Nếu như, diện mạo nhân vật của Nguyễn Công Hoan phù hợp với tính cách, bản chất thì hành động, cử chỉ của nhân vật làm lộn trái, phơi bày bản chất nhân vật. Mỗi nhân vật của ông đều phơi bày những hành động thể hiện xung đột thảm hại có tính chất phổ biến giữa bản chất, tính cách với địa vị, thân phận xã hội của con người. Đó là những hành động giàu kịch tính, luôn tạo được sự bất ngờ – một yếu tố quan trọng trong cách xây dựng truyện trào phúng. Để tạo được cái hồn trong tác phẩm, Nguyễn Công Hoan sử dụng biện pháp tương phản và tăng cấp trong việc miêu tả hành động của nhân vật.
Cô Nguyệt lẳng lơ, dâm đãng với những lời thề bồi đầy danh dự:
“Tuy tôi chưa là vợ anh, nhưng cũng như là cô vợ nên tôi dốc một lòng chung thủy thì chữ trinh tôi giữ nguyên cho anh. Nếu anh ngờ tôi loan chung phượng chạ thì đây này, tôi sẽ chết như thế này này!” (Oằn tà oằn).
Một bà tham, bà phán bày tỏ sự biết ơn với công lao, sự khó khăn vất vả của người chồng bằng cách bỏ chồng, bỏ con vì cuộc sống mới giàu sang (
Thế là mợ nó đi Tây). Một gái làm tiền (
Ngựa người và người ngựa) với cách ăn mặc sang trọng mà phải nhảy tọt xuống đất khi anh phu xe đòi hai hào rưỡi. Và khi lộ rõ chân tướng đã phải lừa anh phu xe trốn mất để lại sự choáng váng, thất vọng của con “ngựa người” đó. Mỗi một nhân vật đều tự bộc lộ mình bằng hành động. Ta thấy xót thương cho sự bất hạnh của người phu xe đã bị lừa mất tiền công và hai hào bởi con “người ngựa”, nhưng cũng thấy được sự ranh ma, khôn lỏi trong con “ngựa người” đó qua hành động chỉ chạy “dưỡng lão” thôi, đít nhổm mạnh mà chân bước ngắn.
Nhân vật của Nguyễn Công Hoan thể hiện những hành động hết sức lôgic, hợp với bản chất của nó. Với ông, đã là quan lại, địa chủ, bọn giàu có trong xã hội thì đích thị là những kẻ thích ăn bẩn và toàn là hành động đê tiện, bẩn thỉu. Nguyễn Công Hoan thật tài tình khi tả hành động này của huyện Hinh một cách bất ngờ và thú vị:
“…tự nhiên như không, ông cúi xuống thò tay nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở giầy bám vào, rồi bỏ tọt vào túi”.
Đó là hành động ăn cắp của kẻ có trình độ ăn cắp đạt tới mức nghệ thuật. Thật vậy, trình độ ăn cắp, ăn cướp của quan lại quả là cao.
Ăn cướp một cách trắng trợn mà vẫn không mang tiếng xấu trước dư luận. Ngay những kẻ ăn cướp cũng phải phục vì cướp trên tay tài sản cướp được của thằng ăn cướp một cách đàng hoàng (
Thằng ăn cướp).
Sự vô liêm sỉ đến mức tàn nhẫn của bọn giàu có vượt ra khỏi lẽ tự nhiên ở đời qua hành động. Chúng mượn ngày giỗ bố (
Báo hiếu, trả nghĩa cha) để khoe khoang, phô trương thanh thế, trong khi chúng nhẫn tâm đuổi người mẹ đẻ ra khỏi nhà vì sợ bị xấu mặt. Cũng thật là bỉ ổi và nhơ nhuốc khi một kẻ muốn tiến thân đã dùng đạo “xuất giá tòng phu” để bắt vợ cống cho quan trên (
Xuất giá tòng phu) hay lấy bốn chữ “tiết hạnh khả phong’’ bằng cách hiến thân. Trong cái xã hội thượng lưu đó đầy rẫy sự xấu xa, bỉ ổi và đê tiện. Một ông tham quan tự “ăn cắp” ví của mình rồi
“tôi vờ thế, chứ ví đây này, có mất đếch đâu!” vì sợ tốn kém (
Mất cái ví). Không chỉ có vậy, giữa những kẻ tự cho mình thuộc tầng lớp thượng lưu cũng ăn cắp của nhau, lừa bịp lẫn nhau (
Cái ví ấy của ai,
Phúc tinh)…
Sau mỗi một hành động của nhân vật, tiếng cười bật lên với nhiều cung bậc khác nhau. Đó là tiếng cười khoái trá, sảng khoái. Đó cũng là tiếng cười mỉa mai, châm biếm, đả kích, đầy chua xót. Đó còn là tiếng cười căm phẫn xã hội đồng tiền đưa đẩy con người vào những hoàn cảnh trớ trêu mà cái bi, cái hài xen lẫn hòa trộn. Đọc
Kép Tư Bền, người đọc cảm nhận được đằng sau tiếng cười là hoàn cảnh thương tâm, đầy nước mắt. Người kép hát tài hoa phải diễn trò mua vui trong hoàn cảnh bố lâm bệnh nguy kịch. Tâm trạng đau khổ nhưng Tư Bền vẫn phải diễn trò. Màn một, màn hai, màn ba, anh đều phải
“hò, hét, ngâm, cười, múa, nhẩy để mua gượng lấy những tràng vỗ tay”. Cùng với những tràng vỗ tay hưởng ứng, ngợi khen của khán giả ở từng màn là tâm trạng đau đớn, khổ tâm của anh trước sự ngày càng nguy kịch của cha mình. Và đến khi buổi diễn kết thúc sau những tiếng vỗ tay thì cũng là lúc Tư Bền không bao giờ gặp lại cha. Thật là một vở diễn bi hài kịch. Nguyễn Công Hoan đã đặt các nhân vật trong các tình huống mâu thuẫn hài hước khác nhau để từ đó bộc lộ bản chất bằng chính hành động tạo nên tiếng cười hài hước. Đó là những hành động làm nổi bật lên mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, giữa tự nhiên và cái trái tự nhiên (
Cái vốn để sinh nhai), giữa khả năng và ý đồ (
Đào kép mới)… để từ đó mỉa mai, châm biếm, đả kích bộ mặt thật của xã hội đương thời.