Ads 468x60px

.

Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2023

Để có tiếng cười...


Để có tiếng cười...

Nguyễn Thanh Tú


Nói đến cái hài là nói đến tiếng cười nhưng không phải là một, đúng hơn, chúng thống nhất nhưng không đồng nhất. Tiếng cười luôn có mặt trong cái hài, trong mối quan hệ chủ thể khách thể của quan hệ thẩm mỹ, cái hài là khách quan thì tiếng cười gắn liền với chủ thể.
Hề chèo - Tranh Bùi Xuân Phái.


Là kết quả của cái hài, tiếng cười bao giờ cũng vang lên từ một chủ thể nào đó hướng về phía khách quan là cái xấu, cái đáng chê. Thế nên mỹ học rất đề cao tiếng cười, coi đó là một dấu hiệu rõ nhất của tính người, "là vũ khí của người mạnh". Là mỹ học của cái hài, nhưng tiếng cười còn là mỹ học của cái đẹp, vì cười cái xấu để con người tránh xa nó để hướng đến cái đẹp, cái tốt, cái tích cực. Đào hố chôn cái xấu là một bước chuẩn bị cho cái đẹp sinh thành. Tiếng cười là mỹ học lưỡng tính hay mỹ học phổ quát, ngày nay gọi là "mỹ học nhân bản" là như vậy. Một nền văn học thiếu vắng tiếng cười là nền văn học thiếu sinh khí!

Cái hài là cơ sở tạo nên tiếng cười nên tìm hiểu, nghiên cứu hay kiến tạo tiếng cười thường trước hết phải chú ý đến đối tượng gây cười mang tính hài. Đó là những khuyết tật xấu xí, hèn kém, dối trá, ác độc, tham lam... Không phải cái xấu nào cũng đều tạo nên tiếng cười, mà chỉ có cái xấu về mặt xã hội mới tạo ra tiếng cười.

Cười một người không may bị ngã, thì là cái cười vô duyên, phản cảm. Nếu cố tạo nên tiếng cười từ sự khuyết tật bẩm sinh thì là biểu hiện của sự kém hiểu biết về mỹ học, không có sự đồng cảm, là sự nhạo báng vô đạo đức vì là cười trên sự đau khổ của người khác. Nếu khoét vào những cái vặt vãnh, đời thường, vào cái thông tục, cái không bản chất sẽ chỉ cho tiếng cười rẻ tiền…

Nhưng cũng nhìn rộng rãi hơn thì tiếng cười có ngay trong cái mới, tiến bộ khi nó tự mang trong mình cái cũ chưa gột bỏ hết, còn những cái chưa hoàn thiện. Trường hợp này tạo ra tiếng cười hài hước, đáng yêu như em bé vụng về mà hồn nhiên bắt chước người lớn hay nhà bác học đãng trí có vẻ ngoài ngô nghê…

Bản thân những cái xấu vẫn chưa phải cái hài. Xấu nhưng không đành phận xấu, lại đội lốt cái đẹp, tự cho mình là đẹp thì mới là cái hài. Phải có tiếng cười của nhà trào phúng lột, rồi giật phăng cái mặt nạ giả dối để làm trơ ra sự thật thảm hại của cái xấu ấy. Vì thế bản chất cái hài là sự mâu thuẫn giữa các mặt đối lập, giữa nội dung và hình thức, giữa đạo đức và phi đạo đức, giữa hèn kém và cao thượng, giữa dốt nát ngu đần và trí tuệ hiền minh…

Những mâu thuẫn này càng căng thẳng càng tạo ra sự bất ngờ (kịch tính) thì càng tạo nên cường độ mạnh mẽ của tiếng cười. Điều này lại dẫn đến vai trò quyết định của chủ thể cười, tức nhà trào phúng, phải trí tuệ để nhìn thấy những mâu thuẫn hài; phải có sự phẫn nộ của lý trí muốn đòi lại lẽ phải, sự công bằng; phải có trái tim đầy yêu thương con người, căm thù cái xấu bênh vực cái tốt; phải có năng khiếu trời phú, có tài năng mỹ học về cái hài biết đẩy mâu thuẫn đến cái đích bất ngờ;…

Vì vậy cảm xúc hài kịch là cảm xúc thiên về trí tuệ. Tiếng cười bật ra từ cái hài luôn là một thái độ nhận thức, phê phán, phản biện hiện thực, tức tiếng cười phủ định cái tiêu cực. Nhưng cũng có tiếng cười khẳng định, đấy là tiếng cười tự trào, cười mình để khẳng định mình, thường chỉ có ở những nhà văn lớn.

Trên cơ sở những lý thuyết cơ bản này ứng vào thực tế sẽ thấy ngay cái yếu của văn học tiếng cười hôm nay ở cả ba vấn đề cơ bản là xây dựng tình huống trào phúng, nhân vật trào phúng và lời văn trào phúng.

Tài năng của nhà trào phúng trước hết là nhìn ra những mâu thuẫn mang tính ngược đời. Cuộc đời vốn đầy mâu thuẫn nhưng phải là mâu thuẫn nghịch lý, ngược đời, trớ trêu, oái oăm, ngẫu nhiên,... mới là tiền đề cho tiếng cười xuất hiện. Đám ma thông thường là buồn thương, nhớ tiếc nhưng chỉ Vũ Trọng Phụng mới nhìn thấy đó là một đám ma "hạnh phúc". Cả gia đình ai cũng mong người được coi là đáng kính, là trụ cột, là điểm tựa... chết để làm "tang gia" vì có thế mọi người mới có điều kiện thể hiện hoặc có cơ hội làm giàu... Đó là tình huống hội tụ những mâu thuẫn ngược đời.

Tình huống này vừa mang tính truyền thống vừa nhại truyền thống. Nhại ở chỗ cũng là đám ma cổ điển ở bề ngoài nhưng bên trong lại ngược hẳn để nhằm mục đích mỉa mai, để chế giễu cái nhố nhăng kệch cỡm "tân thời" lại gắn với truyền thống thì càng đáng cười hơn. Đấy là mâu thuẫn mang tính thời đại.
"Số đỏ" là tác phẩm bất hủ vì nó giễu nhại cả một xã hội văn minh rởm dở ta dở Tây! Điều này hoàn toàn đúng với truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan. Ngoài một tài năng kiến tạo các tình huống trào phúng, nhân vật của Nguyễn Công Hoan đậm tính hài, tính bi của thời cuộc. Giết mẹ là đại bất hiếu. Giết mẹ rồi làm đám ma cực to, khóc lóc cực kỳ thảm thiết thì không còn là con người mà ngược trở về loài quỷ dữ. Con người là kết quả của môi trường. Thì ra trong môi trường phi nhân tính sẽ đẻ ra những phi nhân tính! Cái ý nghĩa phổ quát bật ra thật dữ dội, lớn lao: phải thay đổi môi trường ấy để con người được có nhân tính!

Lời văn là da thịt của cơ thể tác phẩm. Lời văn tiếng cười cũng phải đầy mâu thuẫn, nghịch lý, oái oăm, đầy những tiếng nhại, tiếng mỉa... Thể hiện trước hết ở cách đặt tên truyện, tên chương, tên nhân vật. Chỉ có cái tên ẩn dụ không thể thay thế "Ngựa người và người ngựa" mới làm toát ra được cái ý kiếp người sao mà khổ thế, làm kiếp phu xe (người ngựa) cũng chẳng hơn gì kiếp gái điếm (ngựa người). Thế mà họ lại gặp nhau. Ngẫu nhiên mà hợp lý. Vì trong không gian ấy, hoàn cảnh ấy, họ còn gặp được ai...

Tiếng cười trên sân khấu hài hôm nay yếu do kịch bản chưa tạo ra những mâu thuẫn đích đáng, thiếu tính nổi bật của đời sống xã hội. Trong khi nhận thức của khán/độc giả ngày một cao thì nhiều vở chỉ là cười để mà cười, thiếu tính tư tưởng. Mới chỉ mang tính chọc cười bông lơn vui vẻ, cười xong rồi thôi hơn là sự gây cười trí tuệ sâu sắc, càng ngẫm càng thấy thấm thía, sâu lắng. Xã hội đang rất cần những Tào Mạt, Lộng Chương, Lưu Quang Vũ… những nhà trào phúng lớn!

Chất muối hài mặn mòi luôn là sự kết tinh của những mâu thuẫn đời sống được khúc xạ qua cái nhìn nghệ thuật tiến bộ, nhân văn, được cấu trúc lại thành các tình huống giàu kịch tính trớ trêu, nhầm lẫn, éo le... Kịch bản đuối tay thường dông dài, không tiêu biểu nên thường phải viện nhờ đến yếu tố cái tục.

Phải tìm ra những câu chuyện thật sự đáng cười để kể lại, dựng lại nhằm mục đích phê phán chế giễu từ đó làm bật ra ý nghĩa tích cực làm lành mạnh, trong sạch hóa cuộc sống. Từ xa xưa người ta coi sân khấu có tác dụng "thanh lọc" là theo ý nghĩa đó. Do vậy, kịch bản luôn là khâu quyết định. Tác giả kịch bản phải thực sự tài năng cùng một sự hóa thân vào cuộc đời để nắm bắt những mâu thuẫn bản chất, có "bịa" cũng phải "bịa như thật" tức phải dựa trên lôgic thực tại của cuộc sống. Về hình thức, kịch bản hài phải cô đọng, ngắn gọn, phải có tình tiết, chi tiết hài được giấu kín để làm sao khi "mở nút" bật ra thật bất ngờ kéo theo tiếng cười ngạc nhiên, thích thú, sảng khoái của người xem. Sự dài dòng sẽ làm giảm sự chú ý của khán giả, sân khấu chỉ còn là sự "độn" cảnh, "độn" lời thoại của sự pha trò vặt...

Cái hài luôn mang ý nghĩa xã hội tích cực, có thể tích truyện của ngày hôm qua nhưng tiếng cười phải hướng đến hôm nay để giúp đời tốt hơn, lạc quan, đáng sống hơn... Vì thế diễn xuất phải làm sống động hóa kịch bản, diễn viên phải hiểu thấu ý nghĩa chủ đề, có hiểu đời mới đau đời. Nhân vật Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan càng đau bên trong (vì cha ở nhà đang hấp hối) nên càng diễn xuất sinh động (trên sân khấu) mà hấp dẫn khán giả!

Không phải cứ có tiếng cười là cần đến cái tục, vì cái tục chỉ là một trong nhiều phương tiện, phương thức gây cười. Ngay ở truyện tiếu lâm hay ca dao trào phúng cái tục cũng chỉ xuất hiện khi cần đến sự vạch trần, đả kích, châm biếm đích đáng đối tượng. Sự có mặt của nó còn tùy thuộc chủ đề, hoàn cảnh không gian, nội dung kịch bản, tùy thuộc đối tượng tiếp nhận. "Đônkihôtê" của Xécvantec có cái tục đâu mà sao tiếng cười triết lý, chua chát như thế. Ở ta, tiếng cười của mỹ học Nho gia Nguyễn Khuyến, trước đó là Hồ Xuân Hương rất ít cái tục nhưng sao mà đau đớn đắng đót và tinh tế sâu sắc... Lạm dụng cái tục là hạ thấp và coi thường độc giả!



Nguyễn Thanh Tú






Tranh minh họa hai "thầy trò" Đôngkisốt.

https://hanghieugiatot.com/vai-tro-cua-cai-hai-trong-my-hoc

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2023

Phê bình văn học “cũng lắm công phu”...


Phê bình văn học “cũng lắm công phu”...

Hồng Diệu


Thế đấy! Đụng đến lý luận là mệt lắm! Trích nữa thì còn dài, nhưng cũng không cần thiết, vì tưởng đã quá đủ! Nói phương pháp luận chỉ là “công việc của triết học”, ít nhất cũng chứng tỏ người nói vừa lơ mơ về triết học, vừa lơ mơ về nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, lại còn khá... liều nữa!

Hội nghị lí luận, phê bình văn học lần thứ 4.


1. Nếu chỉ với một “nghề chơi” thôi, mà cụ Nguyễn Du đã viết trong “Truyện Kiều”:

Nghề chơi cũng lắm công phu thì dễ ngẫm ra rằng nghề nào cũng cần “lắm công phu” cả, huống chi là chuyện phê bình văn học. Đã phê bình văn học, nhất thiết phải bỏ “lắm công phu” vào đấy.

Vấn đề là, có một số cây bút không chuyên về phê bình trong làng văn của ta, kể cả những vị được coi như “cây đa cây đề”, đôi khi vì những lý do khác nhau, đã quên mất điều này, nghĩa là họ chả cần công phu, hay để rất ít công phu vào chuyện phê bình của mình mà vẫn cứ tưởng rằng mình đúng, mình hay! Vì vậy, mới... có chuyện!

2. Ta biết, niêm luật của thơ lục bát thể hiện sự phối thanh của thể thơ này, đã được giới nghiên cứu xác nhận bằng công thức dưới đây:

Câu lục: O B O T O B
Câu bát: O B O T O B O B

Trong đó B là thanh bằng, T là thanh trắc, O có thể thanh bằng, có thể thanh trắc. Xét theo chiều ngang (của từng câu) thì bằng hay trắc thể hiện luật thơ. Xét theo chiều dọc, thì các tiếng ở vị trí 2, 4, 6 của câu lục phải lần lượt “niêm” (dính) với các tiếng ở vị trí 2, 4, 6 của câu bát (bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc).

Các câu lục bát không giữ niêm và luật đã nói thì gọi là lục bát biến thể, hay câu thơ thất niêm, phá niêm.

Đọc hai câu thơ này của Xuân Diệu, có thể thấy cụ thể một phần công thức trên:

Tôi cầm mùi dạ lan hương
Trong tay, đi đến người thương cách trùng

(Tuy nhiên, muốn thấy hết công thức ấy, còn phải so hai câu này với các câu lục bát khác nữa).

Kể ra, chuyện niêm luật của thơ lục bát còn những chỗ tỉ mẩn, lôi thôi, rắc rối. Nhưng hãy dừng lại ở đây, vì vấn đề mà ta sẽ bàn không nằm ngoài mấy điều vừa nói.

Tôi đọc thấy mấy lần nhà thơ Xuân Diệu nói về niêm luật trong thơ lục bát (khi phê phán thơ của mấy nhà thơ trẻ) mà lúc thì bất nhất, khi thì không chính xác. Trong quyển “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam” tập I, Nhà xuất bản Văn học, 1981, Xuân Diệu viết về câu: Trên án sẵn có con dao:

“Đó là câu phá niêm duy nhất trong “Truyện Kiều””.

Đến quyển “Công việc làm thơ”, Nhà xuất bản Văn học, 1984, nhà thơ lại quên điều mình đã viết ấy mà lại viết:

“Trong hơn ba ngàn câu thơ Kiều, Nguyễn Du không lần nào dùng điệu lục bát biến thể”!

Không! “Truyện Kiều” đã có những lần “dùng điệu lúc bát biến thể” và cũng không chỉ có câu “phá niêm duy nhất” như nhà thơ Xuân Diệu nói. Tôi còn thấy ít nhất là ba câu nữa:

- Sao chẳng biết ý tứ gì?
- Đau đớn thay phận đàn bà!
- Tưởng bây giờ là bao giờ

(Xin đối chiếu với công thức đã dẫn).

Thiết tưởng, chỉ cần dụng công một chút thôi, chắc chắn nhà thơ đã không truyền đi cái sai về niêm luật ở trên, mà nhìn ra, đâu có khó!

3. Ít người biết rằng nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903-1977) còn làm thơ. Có điều, thơ ông chỉ làm để tặng bạn bè. Nó cũng mang đặc điểm phong cách ở văn xuôi của ông: Hóm hỉnh, dí dỏm, và... hay. Đại loại như những câu này, trong bài “Năm Dần mừng Tú Mỡ”, viết ngày 15-2-1974:

Năm nọ, anh đi ra nước ngoài,
Về nhà, anh đi ngoài ra nước.
Chẳng hay xúp xiệc xơi thế nào,
Anh phải chữa mãi mới khỏi được.

... Thế rồi Quảng Bá lại Quảng Bá
Thì thọt vào, ra, vào, ra, vào
Tôi đi nghỉ rét lo cho anh.
Chẳng biết ra vào vì thế nào.

Thế nào? Thể lực thoái hay tiến?
Không khéo Bành Tổ phát đơn kiện
Truất chức Thường vụ Hội Nhà văn
Bắt đưa ra Hội Nhà văn... Điển...

Nhà văn Nguyễn Công Hoan lại có những lúc bình luận, tranh luận về thơ nữa. Có điều, ở lĩnh vực này cũng thấy ông đôi ba lúc... sơ hở, như trường hợp này. Bài thơ “Năm mới chúc nhau” (hay là “Chúc Tết”) của Tú Xương có năm khổ thơ, mỗi khổ bốn câu. Bốn khổ trên, các câu đầu thứ tự như sau:

- Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
- Nó lại mừng nhau cái sự giàu
- Nó lại mừng nhau cái sự sang
- Nó lại mừng nhau đẻ lắm con

Và khổ cuối của bài thơ là:

Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người!

Khác với nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn Nguyễn Công Hoan cho khổ thơ cuối của bài thơ không phải của Tú Xương, mà viết:

“Đọc bốn câu này, ta phải tự hỏi: Tú Xương làm bài thơ chúc Tết này sau ai, mà lại nói là bắt chước”? (Xem: Trần Tế Xương - Về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, trang 511).

Thật ra, cũng không khó gì mà thấy ở bốn khổ trên, Tú Xương “mời” mọi người “Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau”... Đến khổ cuối, Tú Xương “bắt chước ai”, nghĩa là bắt chước “nó”, những người vừa chúc ở bốn khổ trên, để chúc (theo cách của mình), chả có gì vô lý để phải “tự hỏi” như trên! Nhà văn mới đọc lướt qua, không để thêm công phu mà đọc và nghĩ nữa, mới hỏi một câu... không cần hỏi, như thế!

4. Trường hợp sau đây thì thuộc về một nhà thơ cũng rất quen biết, đang đồng hành với giới văn chương của ta, cho tôi được không nói tên.

Có một cuộc tranh luận nho nhỏ mà khá sôi nổi và bất phân thắng bại về thơ chưa lâu lắm. Do khuôn khổ các tờ báo, thời gian tranh luận không được dài, một số vấn đề khơi ra hồi ấy chưa được bàn, có cả vấn đề rất sơ đẳng.

Tôi lưu ý đến chuyện này: Khi một nhà phê bình... phê một nhà thơ là đã “sai từ một vấn đề có tính chất phương pháp luận nghiên cứu”, thì một nhà thơ khác, chắc là để bênh vực bạn mình, lập tức có một kết luận tưởng chắc như đinh đóng cột rằng, nhà phê bình “đã nhầm giữa phương pháp nghiên cứu văn học với phương pháp luận, là công việc của triết học” (Báo Văn nghệ, số 42, 16-10-1999). Cũng có nghĩa nhà thơ ta muốn nói: Phương pháp luận không phải “công việc” của văn chương, không phải “công việc” của thơ, mà là công việc của triết học (!)

Vậy, ta thử xem, trước hết, các nhà triết học nói gì về vấn đề này.

Trong quyển “Từ điển triết học” do Nhà Xuất bản Sự Thật (Hà Nội) in lần đầu năm 1958, về sau tái bản nhiều lần, trong bản in lần thứ ba (1976) ở trang 753, các nhà triết học giải thích:

“Phương pháp luận:

a) Khoa học về phương pháp, về những phương pháp nghiên cứu; b) Tổng hợp những cách, những phương pháp tìm tòi trong một ngành khoa học nào đó”.

Thế là rõ. Phương pháp luận đụng đến “một ngành khoa học nào đó” nghĩa là không chỉ đụng đến riêng một ngành triết học.

Để thấy rõ hơn nữa, có thể xem quyển “Thuật ngữ nghiên cứu văn học” của Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Vinh, in năm 1974. Các tác giả định nghĩa: “Phương pháp luận nghiên cứu văn học” là:

“Bộ môn nghiên cứu những phương pháp và những nguyên tắc chỉ đạo sự nghiên cứu văn học. Do sự phát triển của nghiên cứu văn học càng ngày càng tự giác về mặt phương pháp, phương pháp luận nghiên cứu văn học cần được xác lập - và thực tế đã xác lập - thành một bộ môn riêng.

“Phương pháp luận nghiên cứu văn học có quan hệ mật thiết với lý luận văn học. Mỗi quan niệm về lý thuyết văn học đều có tiềm lực phương pháp luận. Mỗi quan niệm lý thuyết được vận dụng vào sự phân tích văn học đều có giá trị phương pháp luận...

“Thuật ngữ này còn được dùng để chỉ toàn bộ những phương pháp cần thiết cho nghiên cứu văn học...” (trang 188)

Lại thấy, sau cuộc tranh luận không lâu, gần như đồng thời xuất hiện hai quyển sách mang cùng một tên: “Phương pháp luận nghiên cứu văn học”; một của Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Văn Dân (2004), một của Giáo sư - Tiến sĩ Phương Lựu (2005).

Ta thử đọc vài dòng ở quyển sách của Nguyễn Văn Dân, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội (2004):

“Bất cứ một ngành hay một bộ môn khoa học nào cũng đều không thể không có phương pháp luận của riêng mình. Và mọi người đều biết rằng, sự phát triển của một ngành khoa học phụ thuộc một phần quan trọng vào sự đóng góp của phương pháp luận nghiên cứu khoa học nói chung và của phương pháp luận nghiên cứu của ngành khoa học đó nói riêng” (trang 9).

“Phương pháp luận nghiên cứu văn học là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu một cách hệ thống các nguyên tắc chỉ đạo việc thực hành nghiên cứu văn học cũng như nghiên cứu các phương pháp nghiên cứu văn học, phục vụ cho lý luận, lịch sử và phê bình văn học” (trang 42).

Thế đấy! Đụng đến lý luận là mệt lắm! Trích nữa thì còn dài, nhưng cũng không cần thiết, vì tưởng đã quá đủ! Nói phương pháp luận chỉ là “công việc của triết học”, ít nhất cũng chứng tỏ người nói vừa lơ mơ về triết học, vừa lơ mơ về nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, lại còn khá... liều nữa!

Hồng Diệu