục thời sự, bỗng nói:
- À, cái chuyện hôm nọ chúng ta trông thấy đây này:
Chủ ngước mặt lên có ý hỏi, khách nói:
- Tôi đọc cho bác nghe nhé:
"Một vụ mưu sát
Chiều hôm qua, người ta thấy ở đường đê Yên Phụ một người bị thương, máu mê bê bết, nằm sóng soài ngay ở vệ cỏ.
Người này ước ngoài hai mươi tuổi, không ai biết căn cước và tên tuổi, vì lúc có người thấy mà cứu thì đã muộn quá rồi, gọi chỉ còn ú ớ, không nói ra tiếng nữa, vả xét trong mình không có mang thẻ chi cả. Nhưng có thể đoán được người này là trong bọn lao động, vì xem cách ăn mặc thì rõ. Người ta nhặt được cạnh chỗ người bị hại nằm, một cái ảnh người đàn bà bị xé mất một nửa trên mặt, nên không rõ là ai, và một cái mù-xoa lụa cũ, ở góc có thêu chữ C và chữ T chồng lên nhau.
Mọi người đoán là có lẽ tên này đã vì chữ tình cho nên mới bị ghen tuông mà bị một trận đòn ghê gớm thế.
Khi xe người ấy vào nhà thương, thì quan Đốc-tờ đã cho buộc thuốc, nhưng xem bệnh tình nguy ngập lắm, khó lòng mà chữa được, vì thương tích toàn là những vết dao nhọn đâm vào chỗ hiểm cả, nhất là trước mặt thì chi chít những nhát dao.
Các nhà chuyên trách đang cho nã thủ phạm. Nếu người khốn nạn này mà nói được thì có lẽ sự điều tra cũng dễ mà chả mấy chốc thám ra manh mối.
Một cái dấu hỏi to còn đang cuộn tròn trong óc các nhà thám tử".
Đọc xong, khách nói:
- Tức là cái đám đông người mình gập hôm ấy đấy!
Ánh Tuyết nghe chuyện bỗng xám ngắt, rồi nhăn mặt, ôm đầu đứng dậy, kêu khó ở và xin lỗi rồi cầm tờ báo vào trong buồng.
Người đời, ai được phú quý cũng hay khoe của, cho nên dù khôn ngoan khéo léo hơn người, thầy ký Gồ cũng mắc phải cái bệnh ấy. Nay cái nhà này, cái ô tô này, cái bộ bàn ghế này đối với thầy đã hơi là cũ rồi, mà khoe lắm đã thấy chán miệng, cho nên thầy phải nói đến cái mới.
Đáng lẽ có Ánh Tuyết ngồi cùng tiếp khách, thì thầy đã tự vui sướng vì có vợ thiệp đời, thì mình cũng đỡ phải khoe của, nhưng hôm nay vợ xin thoái vào trong, thì ký Gồ lại được dịp lôi đến con chó Lu mới mua ra làm đầu đề câu chuyện:
- Ấy, chính nó là giống "Bleu d'Auvergne" đấy, bác ạ! Tôi mua nó mất ba trăm bẩy mươi đồng đấy. Cái người Tây bán nó cho tôi, vì nể tôi lắm mới để rẻ thế, chứ kể ra thì những hơn bốn trăm kia! Cũng có con đẹp hơn thế này, mà những hơn năm trăm, nhưng kể ra An Nam mà đã dám bỏ ra ngót bốn trăm bạc để mua chó, thì kẻ đã là ngông lắm rồi. Vả lại, người mình thì mấy người chơi chó sành, cho nên mua con nhiều tiền quá cũng phí mất. Này bác ngắm kỹ nó mà xem, giống chó này tai to, mũi lúc nào cũng ướt, chân cao và to mà lốm đốm. Ấy không biết nhận nó thì nhầm với giống khác đấy. Con này tôi chỉ yêu về cái đầu nó vuông như chữ điền, này, cái ngang đây nhé, cái sổ đây nhé, thần tình không! Con nào được cái bụng thon, mõm ngắn mà nhất là hai lườn phình ra như hai lườn dê thế này là khỏe và nhanh lắm đấy. Hẳn ban nẫy bác đã nhận được cái dáng dấp nó oai vệ là thế nào rồi đấy nhỉ. Có phải bao giờ nó cũng đi trước tôi mười thước không? Cứ lấy thước mà đo, cũng chả sai mấy tí đâu. Lúc đi như thế, cái mắt nó đưa đưa, cái mũi nó ngửi ngửi, trông đẹp đáo để. Khi nào nó đánh hơi thấy chim nấp ở trong bụi, thì nó sẽ gục đầu xuống, khẽ ngoe nguẩy cái đuôi, ấy thế là tôi biết hiệu đấy. Lúc tôi lắp đạn xong, tôi "chutt" một tiếng, thì nó chồm ngay vào con chim, anh chim bay ra, "pan"! Thôi còn chạy đằng giời! Mười lượt như thế cả mười, chẳng sai một lượt nào!
Lúc ấy con Lu ngồi trên ghế, đối diện với chủ, chum chúm cái mõm để nghe chuyện.
- Không những nó săn giỏi, mà giữ nhà, tìm đồ đánh mất cũng tài. Bây giờ bác thử đưa cái kính của bác cho nó ngửi hơi một lúc, rồi bác giấu vào trong vườn, tôi bảo nó tìm được ngay.
Được ông bạn cũng là người thích chó, cho nên thử ngay tài con Lu. Quả nhiên, chưa được năm phút, thì con Lu đã ngoạm cái kính đưa trả khách rồi.
Ký Gồ đắc chí cười ha hả, vuốt ve, vỗ mãi má nó, rồi bế nó vào lòng, hôn lấy hôn để, vui thú như được cậu con hay chữ vậy.
- Tôi nuôi nó cẩn thận lắm. Tôi không dám cho nó ăn dưới đất bao giờ, cho nên nó quen thói sạch sẽ và khôn ngoan lắm. Thế mới biết cái giống chó Tây, nó cũng hơn cái giống chó An Nam mình thực! Chó An Nam, thì lông đã xấu, lại hay ăn bửn, đã ăn bửn lại hay cắn càn. Lắm bận nó lừ lừ ở đằng sau mình, rồi đớp trộm ngay một miếng vào quần mới nan du chứ! Con này hễ đã lên tiếng thì y như có người gian vào nhà, nó chồm hẳn lên mặt mà cắn. Thằng trộm nào mà vô phúc vào nhà này thì hẳn là mất chỗ đội nón! Nhưng chỉ từ mười giờ đêm trở đi nó mới cắn mà thôi.
Lúc ấy cơm bưng lên, để lên bàn ăn. Chủ khách đang mời nhau lại ngồi, thì con chó đã nhẩy tót lên bàn, chồm chỗm và ngoe nguẩy đuôi.
- Con Lu này được cái lễ phép lắm, tôi dậy mãi mới được đấy, này, đĩa đồ ăn của nó đây nhé, cơm chộn với thịt ngon lành thế này, nhưng tôi chưa cho ăn, thì đố có dám ăn. Ngay khuất mắt mình cũng vậy.
Ký Gồ cầm đĩa đồ ăn của con Lu mang ra sân đằng trước. Khách và con chó đi theo sau. Con Lu ngoe nguẩy đuôi, ra dáng mừng rỡ. Ký Gồ để đĩa cơm ở giữa sân, con Lu cúi cổ xuống ngửi, sắp ăn, thì chủ nó mắng ngay:
- Tăng-xông!
Thấy không được phụng dưỡng tử tế như mọi khi, con Lu lừ lừ lui ra.
- Ta không cần phải coi, lúc ta ăn xong, mà đĩa này nó vẫn không dám đụng đến đâu. Thôi mời bác vào xơi cơm.
Lúc bấy giờ, giá thầy ký Gồ có ý một tí, thì chắc đã thấy một vật gì lù lù đen đen, lù rù ở ngay ngoài cổng. Đó là một người ăn mày, ngồi bó cò ở đấy, đội cái nón toạc tung cả cạp, đã đóng khố, lại mặc cái áo rách cụt cả tay, thành ra bốn chân tay khẳng khiu, đen thui thủi, dài ngoằng ngoẵng; cái bị bẹp há hốc miệng ra, nằm chờ bên cạnh cái dạ dầy lép kẹp.
Thằng ăn mày này chờ đấy từ lâu; thấy trong nhà lạch cạch tiếng đũa bát, mùi đồ xào theo gió đưa ra, cho nên nó gào lên xin mà cũng chẳng có ai nghe tiếng. Lúc hai người ra sân, thì lạy van rã bọt mép, nhưng hai ông còn đương giở bận chơi với chó, không ai để ý đến người.
Thằng ăn mày biết thế, nên lại cố lấy sức gào to, nhưng khốn nạn, khi cái tiếng hết hơi của nó đập đến màng tai ông chủ, thì ông chủ trợn mắt, hầm hầm mà quát rằng:
- Làm gì mà nheo nhéo lên thế? Làm át cả câu chuyện. Bước ngay, không ông đá cho một cái thì chết bây giờ!
Thằng khốn nạn lại im thin thít, chủ khách bèn vào buồng ăn cơm.
Lúc ấy hai con mắt đứa ăn xin chòng chọc nhìn vào đĩa cơm của con chó, nó thèm quá, nước dãi chẩy ròng ròng, nuốt không kịp. Muốn vào ăn trộm một miếng, nhưng chỉ sợ con chó nó cắn cho một miếng thì chết! Nó thấy con chó cứ đứng gần đĩa cơm mà không ăn, thì nó không hiểu ra sao cả. Nó tưởng là con chó chê cơm nhạt không thèm ăn, thì nó muốn đánh đổi số phận nó cho con chó nhà giầu!
Giá con chó biết tiếng người, thì hẳn nó đã lân la đến gần để đánh bạn, rồi kể lể nỗi đói khát, thì có lẽ, chỗ anh em, con chó cũng động tâm mà lấy "nhân đạo", nhường cho nó đĩa cơm ấy. Hay là vì nó sù sù ngồi đó, cho nên con chó phải đứng canh chăng? Nó liền lẩn ra sau cái cột cổng mà dòm vào. Một lúc, quả nó thấy con chó lừ lừ ra nằm chỗ khuất bóng ở cạnh tường. Được dịp may, thằng ăn mày đánh liều rồ ra tiến gần lại mấy bước, nhưng con chó lập tức đứng dậy, cũng tiến gần lại mấy bước, vừa đi vừa gừ. Thằng khốn nạn giương hai mắt nhìn con chó, thì con chó cũng giương hai mắt nhìn lại đứa ăn mày. Thành ra đĩa cơm ở giữa, người tiến thì chó cũng tiến, người lui thì chó cũng lui, hai bên hầm hè nhau, người lườm chó, chó lườm người, đều cùng giữ miếng nhau, như hai kẻ thù không đội trời chung vậy.
Cứ như thế, không bên nào chịu bên nào. Độ hơn mười phút, thẳng ăn mày cũng thế, nghĩ ngay được một kế. Tay nó với được hòn đá to tướng, thu thủ đằng sau, chạy tọt lại đĩa cơm, rón một cái rõ nhanh, đút tỏm vào mồm!
Nhưng con chó nhanh hơn, chồm vọt lại, nhẩy xổ lên, há mõm nhe răng ra cắn. Thằng ăn mày giơ thẳng cánh, nhằm giữa mồm con chó uỵch hòn đá rõ mạnh một cái. Con chó ẳng lên một tiếng, rồi nhanh như chớp, nó vật được kẻ thù xuống đất, giơ hai chân ra cào mặt và móc mồm, nhưng liền bị ngay một cái đấm nữa vào đầu, mới chịu buông thẳng ăn mày ra và nằm xóng xoài xuống đất, ẳng rầm lên.
Thầy ký Gồ đương ăn cơm, nghe tiếng chó kêu, vội bỏ cả bát đũa lẫn khách, cầm đèn hấp tấp chạy ra:
- Thôi, chết rồi, đứa nào đánh chết con Lu rồi! Ối giời ôi! Nó gẫy hai cái răng rồi, khổ tôi quá!
Thế rồi thét người nhà váng lên, gọi ra bế con Lu vào, còn mình thì chạy ra cổng xem ai đánh chó. Thầy trông thấy ở đằng xa, có cái bóng đen đen, chạy nhanh tít, liền bấm đèn ô-tô để chiếu theo, thì trông rõ thằng ăn mày ban nẫy đương chạy. Thầy tức, nóng ran cả người, nghĩ vừa thương con chó gẫy hai cái răng, cho nên nước mắt ròng ròng, nức nở khóc, nghiến răng, nhìn theo thằng khốn nạn mà rằng:
- À, mày đã khỏe đánh gẫy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi rồi ông đền mạng, bất quá ba chục bạc là cùng!
Nói đoạn, vặn tắt đèn đi, nhẩy chồm lên ô-tô, máy xình xịch, chạy hết sức nhanh để đuổi theo.
Đi độ hơn ba trăm thước, lúc đến trước cửa tòa đại lý, xe đương đè gió chạy như biến, thì tự nhiên nó nhảy chồm lên, như vấp phải vật gì, chối bánh xe, suýt đâm lên hè phố.
Thầy vội hãm máy lại, nhìn xem cái gì, thì bỗng nghe tiếng kêu:
- Thôi, thế là thằng bé chết rồi!
Thầy giật nẩy mình, thì trong dinh, và hàng phố, người chạy ra xem rất đông. Thằng bé con nằm soài dưới đất, máu mê đầm đìa, sờ ngực chỉ còn hơi thoi thóp thở.
- Xe thầy Gồ đè chết con quan Đại rồi!
Cái tin dữ đi chóng như bay, Ánh Tuyết vội hộc tốc chạy đến, thì đã thấy chồng bị giải vào trong tòa rồi. Cô đẩy cửa xấn vào, nhưng bị lính đóng lại và đẩy ra.
Một người đứng gần đó, kéo cô ra chỗ vắng rỉ tai nói rằng:
- Thầy ấy nhắn cô phải đi ngay tối hôm nay, lên Hà Nội, rồi thấy ấy tìm sau.
Ánh Tuyết khóc lóc nói:
- Thế này có khổ tôi hay không! Rồi phải tù chứ tìm gì mà tìm!
Bấy giờ thầy ký Gồ phải giam dưới nhà pha, có lính coi cẩn thận.
Quan Đại lập tức làm biên bản và lấy đủ chứng cớ. Ngài ngờ rằng thầy ký Gồ vì thù riêng mà kẹp chết con mình chăng, nhưng vì ngài là người Pháp, mà lại mới ở Pháp sang, cho nên rất giầu lòng đại lượng, nhân từ, ngài sẵn lòng quên ngay tư hiềm rồi ngài đoán ra cái cớ khác. Ngài hỏi biết rằng ngày thường ký Gồ vẫn đi vắng hàng mươi hôm mới về, và ra ý bí mật lắm, cho nên ngài ngờ rằng chắc lại có chân trong hội kín, cho nên lập tức ngài cùng quan Huyện thân hành mang lính đến khám nhà.
Lúc đến nơi, quan Đại không thấy vợ ký Gồ đâu cả, chỉ thấy một người lạ mặt ở đó, hỏi ra mới biết là khách đến chơi, ngài càng nghi đẫy, bèn hãy bắt người khách ấy để giữ lại xét sau.
Ngài khám bàn giấy, lục lọi các hòm các tủ, xem xét trần nhà, nhưng chỉ thấy có hai ba tờ giấy in thạch đã mờ, mà khổ giấy và nét chữ giống như giấy ngài đã bắt được một lần, ngài lấy làm nghi bèn giữ lấy để xét. Lúc sắp ra về, ngài chống cái ba-toong xuống gạch lát, thì trợt có tiếng kình kịch lạ tai làm cho ngài để ý.
Ngài bắt xem xét cẩn thận, vì ngài ngờ dưới hàng gạch lát đất là rỗng, quả nhiên khi bắt khênh cái tủ áo ra chỗ khác, ngài nhận thấy bốn hòn gạch không gắn vôi. Ngài sai cậy lên, thì là cái hầm ở dưới; soi đèn đi xuống, thì thấy cái hầm ấy rất rộng, trong chứa những thùng sắt tây gắn kín; nậy một thùng ra xem, thì là thuốc viện lậu!
Ngài sai khuân lên đếm, được những hơn bốn trăm thùng.
Lúc ấy ở trước cổng nhà thầy ký Gồ đông nghịt những người đứng xem. Có người mát ruột muốn biết ngay cái kết quả sự khám xét, có người thương thầy đang giầu có mà nay bỗng thành trắng tay.
Ở dinh quan Đại, bao nhiêu lính đều kéo đi khám hoặc đi xem hết cả, chỉ còn một người ở lại giữ thầy ký Gồ mà thôi. Cũng vì thầy được người lính có tính cả nể, mà sự canh phòng không đến nỗi chặt chẽ lắm, cho nên nhân một lúc lừa người lính không để ý đến mình, thầy lẩn ra đằng sau trèo tường trốn...
Truyện dài (NXB Dương Xuân Thư Quán, 1932 - 218 Tr.)
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
Mời đọc và lấy về bản PDF
Tham khảo: Các bài viết liên quan
1. Về truyện dài "Những cảnh khốn nạn" - Trích trong “Đời viết văn của tôi”.
0 comments:
Đăng nhận xét
[im]your image url..[/im]
[youtube]your video url..[/youtube]
[si="10"]your text[/si]
[co="red"]your text[/co]
〈div style=""〉 TEXT〈/div〉