Mời nghe đọc tại Trung Tâm Vì Người Mù Sao Mai - Người đọc: Nguyên Lộc.
NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC
Phần I: Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn, bậc thầy truyện ngắn trào phúng.
NHỮNG CÁI NHÁY MẮT TINH NGHỊCH
VƯƠNG TRÍ NHÀN
Trong các từ điển cùng các cuốn sách giáo khoa dùng ở phổ thông và đại học, Nguyễn Công Hoan thường được đánh giá xác đáng như nhà văn tả chân độc đáo, một trong những tác giả tiêu biểu của trào lưu hiện thực phê phán trong văn học tiền chiến. Nhưng với các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thời kỳ đó, luôn luôn người ta còn có thể đọc ra những mối liên hệ sâu xa với văn học dân gian và qua ông, hiểu thêm thực trạng của những người cầm bút đương thời.
Trạng là một nhân vật đặc biệt của văn học dân gian Việt Nam, biểu tượng tập trung của trí thông minh và cách sống khôn ngoan mà những người dân bình thường vốn ưa thích.
Dù sống ở thời nào và khoác tên gì, song các nhân vật trạng đều giống nhau ở chỗ tinh ranh ma quái, giỏi biến báo và nhất là giỏi đối đáp. Trước những tình thế khốn quẫn, những nghịch cảnh trớ trêu, họ linh hoạt tìm ngay được cách thích ứng. Không làm gì, nhưng họ biết tất cả. Không để bị ai lừa, họ còn luôn luôn "đi guốc trong bụng thiên hạ". Lại cũng do biết nhiều quá, nên như một triết lý hư vô thường cũng phảng phất trong cách nhìn đời của các trạng. Óc thực tế chắc chắn cộng với một trí tưởng tượng hồn nhiên thường trực, đã giúp cho các trạng nhìn đâu cũng thấy truyện buồn cười, dù sau khi cười, họ cũng không biết làm gì hơn!
Trước khi trở thành nhân vật của các truyện cười dân gian, các loại trạng nói trên đã thả sức tung hoành trong xã hội trung cổ Việt Nam nhiều thế kỷ. Sang thời hiện đại, trong khi các mẩu chuyện trạng trong quá khứ bắt đầu sưu tầm ghi chép, thì các trạng hiện đại tiếp tục hành nghề. Lại có những nhà văn hấp thụ được cái mạch truyện cười dân gian đó để viết đều đều, chẳng hạn như trường hợp Nguyễn Công Hoan, cây bút cả đời sống đạo mạo trong nghề dạy học, song vẫn mang tâm hồn nghịch ngợm trẻ trung của một thứ trạng hiện đại.
Tấn kịch dân gian
Có nhiều dấu hiệu khác nhau để xác nhận sự vững vàng và lý do tồn tại thật sự của ngòi bút, song dấu hiệu quan trọng nhất là do khả năng của ngòi bút đó trong việc áp đặt một cách nhìn đời riêng cho bạn đọc. Thế giới do nhà văn tạo nên có thể lớn, có thể nhỏ. Nhưng thế giới đó phải có sức sống nội tại, phải thống nhất lại theo những qui luật riêng mà chỉ nhà văn đó mới có.
Trong giới cầm bút ở xứ ta thế kỷ này, Nguyễn Công Hoan thuộc về một số ít ỏi những người tìm được lý do tồn tại thật sự như vậy. Từ cách khái quát hiện thực, cho tới cách dựng truyện tìm nhân vật, cách đặt câu dùng chữ, văn ông luôn luôn có một thần thái riêng trộn không lẫn. Mà nguồn gốc của tất cả những cái làm nên thần thái riêng ấy là một lối nhìn đời theo kiểu trạng dân gian trên kia đã nói. Vào các trang sách của ông, cuộc sống xã hội Việt Nam thuở giao thời hiện lên với không biết bao nhiêu là vớ vẩn nhảm nhí. Đám giàu sổi mới nảy nòi, nhố nhăng lố bịch (Cô Kếu gái tân thời, Nỗi lòng ai tỏ, Một tấm gương sáng); bọn quan lại keo bẩn ngu dốt, sẵn sàng làm bất cứ việc gì xấu xa, miễn bóp nặn được người dân và thăng quan tiến chức (Thật là phúc, Cái nạn ô tô, Xuất giá tòng phu...). Sự suy đồi phong hoá diễn ra ở khắp nơi, trong mọi gia đình (Mất cái ví, Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn...). Từ thành thị đến nông thôn những người dân túng bấn, nghèo khổ, chìm đắm trong cảnh tối tăm vô nghĩa (Sáng, chị phu mỏ, Thanh! Dạ!, Quyền chủ, Chính sách thân nhân...). Bằng một cách nói có phần táo tợn, trong cuốn hồi ký Đời viết văn của tôi (in ra năm 1971, lúc nhà văn đã 68 tuổi), Nguyễn Công Hoan từng nhiều lần trình ra những đức tính bẩm sinh chẳng có gì hay ho của mình lúc còn trẻ, nào là "khinh thế ngạo vật", "nghịch ngợm ranh mãnh", thích tìm những thói xấu của người chung quanh để trêu ghẹo, đôi khi tôi trở thành bất nhẫn "hư đốn, mất dạy" (trích ở Đời viết văn của tôi, các tr.42, 45). Trong những lời lẽ đó, không phải chỉ có chút ít thậm xưng, mà còn rất nhiều sự thực. Bàng bạc sau các câu chuyện tức cười là một khái quát thản nhiên về thói đời đen bạc. Ở đời có ai tốt bụng với ai đâu, người ta chỉ tỏ ra tử tế khi thấy có lợi, giống như người đàn bà nọ, hết lòng trông nom người ốm chỉ biết chẳng bao lâu người ốm đó sẽ chết và mình sẽ xin được mái tóc (Tôi xin hết lòng).
Hoặc ông chủ nhà đòn đám ma mang lê táo đến thăm một gia chủ, cốt để xí phần trông nom ma chay (Một tin buồn). Bởi vậy, sẽ là ngớ ngẩn nếu ta tin ở những lời hứa hão, như lời hứa trở về của người vợ đi du học ở nước ngoài (Thế là mợ nó đi Tây), hoặc lời mời chào của một kẻ thị dân trong cơn túng quẫn (Thằng điên).
Theo cách trình bày của Nguyễn Công Hoan, sự nông nổi phải được xem như một thứ bản tính thứ hai của con người.
Trạng là một nhân vật đặc biệt của văn học dân gian Việt Nam, biểu tượng tập trung của trí thông minh và cách sống khôn ngoan mà những người dân bình thường vốn ưa thích.
Dù sống ở thời nào và khoác tên gì, song các nhân vật trạng đều giống nhau ở chỗ tinh ranh ma quái, giỏi biến báo và nhất là giỏi đối đáp. Trước những tình thế khốn quẫn, những nghịch cảnh trớ trêu, họ linh hoạt tìm ngay được cách thích ứng. Không làm gì, nhưng họ biết tất cả. Không để bị ai lừa, họ còn luôn luôn "đi guốc trong bụng thiên hạ". Lại cũng do biết nhiều quá, nên như một triết lý hư vô thường cũng phảng phất trong cách nhìn đời của các trạng. Óc thực tế chắc chắn cộng với một trí tưởng tượng hồn nhiên thường trực, đã giúp cho các trạng nhìn đâu cũng thấy truyện buồn cười, dù sau khi cười, họ cũng không biết làm gì hơn!
Trước khi trở thành nhân vật của các truyện cười dân gian, các loại trạng nói trên đã thả sức tung hoành trong xã hội trung cổ Việt Nam nhiều thế kỷ. Sang thời hiện đại, trong khi các mẩu chuyện trạng trong quá khứ bắt đầu sưu tầm ghi chép, thì các trạng hiện đại tiếp tục hành nghề. Lại có những nhà văn hấp thụ được cái mạch truyện cười dân gian đó để viết đều đều, chẳng hạn như trường hợp Nguyễn Công Hoan, cây bút cả đời sống đạo mạo trong nghề dạy học, song vẫn mang tâm hồn nghịch ngợm trẻ trung của một thứ trạng hiện đại.
Tấn kịch dân gian
Có nhiều dấu hiệu khác nhau để xác nhận sự vững vàng và lý do tồn tại thật sự của ngòi bút, song dấu hiệu quan trọng nhất là do khả năng của ngòi bút đó trong việc áp đặt một cách nhìn đời riêng cho bạn đọc. Thế giới do nhà văn tạo nên có thể lớn, có thể nhỏ. Nhưng thế giới đó phải có sức sống nội tại, phải thống nhất lại theo những qui luật riêng mà chỉ nhà văn đó mới có.
Trong giới cầm bút ở xứ ta thế kỷ này, Nguyễn Công Hoan thuộc về một số ít ỏi những người tìm được lý do tồn tại thật sự như vậy. Từ cách khái quát hiện thực, cho tới cách dựng truyện tìm nhân vật, cách đặt câu dùng chữ, văn ông luôn luôn có một thần thái riêng trộn không lẫn. Mà nguồn gốc của tất cả những cái làm nên thần thái riêng ấy là một lối nhìn đời theo kiểu trạng dân gian trên kia đã nói. Vào các trang sách của ông, cuộc sống xã hội Việt Nam thuở giao thời hiện lên với không biết bao nhiêu là vớ vẩn nhảm nhí. Đám giàu sổi mới nảy nòi, nhố nhăng lố bịch (Cô Kếu gái tân thời, Nỗi lòng ai tỏ, Một tấm gương sáng); bọn quan lại keo bẩn ngu dốt, sẵn sàng làm bất cứ việc gì xấu xa, miễn bóp nặn được người dân và thăng quan tiến chức (Thật là phúc, Cái nạn ô tô, Xuất giá tòng phu...). Sự suy đồi phong hoá diễn ra ở khắp nơi, trong mọi gia đình (Mất cái ví, Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn...). Từ thành thị đến nông thôn những người dân túng bấn, nghèo khổ, chìm đắm trong cảnh tối tăm vô nghĩa (Sáng, chị phu mỏ, Thanh! Dạ!, Quyền chủ, Chính sách thân nhân...). Bằng một cách nói có phần táo tợn, trong cuốn hồi ký Đời viết văn của tôi (in ra năm 1971, lúc nhà văn đã 68 tuổi), Nguyễn Công Hoan từng nhiều lần trình ra những đức tính bẩm sinh chẳng có gì hay ho của mình lúc còn trẻ, nào là "khinh thế ngạo vật", "nghịch ngợm ranh mãnh", thích tìm những thói xấu của người chung quanh để trêu ghẹo, đôi khi tôi trở thành bất nhẫn "hư đốn, mất dạy" (trích ở Đời viết văn của tôi, các tr.42, 45). Trong những lời lẽ đó, không phải chỉ có chút ít thậm xưng, mà còn rất nhiều sự thực. Bàng bạc sau các câu chuyện tức cười là một khái quát thản nhiên về thói đời đen bạc. Ở đời có ai tốt bụng với ai đâu, người ta chỉ tỏ ra tử tế khi thấy có lợi, giống như người đàn bà nọ, hết lòng trông nom người ốm chỉ biết chẳng bao lâu người ốm đó sẽ chết và mình sẽ xin được mái tóc (Tôi xin hết lòng).
Hoặc ông chủ nhà đòn đám ma mang lê táo đến thăm một gia chủ, cốt để xí phần trông nom ma chay (Một tin buồn). Bởi vậy, sẽ là ngớ ngẩn nếu ta tin ở những lời hứa hão, như lời hứa trở về của người vợ đi du học ở nước ngoài (Thế là mợ nó đi Tây), hoặc lời mời chào của một kẻ thị dân trong cơn túng quẫn (Thằng điên).
Theo cách trình bày của Nguyễn Công Hoan, sự nông nổi phải được xem như một thứ bản tính thứ hai của con người.
Với sự nông nổi ấy, người ta đã làm bao tội ác mà không hay biết, tình thế trớ trêu chẳng khác cảnh đám lính huyện lỵ nọ hùa nhau chôn sống rồi cười cợt trên sự đau đớn của một con ngựa già hoặc một ông tri châu bắn bừa bắn bãi sáu mạng người - thực ra là những kẻ vô tội - sau đó vu cho họ là giặc, và đi báo trên lĩnh thưởng. Không phải ngẫu nhiên, trong hồi ký, Nguyễn Công Hoan kể lại rằng khi đi học, có lần thầy giáo ra đầu bài "Ở đời anh có hy vọng gì", ông đã viết mỗi một câu "Ở đời tôi không hy vọng gì cả", rồi đem nộp. Để hiểu cái đành hanh khinh bạc trong nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có lẽ nên xem mẩu chuyện bâng quơ đó như một thứ chìa khoá đích thực.
Khinh bạc, hư vô, bi quan đến cùng cực trước sự đời, nên trong nhiều tác phẩm, ông đã đứng ra vạch vôi vào những gì gọi là giá trị, là tốt đẹp, từ vẻ nghiêm chỉnh của một ông giáo (Thầy cáu) tới cái mải miết của một kẻ đi theo dõi các hành tung nghi vấn (Cái lò gạch bí mật), từ sự trịnh trọng của một ông đồ già viết phúng điếu (Xin chữ cụ nghè) cho tới những lời quảng cáo của một gánh hát nghèo nơi tỉnh nhỏ (Đào kép mới). Với Nguyễn Công Hoan, hình như bao giờ cũng thế, không có gì mới trên đời này cả!
Kẻ sống bên lề
Trong số các nhà văn Việt Nam sống và viết ở thế kỷ XX, Nguyễn Công Hoan thuộc loại viết khoẻ, viết nhiều bậc nhất. Truyện dài của ông ta đã lên tới 30 quyển, bao gồm cả những tiểu thuyết dài dài và nổi tiếng bởi những lý do rất khác nhau như Tắt lửa lòng, Lá ngọc cành vàng, Bước đường cùng. Truyện ngắn - lĩnh vực bộc lộ đầy đủ văn tài của ông - cũng vậy, số lượng những cái ông đã cho in đâu những trên 200, mà riêng số thật hay, thường được in đi in lại cũng đến dăm sáu chục. Vào dịp Nguyễn Công Hoan lên lão 60, với tư cách một kẻ hậu sinh, một cậu học trò Nguyễn Công Hoan Tô Hoài đã ghi nhận: "Lực lưỡng như một tay đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ, vượt qua cả hai thời kỳ, tiến vào Cách mạng tháng Tám” (Kiếp hồng nhan là tập truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Công Hoan in ra năm 1923; hai thời kỳ nói ở đây là trước và sau 1930 - V.T.N).
Ấy vậy mà trước sau Nguyễn Công Hoan không sống hẳn về nghề văn. Nghề tay phải của ông vẫn là nghề dạy học. Chẳng ai ngăn cản, mà ý ông chủ vậy. Nghe người ta gọi mình là nhà văn, ông thấy ngần ngại. Nguyễn Công Hoan chỉ nhận mình là người viết văn, thế thôi!
Mỗi lần có thể được, ông đều tìm cách làm ngược những điều thiên hạ quen hình dung về các nhà văn, coi đó làm vui. Ví như xưa nay ai cũng nghĩ người viết văn phải đọc sách nhiều. Thì ông công khai bảo là rất ngại đọc sách, có những cuốn rất nổi tiếng đã cầm lấy rồi, chỉ đọc ít trang rồi bỏ.
Người ta chỉ có thể hiểu được những điều ấy, nếu nhớ tới cá tính riêng của Nguyễn Công Hoan và nhất là đặt con người ông, nhân cách ông, trong mối quan hệ với cái môi trường mà ông chịu nhiều ảnh hưởng. Thời gian hình thành tính cách của ông là hai chục năm đầu của thế kỷ. Tuy lúc ấy chế độ thực dân đã được xác lập để dần hướng xã hội theo hướng tư bản, song tàn tích phong kiến còn rất nặng. Bản thân Nguyễn Công Hoan lại lớn lên trong một gia đình quan lại, loại quan nhỏ, sống có phần thanh bạch. Lý tưởng phong kiến - ở cái phần thanh cao tốt đẹp - cộng với cảm hứng dân gian lành mạnh đã giúp cho ông một thái độ sống có lương tri, thương người nghèo, ghét kẻ giàu, nhất là luôn luôn cười giễu những cái xấu xa dơ bẩn. Nhưng quan niệm phong kiến về văn hoá vốn nghiệt ngã. Nó rất ghét những gì gọi là phi chính thống vượt ra ngoài khuôn khổ. Nói chung thì đó là một quan niệm hẹp hòi khô cứng. Có lẽ là do tâm thức ăn sâu những quan niệm kiểu đó, nên một người thạo viết quen viết, sinh ra để viết như Nguyễn Công Hoan, chỉ coi những truyện mình viết ra là để cười cợt cho vui, mà không phải việc nghiêm chỉnh. Mặt khác, cũng phải nhận là vào thời Nguyễn Công Hoan viết nhiều viết khoẻ, nghề viết văn ở Việt Nam chưa ra quy củ nề nếp gì cả. Những điều mà Nguyễn Công Hoan mang rêu rao nào là ở đây "như một cái chợ", quá nhiều kẻ tầm thường đeo đuổi những cái danh hão: nào là "một dạo người ta sợ những người làm nghề cầm bút như sợ... hủi", không phải là không có lý. Quá trình dân chủ hoá trong xã hội bấy giờ vừa mới bắt đầu thì đã bị làm hỏng. Cách nhìn cao ngạo lối sống bên lề mà Nguyễn Công Hoan lựa chọn là một cách phản ứng trước thời đại. Sự phản ứng ấy lại nhiều phần phù hợp với bản chất tự do của sự sáng tạo và cũng ăn nhịp với xu hướng vận động của lịch sử, nên đã góp phần giải phóng ở Nguyễn Công Hoan một sức làm việc dồi dào mà mỗi lần nghĩ tới, không ai là không kính phục.
Khinh bạc, hư vô, bi quan đến cùng cực trước sự đời, nên trong nhiều tác phẩm, ông đã đứng ra vạch vôi vào những gì gọi là giá trị, là tốt đẹp, từ vẻ nghiêm chỉnh của một ông giáo (Thầy cáu) tới cái mải miết của một kẻ đi theo dõi các hành tung nghi vấn (Cái lò gạch bí mật), từ sự trịnh trọng của một ông đồ già viết phúng điếu (Xin chữ cụ nghè) cho tới những lời quảng cáo của một gánh hát nghèo nơi tỉnh nhỏ (Đào kép mới). Với Nguyễn Công Hoan, hình như bao giờ cũng thế, không có gì mới trên đời này cả!
Kẻ sống bên lề
Trong số các nhà văn Việt Nam sống và viết ở thế kỷ XX, Nguyễn Công Hoan thuộc loại viết khoẻ, viết nhiều bậc nhất. Truyện dài của ông ta đã lên tới 30 quyển, bao gồm cả những tiểu thuyết dài dài và nổi tiếng bởi những lý do rất khác nhau như Tắt lửa lòng, Lá ngọc cành vàng, Bước đường cùng. Truyện ngắn - lĩnh vực bộc lộ đầy đủ văn tài của ông - cũng vậy, số lượng những cái ông đã cho in đâu những trên 200, mà riêng số thật hay, thường được in đi in lại cũng đến dăm sáu chục. Vào dịp Nguyễn Công Hoan lên lão 60, với tư cách một kẻ hậu sinh, một cậu học trò Nguyễn Công Hoan Tô Hoài đã ghi nhận: "Lực lưỡng như một tay đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ, vượt qua cả hai thời kỳ, tiến vào Cách mạng tháng Tám” (Kiếp hồng nhan là tập truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Công Hoan in ra năm 1923; hai thời kỳ nói ở đây là trước và sau 1930 - V.T.N).
Ấy vậy mà trước sau Nguyễn Công Hoan không sống hẳn về nghề văn. Nghề tay phải của ông vẫn là nghề dạy học. Chẳng ai ngăn cản, mà ý ông chủ vậy. Nghe người ta gọi mình là nhà văn, ông thấy ngần ngại. Nguyễn Công Hoan chỉ nhận mình là người viết văn, thế thôi!
Mỗi lần có thể được, ông đều tìm cách làm ngược những điều thiên hạ quen hình dung về các nhà văn, coi đó làm vui. Ví như xưa nay ai cũng nghĩ người viết văn phải đọc sách nhiều. Thì ông công khai bảo là rất ngại đọc sách, có những cuốn rất nổi tiếng đã cầm lấy rồi, chỉ đọc ít trang rồi bỏ.
Người ta chỉ có thể hiểu được những điều ấy, nếu nhớ tới cá tính riêng của Nguyễn Công Hoan và nhất là đặt con người ông, nhân cách ông, trong mối quan hệ với cái môi trường mà ông chịu nhiều ảnh hưởng. Thời gian hình thành tính cách của ông là hai chục năm đầu của thế kỷ. Tuy lúc ấy chế độ thực dân đã được xác lập để dần hướng xã hội theo hướng tư bản, song tàn tích phong kiến còn rất nặng. Bản thân Nguyễn Công Hoan lại lớn lên trong một gia đình quan lại, loại quan nhỏ, sống có phần thanh bạch. Lý tưởng phong kiến - ở cái phần thanh cao tốt đẹp - cộng với cảm hứng dân gian lành mạnh đã giúp cho ông một thái độ sống có lương tri, thương người nghèo, ghét kẻ giàu, nhất là luôn luôn cười giễu những cái xấu xa dơ bẩn. Nhưng quan niệm phong kiến về văn hoá vốn nghiệt ngã. Nó rất ghét những gì gọi là phi chính thống vượt ra ngoài khuôn khổ. Nói chung thì đó là một quan niệm hẹp hòi khô cứng. Có lẽ là do tâm thức ăn sâu những quan niệm kiểu đó, nên một người thạo viết quen viết, sinh ra để viết như Nguyễn Công Hoan, chỉ coi những truyện mình viết ra là để cười cợt cho vui, mà không phải việc nghiêm chỉnh. Mặt khác, cũng phải nhận là vào thời Nguyễn Công Hoan viết nhiều viết khoẻ, nghề viết văn ở Việt Nam chưa ra quy củ nề nếp gì cả. Những điều mà Nguyễn Công Hoan mang rêu rao nào là ở đây "như một cái chợ", quá nhiều kẻ tầm thường đeo đuổi những cái danh hão: nào là "một dạo người ta sợ những người làm nghề cầm bút như sợ... hủi", không phải là không có lý. Quá trình dân chủ hoá trong xã hội bấy giờ vừa mới bắt đầu thì đã bị làm hỏng. Cách nhìn cao ngạo lối sống bên lề mà Nguyễn Công Hoan lựa chọn là một cách phản ứng trước thời đại. Sự phản ứng ấy lại nhiều phần phù hợp với bản chất tự do của sự sáng tạo và cũng ăn nhịp với xu hướng vận động của lịch sử, nên đã góp phần giải phóng ở Nguyễn Công Hoan một sức làm việc dồi dào mà mỗi lần nghĩ tới, không ai là không kính phục.
(Cánh bướm và đoá hướng dương, NXB Hải Phòng, 1999)
PDF - CHƯƠNG BỐN Nổi tiếp quá khứ - Nguyễn Công Hoan
PDF Cánh bướm và đoá hướng dương, NXB Phụ nữ, 2005
0 comments:
Đăng nhận xét
[im]your image url..[/im]
[youtube]your video url..[/youtube]
[si="10"]your text[/si]
[co="red"]your text[/co]
〈div style=""〉 TEXT〈/div〉