Ads 468x60px

.

Thứ Năm, 7 tháng 12, 2017

Sách "Nông dân với địa chủ" - Tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (NXB Văn Nghệ 1955)



Mời nghe đọc


Mời đọc Bản đánh máy


Tập truyện ngắn

Nông dân với địa chủ

Nguyễn Công Hoan


Nông dân với địa chủ - Tập truyện ngắn
Nông Dân Với Địa Chủ
NXB Văn Nghệ 1955
196 Trang

Để đọc, xin nhấp chuột vào truyện muốn xem.

Địa chủ



Minh họa: Kho tàng truyện hay

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. Cô Vân | 2. Phú Thăng


Mời đọc Bản đánh máy

Địa chủ

Nguyễn Công Hoan


Căn cứ vào những lời tố khổ của anh chị em nông dân xã Quang Trung để khớp những tài liệu ấy cho thành hệ thống, thì ta thấy lịch sử làm giầu của thằng địa chủ Trừng là một lịch sử hết sức nhơ bẩn, lịch sử ấy bôi toèn toẹt bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của không biết bao nhiêu trung bần cố nông trong mười hai huyện ở Thái Bình.

Bố thằng Trừng xưa kia làm lý trưởng, thuộc vào loại cường hào gian ác. Bố nó đương làm giầu đùng đùng, thì xẩy một năm vùng nó có bệnh dịch tả. Một ông đồ ở làng chết. Bố nó bắt tang gia phải mổ lợn để cúng tế và mời làng, thì mới được đưa bằng đòn. Nếu không thì phải làm ma chui. Nghĩa là vợ con khênh lấy, đốt đuốc mà đưa đi ban đêm, không được khóc lóc. Bà đồ phải cầm ruộng để theo đuổi tục lệ. Bố nó được mời ăn và được biếu cái thủ lợn. Ăn xong, bố nó thượng thổ hạ tả, rồi chết quay lơ ra.

Đáng lẽ bố nó chết, thì hết uy thế chính trị. Nhưng mẹ nó vận động ngay cho nó kế tục được sự nghiệp bóc lột của bố nó. Nó mới có mười bảy tuổi, nhưng khai sinh thặng lên một tuổi, là mười tám, để ứng cử lý trưởng thay bố. Rồi dần dần, nó làm chánh tổng, ăn tiên chỉ.

Thế là hai bố con nó hống hách một vùng trong vòng hai mươi bảy năm, thét ra lửa.

Nhưng từ năm bốn mươi ba tuổi trở đi, nó không làm cái nghề đầu chảy đít thớt nữa. Nó mua hàn lâm, chạy làm nghị viên, lo hàm Quang Lộc, và được thưởng bốn cái mề đay, đeo choáng cả ngực. Và đến năm 1942, thì nó hoàn thành việc xây dựng cho con nó trên đường công danh. Con út nó đỗ tri huyện. Nó được làm cụ cố.

Trước khi bố nó chết, thì cả cơ nghiệp mới có độ mươi mẫu ruộng, toàn thuê người làm. Mẹ nó vốn bị bán thân bất toại, không đi lại được, chỉ nằm dí một chiều. Giá như người khác thì thế là đời bỏ đi rồi đấy. Nhưng con mẹ này thì nằm một chỗ thật, nhưng nội kẻ ăn người làm, đố ai nghỉ ngơi được với nó một phút, và ăn bớt được của nó một trinh.

Nhà nó có đồng hồ báo thức, nên người ăn người ở làm lụng theo giờ giấc hẳn hoi. Đêm trước, nó giao công việc hôm sau cho người làm. Nhưng nó vặn đồng hồ nhanh lên nửa giờ, để mọi người phải đến sớm. Khi gần hết buổi, thì nó vặn chậm lại nửa giờ. Cho nên, ngày nào cũng vậy, từ mười hai giờ trở đi, người làm mới lục tục về đến nhà. Không những nó bóc lột mỗi người mỗi ngày một giờ như thế, mà còn bóc lột người ta bằng cách nói bớt diện tích ruộng nữa. Ví dụ, giao cho ai cấy một mảnh năm sao, thì nó bảo là ba, hẹn buổi sáng phải xong. Bởi thế, người nào cũng phải cố mửa mật. Không xong, nó chửi là lười rồi trừ công.

Khi ở đồng về, anh em đói mèm, mệt lử. Nhưng con mẹ muốn đỡ tốn gạo, thì nó luộc sẵn một nồi đẩy sắn, và thổi cơm muộn. Nó nói ngọt với anh em là xuống bếp giúp một tay cho chóng chín cơm. Trong khi chờ đợi, nó bảo anh em hãy ăn tạm sắn để điểm tâm. Vì bụng ai cũng lép kẹp, nên không ai còn nói chuyện ăn tạm nữa. Anh nào cũng đánh no phích. Đến lúc cơm dọn ra, thì ai cũng bứ cổ lên mất rồi.

Tuy vậy, mà mẹ con cũng không rời mắt xem xét từng người ăn khỏe, yếu thế nào. Nó bảo người đỡ nó nằm lại, để quay mặt ra phía người làm ăn cơm. Nó đếm ngầm từng bát. Anh nào ăn nhiều, ăn mặn, thì nó tìm cớ, đổ cho là ăn cắp, là lười biếng, để không mướn nữa. Một đặc tính của nó là thà chịu nghe người ta chửi là quỵt công, còn hơn là phải trả công.

Thằng Trừng làm lý trưởng, cũng gian ác như những cường hào khác. Nhưng có điều là nó biết cách cư xử với tùy từng người. Nên nó chóng giầu to. Đối với những thằng người mũi hơi lõ, tóc hơi quăn là một, và những thằng người ở ngực có lủng lẳng cái thẻ bài ngà là hai, thì nó cong gập lưng làm đôi để vái và biếu tiền. Còn đối với những hạng lưng đen khố cao, cả ngày lầm lì đi sau con trâu ở ngoài ruộng, thì nó ưỡn ngực lên để chửi và đánh, cùng bóc lột công sức và tiền bạc.

Ông Phiên, cũng như hàng trăm nông dân khác, làm tá điền cho nó, cấy của nó ba mẫu. Một mẫu thu hoạch năm tạ, một mẫu tám tạ và một mẫu mười tạ. Thế mà ông phải nộp tô đồng loạt cho nó tất cả mười lăm tạ. Vì ông không có trâu, không có thóc giống, nên phải thuê trâu của nó, một năm phải trả ba tạ và vay thóc giống của nó, hai mùa là một trăm hai mươi cân.

Vậy thì, thu hoạch có hai mươi ba tạ, ông phải trả cho địa chủ mười chín tạ hai mươi cân, còn có ba tạ tám mươi cân để gia đình năm người, cả lớn lẫn bé, sống trong mười hai tháng. Nghĩa là ăn, mặc, tiêu, nộp thuế, vân vân, lúc khỏe mạnh.

Nhưng nói ba tạ tám mươi cân là nói trên lý luận thôi. Thực tế, trả nợ xong, thì không còn được đến ba tạ. Vì địa chủ thu tô và lấy nợ bằng thứ thùng riêng, to hơn thùng thường. Đáng lẽ nhà ông Phiên, ăn độn quanh năm, thì phải mười tạ mới tạm đủ. Như thế này là thiếu đứt mất chín tháng. Ấy là mới nói đến khoản ăn vào mồm.

Vì thế, vợ chồng con cái ông Phiên phải làm nghề phụ để kiếm thêm, như làm hàng say hàng xáo, hoặc đan lát, chồng mầu, mò cua bắt ốc. Có vay của thằng Trừng cũng chỉ dám vay độ ba tạ. Mà nó cũng chỉ cho vay nhỏ giọt đến ba tạ là cùng.

Cho vay thì nó gạt bằng thùng nhỏ hơn thùng thường, lãi thành bốn tạ rưỡi một vụ. Nhưng đến tháng ba, nó mới đòi, và đòi một phần bằng thóc, một phần bằng tiền. Ngày mùa, tính theo giá năm 1953, thì một tạ là hai vạn ngân hàng, nhưng đến tháng ba thì ba vạn. Nếu có thóc và được trả - hãy nói ví dụ rất vô lý là có thóc - thì nó chỉ lấy cho hai tạ. Còn một tạ gốc và một tạ rưỡi lãi, nó bắt bằng tiền, tức là bảy vạn rưởi. Thế là nó nuốt tươi hai mẫu ruộng. Nếu không có ruộng thì viết văn tự, để đời cha sang đời con, kéo cày mà lo trả cái nợ cõng khỉ.

Ấy là mới nói đến tô chính. Còn như nhà nó có giỗ chạp, ma chay, cưới xin, v.v., cùng tết tháng năm, tháng mười và tết nguyên đán, thì ông Phiên đều phải nộp đồ lễ bắt buộc, theo lệ nó định sẵn, như đường, mứt, cau, rượu, chim ngói, gà thiến. Mỗi năm khoản tô phụ tốn ít ra là năm mươi cân. Không nộp thì bị nó ghi vào sổ nợ, hoặc dọa lấy lại ruộng.

Ngoài việc dùng ruộng đất để chiếm thêm ruộng đất, thẳng Trừng lại còn phát tài bằng những khoản mà nó gọi là lặt vặt. Nó mở sòng cờ bạc, cho vay nặng lãi, quỵt công người ở, bóc lột nhân công người ở, vợ lẽ, con nuôi, con, cháu rể. Nó lại ăn của đút, ăn cắp công quỹ, chiếm ruộng tư một cách trắng trợn, hoặc bằng cách mua rẻ bán đắt, đi lừa và ăn cắp vặt.

Những khoản hiện nay có thể tính được trong thời gian hai mươi bảy năm bố con nó ôm chân đế quốc lấy thần thế để ức hiếp dân làng thì như sau này:

Thuế đinh, mỗi suất nó thu hà lạm 0đ50. Thu của 682 suất được 9.207đ. Tính ra thóc thời bấy giờ là 9.207 tạ.

Thuế điền, mỗi mẫu lạm không đồng 0đ50. Thu của 110 mẫu được 1.485 tạ.

Trong hai mươi chín năm, nhà nó có hai người nai lưng ra làm như con vật, và chịu đánh chửi như kẻ thù. Một người là đàn ông, gọi là con nuôi. Một người là đàn bà, để bị đẩy đọa thêm về nhục dục, gọi là vợ lẽ. Hai người này, khi ra khỏi nhà nó đều trắng tay. Mỗi người làm trung bình mỗi năm hai mẫu, sản lượng mỗi mẫu 11 tạ. Vậy là 1.276 tạ. Họ là cố nông, chỉ nguyên có hai cánh tay lao động, nên thẳng Trừng phải cho ăn, cho mặc, cho dụng cụ. Ăn thì họ ăn độn, với muối vừng, dưa khú tính mỗi ngày một cân thóc. Một năm 720 cân. Hai mươi chín năm, 211 tạ 70 cân. Mặc thì toàn đồ thừa, mỗi năm chỉ được hoặc một áo, hoặc một quần mới may bằng thứ vải mỏng. Tính ra tất cả là 8 tạ 12 cân. Trong hai mươi chín năm, hao mòn dụng cụ 5 tạ 80 cân. Thóc giống, công trâu và phân gio, chính tay họ làm ra và nuôi, nên không thể kể là của thằng Trừng. Vậy thì trong hai mươi chín năm, họ mới lấy ra được có 225 tạ 62 cân. Còn vào túi thẳng Trừng 1.050 tạ 38 cân. Ấy là chưa kể những lợi trồng mầu, nuôi lợn, và những lợi linh tinh khác.

Nó quỵt công của mười sáu người, 87 tạ. Nó lấy hồ và bắt cờ bạc, trai gái, rượu lậu, được lễ 100 tạ 10 cân. Nó ăn những việc sang điền, nộp cheo, xui nguyên giục bị đi kiện cáo, vợ chồng bỏ nhau để xử hòa, nhận thực trâu bò gian, v.v., 45 tạ 30 cân. Nó chiếm ruộng công giá trị 9 tạ.

Không làm lý trưởng nữa, nhưng vẫn nhúng tay vào việc công, nó thu thóc cho Nhật một năm, ăn bớt 10 tạ. Được phát muối bốn chuyến, nó chỉ bán cho làng hai chuyến, gạt bằng que cong, đong bằng bát nhỏ, và tăng mỗi cân ba xu, được 68 tạ. Bán một chuyến diêm, ăn lãi 1 tạ 50 cân.

Thế là chưa kể cái lợi to nhất của nó là thu tô chính, trung bình của 1.200 mẫu, trong mười chín năm, là 228.000 tạ. Và tô phụ của 63 tá điền là 239 tạ.

Tổng cộng trong hai mươi chín năm, nó cướp không của nông dân mất 230.302 tạ 28 cân thóc.

*
*      *

Có tiền, nó làm gì chẳng được. Nó quen và chiều chuộng từ thằng Thống sứ trở xuống cho đến anh lính lệ. Nó bắt dân làng đắp rộng con đường từ đường cái đá hàng tỉnh vào làng. Để ô tô các quan đi vừa. Hai bên, trồng phi lao cao vút. Gần cổng làng, trên khoảng một mẫu, nó dựng sinh phần, để sau này chôn nó. Nhưng may cho nó, là tường mới xây xong, thì Tổng khởi nghĩa. Cho nên nó bỏ dở cái việc lố bịch ấy. Bộ tượng tứ dân, đắp bằng xi măng, to tướng, giả đồng đen, rập đúng kiểu tượng sĩ nông công thương ở vườn hoa Canh nông Hà Nội, còn nằm chỏng gọng ở ruộng, chứ chưa lên bệ. Người qua đường, không biết dùng danh từ sinh phần, nên gọi chỗ ấy là nghĩa địa. Họ rủa: "Nghĩa địa nhà nó rộng thế này, thì chôn bao giờ cho hết người!"

Dinh cơ nó ở còn rộng gấp năm sinh phần của nó. Khu vực vuông vắn ấy, có tường xây xung quanh bằng đá ong, cao bốn thước. Mặt tường trồng xương rồng. Chỗ nào không có xương rồng, thì cắm mảnh chai mảnh sành. Hoặc cho tẩm xuân leo kín. Bốn góc có bốn chòi canh nhô cao lên.

Anh muốn vào nhà nó? Thì trước hết anh phải chuẩn bị tư tưởng, là đừng sốt ruột, vì phải chờ. Giật chuông xong, anh hãy đợi ít ra là năm phút. Khi nghe tiếng gót chân người ở trong chạy ra, anh chớ vội mừng là cổng sẽ mở cho anh vào. Không! Anh người nhà ra đó, mới nhấc cái cửa ở lỗ cỏn con phía trên lên, ngắm anh, rồi hỏi tên anh là gì, hỏi ai, có việc gì. Khi anh trả lời xong ba câu đó, thì lỗ nhỏ lại đóng kín lại, và đề nghị anh hãy đợi một lát nữa. Độ mười phút sau, khi có lệnh, anh mới được vào.

Lúc ấy, thì một cánh cổng hé mở ra, rít trên bánh xe. Anh chịu khó mà lách vào. Cửa ấy chỉ mở cho vừa một người đi, không phải không có duyên cớ. Một là nó nặng quá, đè chịt lên cái bánh xe, không cựa nổi trên mặt đất gồ ghề. Hai là nó chỉ cốt cho từng người vào một để lỡ có nhiều kẻ gian, thì không thể một lúc cùng ùa vào, nguy hiểm cho người mở cổng.

Anh theo con đường thẳng, dài giữa hai cái ao rộng, nước đục ngầu. Rồi qua cái cổng thứ hai, nhỏ hơn, nếu anh yếu bóng vía, thì anh sẽ giật nảy mình, vì có đến chục con chó to lớn, cứ nhe răng; nhẩy lên anh chồm chồm mà cắn.

Khi đàn chó được người mắng, mỗi con đi một ngả, anh đỡ trống ngực và đỡ hoa mắt. Thì anh được bình tĩnh mà nhận xét. Anh thấy lố nhố một lũ nhà gạch nhỏ, cái nào kiểu cũng ngô nghê, nhưng rất kiên cố. Những nhà ấy làm ở giữa những vườn cây ăn quả, trông rất vô tổ chức. Đó là nhà thờ, nhà cụ, nhà ông, nhà bà cả, nhà bà hai, nhà bà ba, nhà kho, nhà bếp, nhà xí, v.v., và đến ba bốn cái nhà khách. Tùy hạng, khách được tiếp trong tùy từng nhà.

Có lẽ anh ngạc nhiên và muốn tìm xem thằng Trừng chứa thóc ở nhà nào. Phải là một cái nhà to lớn lắm mới đựng đủ thóc của nó.

Thì đây, những nhà lắt nhắt vừa kể trên kia, cái nọ xây cách xa cái kia, không phải là vô tình và vô ý. Đấy là những tên lính đứng quanh một khu ở giữa, để canh. Khu vực ấy cũng có tường cao bốn thước quây kín. Đứng ở ngoài mà nhìn, ta chỉ thấy có tường, và phía trong, hiện lên những cái mái tròn chúp nhọn như hình cái nón, lợp bằng lá gồi. Nhưng nếu anh lách mắt qua cái kẽ ở khe ván của cái cửa độc nhất, hẹp độ tám mươi phân, thì anh mới rõ nghĩa đen của danh từ cây thóc. Nó là một cái bệ bằng xi măng, xây cao hơn mặt đất, tròn, đường kính độ mười thước. Thóc quây trên bệ, nó bằng liếp, trét bằng từng cây tre lớn. Thóc nhiều, thì ken liếp cho cao dần, một lần, hai lần, ba bốn lần. Và khi nó cao trên mười lăm thước, thì lợp mái lá, hình cái nón, lên trên. Tóm lại, cây thóc là cái cót thóc, nhưng khổng lồ và kiên cố. Trong khu vực ấy có tất cả chín cây thóc cao lồng lộng như thế.

Thóc chứa trong chín cây ấy là thóc của một nghìn hai trăm mẫu ruộng, do bàn tay lao động của nông dân làm ra. Ruộng làng, ruộng làng lân cận, ruộng làng xa, và cả ruộng trong mười hai huyện ở Thái Bình. Đến bây giờ, bốn bố con nó chiếm ước năm nghìn mẫu, và chúng nó ở riêng một khu vực giữa làng, nhà gạch san sát, trông xa như một thành phố nhỏ.

Ở các xã có ruộng, nó đều có anh em, cháu họ, cháu rể, hoặc những người hàm ơn với nó và cứ nhận nó là bố nuôi. Nó chạy cho những tay sai ấy làm lý phó trưởng, chánh phó hội, chánh phó tổng. Có đứa cũng được làm đến nghỉ viện. Cho nên nó không đánh rơi vãi một hạt thóc và cũng không bị quỵt một xu nợ nào.

Con nó đứa nào học cũng dốt như mèo. Nhưng khi chúng nó rời ghế nhà trường về, để theo đuổi nghề bóc lột và ăn cắp, là cái nghề gia truyền thì học một biết mười, đứa nào cũng giàu ùn ùn. Chả thế mà thằng Trừng nhiều lần, đã phải than thở bằng một câu, lẫn lộn cả ý nghĩa nhũn nhặn với kiêu ngạo:

- Ở nhà tôi, chữ thì lôi nó vào, mà nó cứ ra, nhưng tiền thì đẩy nó ra mà nó cứ vào.

Nó cũng thấy cái danh giá hường mua và nghị gật của nó là danh giá hão. Người ta chỉ trọng trước mặt, và sau lưng thì chửi thầm. Cho nên, nó vẫn căm với chữ. Vì vậy tốn kém mấy, thì nó cũng quyết tâm đến kỳ được cho thằng con út theo học đến tri huyện. Vì thằng này có khiếu hơn cả những thằng anh.

Thằng Trừng đã đạt được nguyện vọng bằng tiền. Như thế này.

Nó biếu tên đốc học trường tỉnh một cái lọ đồng đen, để xin cho con nó vào lớp đồng ấu, tức là lớp bét. Từ lớp đồng ấu đến lớp sơ đẳng, nó đi lại, tết nhất, các ông giáo rất hậu. Để cho con nó được lên lớp đều đều. Con nó thi Sơ học yếu lược. Nó thết tiệc cả hội đồng chấm thi. Rồi nó đút tiền cho con nó trúng tuyển vào lớp trung đẳng năm thứ nhất. Thằng bé đỗ bằng Tiểu học tốt nghiệp và thi vào cao đẳng tiểu học cũng bằng tiền. Học đến năm thứ hai, nó thấy rằng con nó nên học trường Tây thì mới quen được nhiều Tây con, sau này có thể là những quan thầy. Muốn cho con nó được học trường ấy, nó làm quen và biếu xén tên đốc học, và các giáo viên ở lớp mà con nó sẽ thi vào. Nó xin cho con nó học từ giáo viên văn học và ở trọ nhà giáo viên toán học, trả tiền rất đắt. Mấy kỳ thi tú tài, con nó cũng đỗ bằng tiền. Nó lại rắc tiền đến trường luật. Rồi mấy kỳ thi Luật khoa cử nhân, là mấy lần nó tốn kém. Năm con nó thi tri huyện, thì nó làm cái nước rút. Nó khấn vạn ba bạc cho thằng Phạm Quỳnh, Thượng thư bộ Lại trong triều đình bù nhìn của thằng Bảo Đại.

Thế là con nó được đỗ bét.

Trời ơi là mừng!

Pháo nổ. Chim, gà, vịt, lợn, bò, trâu, chết như rạ!

Để khao cậu huyện nhà nó, nó mắc điện về tận làng, tối thắp sáng trưng. Nó cấm người làng, một tháng, không được bếp nhà nào có khói. Nghĩa là già, trẻ, lớn, bé, cứ đến nhà nó, tha hồ ăn. Nhưng cũng có nghĩa là đến mà hầu hạ khách khứa và bỏ sản xuất. Và lại cũng có nghĩa là nó mở hàng thịt bán cho cả làng. Vì ai đến ăn mà dám vác mồm không, không đem đổ mừng. Nhưng tất cả đều không có nghĩa nữa, nếu ta thấy rõ cơm, rượu, thịt, mà nó cho người ta ăn, chính là của người ta lao động làm ra, mà nó đã cướp đi từ trước.

Tất cả người thân thích, quen thuộc, tá điền, và những người mắc ơn huệ với nó trong tỉnh, đều có mặt ở đám khao. Nó còn mời khách sang trọng ở các tỉnh, tức là quan thày, bạn bè của nó, và của con nó. Anh ở Phú Thọ chẳng hạn, nếu anh đã nhận lời mời, thì anh muốn đến vào ngày nào, tùy ý. Không có ô tô của nó tới tận nơi đón, thì anh có thể thuê xe riêng về nhà nó. Nó trả tiền. Anh ở nhà nó ăn, hút, hát, chơi bời, cho thỏa thuê, phè phỡn, chừng nào anh thấy chán ngấy, nằng nặc đòi về, thì nó tiễn ô tô anh đến tận nhà.

Ngoài những bữa tiệc hàng ngày đã là xa phí, người ta còn phải lắc đầu lè lưỡi về bữa tiệc nó thết con vợ thằng Thống sứ.

Thằng Trừng vận động để con mụ này nhận lời. Con mụ này có quyền mời bạn hữu của mình, gồm bốn mươi đứa, toàn Tây đầm đến dự tiệc, ở nhà thằng Trừng. Ăn xong, nhảy đầm suốt đến sáng. Từ đường cái vào, trải toàn chiếu cạp điều mới, cho ô tô vào làng. Cờ quạt, hương án, long đình, bày ra để bái vọng. Phường kèn của thằng Hoàng Trọng Phu thổi chào.

Trong nhà trang hoàng toàn bằng màu lụa và hoa tươi mua tận ở Đà Lạt. Cơm thì đặt ở khách sạn Mê-tô-pôn Hà Nội, bồi về tận nơi để phục dịch. Rượu phải gửi ở Sài Gòn ra. Rửa tay toàn bằng nước hoa.

Mỗi khẩu phần ăn một giờ đồng hồ như vậy tốn 135đ. Tất cả là 5.400đ. Các thứ trang trí và nước hoa, tốn 7.000đ. Tổng cộng là 12.400đ.

Năm ấy là năm 1942. Năm ấy giặc Pháp bắt đầu làm đày tớ thu thóc cho giặc Nhật, để ba năm sau, giết hại hai triệu đồng bào ta.

Năm ấy, một người nông dân ăn một tháng, tốn có 0đ80.

Nếu lấy tiền phí tổn một bữa tiệc một giờ này để nuôi nông dân, thì một người nông dân có thể sống được trong 15.500 tháng. Hay ngược lại 15.500 người nông dân có thể sống trong một tháng. Hay nói giọng phúc đức, năm 1945, hơn 3.000 nông dân thoát được nạn chết đói, vì được đủ ăn năm tháng để đợi đến mùa sau.

Nếu kể tất cả các món chi tiêu từ khi thằng tri huyện ấy bắt đầu đi học, đến năm nó đỗ, cho đến sau ngày khao, thì không biết đến cơ man nào là tiền bạc. Nếu xếp đống tiền bằng đồng bạc 27 gam của ta tiêu trước, thì phải cao gần bằng cái núi xương trâu bò, mổ vừa rồi, chất ở ngoài vườn.

*
*      *

Địa chủ làm giầu như thế, ăn tiêu như thế, không trách nông dân muốn khỏi chết, phải vùng dậy mà đấu tranh để tự cứu lấy mình.




Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Trong Tập truyện ngắn "Nông dân với địa chủ"



Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
PDF


Mời đọc tại ISSUU



Tham khảo: Các bài viết liên quan


Quanh cái xác chết



Minh họa: Kho tàng truyện hay

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. Cô Vân | 2. Phú Thăng


Mời nghe đọc tại ĐÀI TRUYỀN HÌNH KỸ THUẬT SỐ VTC
Mời đọc Bản đánh máy

Trong Tập truyện ngắn "Nông dân với địa chủ"

Quanh cái xác chết

Nguyễn Công Hoan


Tôi nguyên quán ở Nam Định. Bố mẹ tôi sinh tám lần, nuôi được có bốn. Năm 45, chết đói mất ba. Hiện nay còn có mỗi một mình tôi.

Ông bà tôi mất đi, để lại cho bố tôi bốn sào ruộng và mười thước vườn. Ruộng ở cánh Nam phung, liền mảnh với ruộng của thằng địa chủ trong làng tên là Hường Vôi.

Gia đình tôi đông người, nên không đủ ăn. Ngày mùa, bố mẹ tôi phải làm thuê làm mướn. Ngày ba tháng tám, thì đan cái rổ cái rá để bán. Nhưng vẫn bữa no, bữa đói.

Nhiều lần thằng Hường Vôi cho vợ đến khuyên mẹ tôi bán ruộng cho nó. Nhưng mẹ tôi không nghe. Nó còn giả nhân giả nghĩa thương bố tôi nghèo, bảo hễ túng thiếu cứ đến nó mà rật tạm. Nhưng bố tôi nhất định không vay. Bố tôi vẫn đem câu của ông nội tôi, ngày xưa, nói lại cho chúng tôi nghe:

- Tiền của nhà giàu lọt được vào nhà nghèo lúc nào, là tai họa bắt đầu đến nhà nghèo từ lúc ấy.

Tôi còn nhớ, năm tôi lên mười, trời làm đói kém. Bố tôi phải đi xa để kiếm ăn. Mẹ tôi ở nhà. Tôi thấy ngày nào mẹ tôi cũng đi một buổi. Khi về nhà, thì có một ít gạo hoặc cơm nguội. Mẹ tôi chia cho chúng tôi. Không lần nào mẹ tôi ăn, cứ nói rằng ăn rồi, còn no.

Một hôm, em út tôi nó đói quá, khóc ngằn ngặt. Tôi đi tìm mẹ tôi ở chợ. Bỗng tôi thấy mẹ tôi đường liếm lá bánh, bên cạnh, có cái bị đựng lẫn lộn cả cháy lẫn cơm. Tôi hiểu hết. Mẹ tôi vẫn nói dối ăn rồi, là ăn như thế. Tôi thương quá nói:

- Đừng làm thế, bệ rạc lắm, mẹ ạ.

Mẹ tôi rưng rưng nước mắt, xoa đầu tôi, đáp:

- Mẹ ăn mày và liếm lá thì khổ thật. Nhưng mẹ sung sướng vì con được ăn cháy và giành được cơm cho các con. Túng mà phải đi vay mới bệ rạc, con ạ.

- Thế sao mẹ không bán ruộng cho ông Hường lấy tiền đong gạo?

- Bán cũng được, nhưng bán thì mất ruộng. Mà mất ruộng thì đói mãi mãi, thì bệ rạc suốt đời. Thà chịu ăn mày ăn xin một hai tháng, chờ đến ngày mùa có thóc, thì nhà ta lại no. Nhưng bố mẹ tôi không thể mãi mãi tránh được cái nạn địa chủ.

Một năm, bố tôi thiếu tiền ra thuế. Mẹ tôi chạy ngược chạy xuôi, mấy hôm trời, không vay được ai. Vì nhà ở cạnh đình, nên tiếng trống thúc và tiếng người bị cùm kẹp, đánh đập, kêu la, rõ mồn một. Sắp đến lượt bố tôi bị nhục, thì thằng Hường Vôi đến:

- Thôi, tôi đã nộp cho anh rồi. Chị dại quá, không biết đến tôi mà mượn. Có năm đồng bạc chứ mấy, mà để anh ấy suýt khổ thân. Trong làng trong nước, ăn ở với nhau, nên có tình. Tôi thương những người nghèo lắm.

*
*    *

Đúng như lời ông tôi nói. Tai họa bắt đầu đến nhà tôi từ hôm đó, đến một cách đàng hoàng. Tránh sao được? Vùng tôi nhan nhản những địa chủ cường hào, như cái lưới vây chặt lấy nông dân. Mà cái giống ấy như đỉa, thế nào nó cũng bám được người, để hút máu.

Trong tụi ăn bám và gian ác, thằng Hường Vôi là tên địa chủ vào hạng trung bình, nên ít người biết tiếng. Nó có độ bảy trăm mẫu.

Thủa trẻ, nó ở tỉnh, làm nghề dán vé chợ, ở chợ Rồng. Rồi thầu cơm cho đề lao. Trong thời gian này, nó làm giàu bằng cách hòa vôi vào gạo cho tù ăn. Nên người ta gọi là Cai Vôi. Có tiền, nó cho vay lãi, rồi tậu ruộng ở làng. Rồi nó không làm gì nữa. Nó lấy một con vợ lẽ Tây lai, dùng để giao thiệp với các quan trên nhà nó. Nó về quê ở, sống bằng mồ hôi nước mắt nông dân. Rồi nó mua hàn lâm. Rồi nó chạy làm nghị viện. Rồi nó được thằng Bảo Đại thăng hàm Hồng lô, và thưởng kim khánh. Người làng gọi nó là quan Hường. Nhưng là quan Hường Vôi, vì quen mồm.

Thẳng Hường Vôi ác có tiếng. Nó đánh người như két, giết người không ghê tay. Con gái làng bị nó hiếp gần khắp lượt. Nhiều người mang bệnh, không đẻ đái được nữa. Trong có ba mươi năm, từ tay trắng, nó có đến bảy trăm mẫu ruộng. Không tháng nào nó không kiện người, bị người kiện và lo kiện cho người. Con vợ lẽ Tây lai của nó vào cửa nào cũng lọt.

Nó thường nói với nông dân:

- Tao muốn để cho thằng nào ở làng thì thằng ấy còn được ở. Tao mà lấy hết ruộng, chúng bay đi xiêu cả, thì những hôm nhà có việc, tao lấy ai mà sai bảo.

Bố tôi biết không phải vào hạng người được nó còn cho ở làng. Thỉnh thoảng nó vẫn gạ mua ruộng, nhưng bố tôi không bán. Bố tôi lại khí khái, không chịu đi lại nhà nó để vay mượn. Nhưng lần này thì thật là tiền của nó lọt vào nhà tôi rồi.

Sau vụ thuế, bố mẹ tôi đi vay bà con, người đồng bạc, người vài hào, cho được đủ năm đồng, để đến trả thằng Hường Vôi.

Nhưng lần đầu tiên, nó mắng một cách thân mật. Và không nhận:

- Ai đòi mà phải trả sớm thế?

Lần thứ hai, nó đi vắng. Lần thứ ba, nó nói dối là đi vắng. Thế là năm đồng bạc tan. Vì tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Mà khi địa chủ nó đã buông câu, nông dân mắc vào, thì khó lòng gỡ nổi.

Bố mẹ tôi chán ngán quá, vì trông thấy rõ cái cơ mất ruộng dễ như chơi rồi. Bố tôi bàn:

- Thế này thì phải kiếm thêm đất mà làm chứ không thì chết.

Một hôm, có tin ông Xum là một tá điền của thằng Hường Vôi, vì nợ nó lưu cữu nhiều quá, không thể trả được, nên bỏ ruộng trốn đi làm phu ở Tân thế giới. Người họ tôi đến chơi, bảo bố tôi nên xin chỗ mẫu ba ấy mà làm. Vì nó quây quanh cái bốn sào nhà tôi ở Nam phung.

Bố mẹ tôi bàn bạc kỹ lưỡng rồi đồng ý. Chú tôi vay tiền, mua cho hai chục trứng gà đến nói với thằng Hưởng vôi hộ bố tôi. Nó bằng lòng, gọi bố tôi đến làm giấy.

Sau bố tôi mới biết chỗ ấy tiếng rằng mẫu ba, nhưng kỳ thực có một mẫu và phải nộp bằng tô đong.

*
*     *

Một hôm, có Tây đoan về khám, thấy mảnh của thằng Hường Vôi mà bố tôi làm, có rượu lậu. Thẳng Tây đoan đến nhà thằng Hường Vôi. Đáng lý, chính thằng này phải bắt. Nhưng vì ngày thường, nó vốn là đứa liếm giầy bọn đế quốc và quan lại, nên nó đùn cho anh Thảo, một cố nông ở nhà nó, bị giải đi thay nó.

Việc vỡ lở ra, hôm sau, bố tôi mới hiểu rằng thằng Hường Vôi, vì mua ruộng của bố tôi không được, nên lập tâm làm hại. Nó bỏ rượu lậu vào ruộng bố tôi, rồi đi báo đoan. Tất bố tôi bị bắt và bị phạt. Không có tiền nộp phạt thì ngồi tù. Thì lúc ấy thế nào mẹ tôi cũng phải bán ruộng cho nó. Nó sẽ bóp mua bằng giá rẻ. Nhưng giá công việc làm đúng được như mưu mô của nó, thì ruộng ấy về tay nó thực. Đằng này, nó lại muốn kín, sai con vợ Tây lai đem rượu lậu đi. Con này không biết ruộng nào vào ruộng nào. Ruộng của bố tôi thì nó không bỏ, lại lớ ngớ, bỏ ngay vào ruộng của nhà nó.

Việc này sở dĩ nhiều người biết là vì, sau khi anh Thảo bị giải đi, thì con vợ Tây lai bị con vợ cả chửi cho một trận nên thân. Rồi ba vợ chồng cãi nhau, đánh nhau ỏm tỏi. Đến chiều, con Tây lai phấn sáp, đi ô tô lên tỉnh một tối, sáng hôm sau nó đưa anh Thảo về.

Biết thủng câu chuyện, mẹ tôi lo lắng, bàn với bố tôi:

- Hay là bán phắt cho ông ấy, để tậu mảnh khác, ở chỗ xa?

Bố tôi lắc đầu:

- Ruộng nào, dù xa mấy, thì rồi sau ruộng địa chủ cũng bò tới. Có tránh đằng trời. Có điều rằng mình giữ gìn, chăm chỉ làm ăn, và kiên quyết không bán, thì không sợ mất ruộng.

Mẹ tôi thở dài:

- Tôi lo lắm!

Mẹ tôi lo rất đúng.

Chiều hôm sau, thằng Hường Vôi cho người gọi bố tôi đến.

Ở gian bên phải nhà nó, có một người lính cơ mới ở huyện về.

Nó nói:

- Hôm kia, có quan đoan về khám, bắt được rượu ở ruộng tao. Theo luật nhà nước thì đáng lý tao chịu phạt. Song, các quan đã minh xét. Ruộng tao, nhưng mày lĩnh canh. Cho nên trách nhiệm mày phải chịu. Vì thế quan trên tha cho thằng Thảo về. Và hôm nay có trát bắt mày. Mày theo thầy quyền lên huyện.

Bố tôi lặng người một lát. Rồi không thể nhịn được, mới nói:

- Thưa quan, không phải quan trên minh xét, mà là vì cô hai lên tỉnh tối hôm kia.

Nó quắc mắt:

- À thằng này giỏi! Đồ xỏ lá!

Dứt lời, nó vớ cái roi gân bò treo ở tường, vụt lấy vụt để vào bố tôi.

Bố tôi dơ tay ra đỡ.

- Ông không có phép đánh tôi!

- Không có phép này! Không có phép này! Mày muốn kiện đâu thì kiện. Ông không sợ.

Rồi nó quất lia lịa, vào mặt, vào lưng, vào đít, vào đùi.

Bố tôi giằng lấy roi, kêu rầm lên.

Thằng lính huyện bênh nó, xông vào, nhặt cái khăn lượt của bố tôi rơi xuống đất, ôm ghì lấy bố tôi, khóa cẳng, rồi trói bố tôi lại.

Thằng Hường Vôi được thể, đánh một chập nữa. Bố tôi đau quá, mềm như sợi bún, mặt mũi quần áo bê bết những máu.

Thẳng lính nói:

- Dại như con chó. Mày tập tễnh thế kia, thì đi sao được đến huyện.

Nó bắt bố tôi dẫn về nhà và bảo mẹ tôi:

- Đáng lẽ tao giải chồng mày đi ngay chiều nay, vì việc là việc khẩn. Nhưng thôi, tao thương hại. Tao rộng phép cho sáng mai, cơm nước xong thì đi.

Mẹ tôi hiểu ý. Nghĩa là thằng lính muốn vòi bữa cơm chiều nay và bữa cơm sớm mai. Bố tôi đau đớn, nằm trên giường, thỉnh thoảng thở dài.

Mẹ tôi nén lo và thương, phải đi chạy tiền, mua gà, mua rượu, làm cơm thết thằng lính. Đến tối, bố mẹ tôi mới dám than thở và khóc lóc với nhau.

Đêm ấy, bố tôi thắt cổ ở trong buồng.

Sáng hôm sau cả nhà mới biết.

Mẹ tôi hô hoán lên.

Hàng xóm láng giềng đổ sang. Thấy người bố tôi còn nóng, mọi người toan cởi giây để cứu. Nhưng thằng lính cơ, làm như thạo luật pháp, ngăn lại:

- Phải đi tường lý dịch, xem người ta bảo sao. Chớ ai mó vào. Có chịu nổi tội vạ thì hãy tự tiện.

Mẹ tôi kiếm cơi trầu, chạy đi tìm lý trưởng.

Thằng này gọi bố tôi bằng chú họ. Nó bảo mẹ tôi cứ về trước, rồi nó đến sau.

Xác bố tôi treo lủng lẳng ở xà nhà. Lạnh dần và xám dần. Mãi đến chiều, thằng lý trưởng mới đến. Nó đi với một người tuần.

Nó lừng lững vào buồng, sai người tuần cởi giây.

Xác bố tôi rơi bịch xuống đất, cứng như cây gỗ.

Mẹ tôi và chúng tôi oà lên khóc.

Thằng lý trưởng cau mặt, mắng:

- Ra cả ngoài kia để người ta làm việc.

Nó sờ vào người bố tôi, rồi nhìn mẹ tôi, càu nhàu nói:

- Thế này mà dám trình là còn nóng.

Rồi nó lấy chân, lật sấp, lật ngửa xác bố tôi, rồi nói một mình.

- Ừ chết thật rồi.

Mẹ tôi hu hu khóc:

- Vâng, giá bác đến ngay từ sớm, thì may cứu được nhà tôi.

Nó xì một tiếng rồi nhại:

- Cứu!

Rồi nó ngồi xuống, nhìn vết giây ở cổ, và làm như ngạc nhiên:

- Quái!

Nó mới nói tiếng ấy, chưa bảo gì thêm, thì người tuần đã cởi quần áo của bố tôi ra. Hình như chúng nó xếp đặt sẵn với nhau công việc rồi. Người tuần nói:

- Đúng rồi.

Thằng lý trường không nhìn những vết roi lằn ở người bố tôi tí nào. Nó đưa mắt lườm người tuần và chậc chậc mấy cái, để bảo im. Bỗng nó ôm hai bàn tay vào mặt nó, và rung hai vai, làm như khóc than rồi hờ:

- Ới chú ơi là chú! Tôi không ngờ người ta đánh chết chú, rồi treo cổ chú lên đây, để trình rằng chú tự tử. Ới chú ơi là chú ơi!

Rồi nó hỷ mũi, nhưng vắt mãi không ra nước.

Mẹ tôi không hiểu sao, im khóc để nghe.

Nó đứng dậy, làm mặt giận, trỏ vào mẹ tôi:

- Tao không họ hàng gì với mày nữa. Mày giết chú tao.

Mẹ tôi giật mình:

- Sao bác lại nói thế?

Nó hầm hầm:

- Trong người chú tao đẩy những thương tích. Mày đánh chú tao, rồi treo lên đây. Nếu không thì cũng là bức tử chứ không phải tự tử.

Mẹ tôi sợ quá, đáp:

- Nhà tôi bị quan Hường đánh, có thầy quyền biết. Rồi chắc rằng sợ tù tội, nên tự tử đấy, bác ạ.

- Không biết.

Nó đếm thương tích, và làm biên bản.

Mẹ tôi lo cuống cuồng, bưng mặt khóc, kêu oan.

Làm biên bản xong, nó bắt mẹ tôi điểm chỉ.

Nhưng nhất định mẹ tôi rụt tay lại.

Nghe chừng dọa không trôi, nó đứng dậy ra về, và nói:

- Việc này còn lôi thôi to. Còn phải trình quan, đốc tờ về khám xong mới được chôn.

Mẹ tôi nằn nì, giữ nó lại. Nó nói:

- Mày không ký, rồi mày biết. Giết chồng còn già mồm!

Mẹ tôi lạy van nó. Nó dịu nét mặt, hỏi:

- Thế định không điểm chỉ phỏng?

- Nhưng tôi không đánh nhà tôi. Chính là quan Hường. Bác viết lại biên bản hộ, để nhà tôi đỡ chết oan.

Nó cau mặt, nhại:

- Viết lại! Dễ tôi làm việc quan nhà nhà bà phỏng? Mà bà nói dễ thế. Tôi đã vậy, còn các ông chánh phó hội, phó lý dễ giấu nổi người ta phỏng?

Người tuần thấy mẹ tôi chưa hiểu, mới nhắc:

- Thôi, bà kiếm chẻ lá, nói với các ông ấy tử tế, thì các ông ấy ngơ đi cho.

Mẹ tôi im lặng. Thằng lý trưởng nhìn để chờ mặc cả một món tiền. Nhưng mẹ tôi bối rối, chưa nghĩ ra, thì nó tuyên bố một cách ráo hoảnh:

- Việc này, muốn trôi, phải hai chục.

Mẹ tôi rú lên:

- Giời ơi!

Rồi òa lên khóc.

Anh em chúng tôi thấy mẹ khóc cũng khóc. Mẹ tôi chắp hai tay, lạy nó, kể lể tình nghĩa họ hàng, rồi khấn nó mười đồng. Nó không đáp, bĩu môi, trợn mắt, nhìn một lát, rồi nó hất hàm:

- Chúng tôi uống nước lã để làm việc cho bà à? Mười lăm đồng! Thế là họ hàng rồi!

Mẹ tôi bằng lòng. Nó làm lại biên bản, bảo mẹ tôi điểm chỉ. Nó nắm lấy tay mẹ tôi, híp mắt cười một cách đều cáng:

- Bàn tay sao mà múp míp thế này! Tội nghiệp quá nhỉ!

Mẹ tôi giật tay ra. Lập tức, nó đút nghiến văn bản vào túi:

- Không điểm chỉ thì thôi, ông đếch cần.

Mẹ tôi lại phải đưa tay cho nó ngắm và mân mê.

Điểm chỉ xong, mẹ tôi nói:

- Bác cho tôi khất đến tối, để tôi đi chạy tiền.

- Được, không có đủ, thì lại làm biên bản lại đấy.

Mẹ tôi đi rạm bán ruộng.

Nghe tin ấy, thằng lý trưởng đến, mắng mẹ tôi:

- Mày ngu như chó! Sao không gọi bán cho tao?

Mẹ tôi đòi ba chục. Nhưng nhất định nó chỉ trả hai. Nó nói:

- Không để cho tao, thì không ai mua nổi đâu.

Không thể đòi thêm, mẹ tôi phải bằng lòng.

Nó làm văn tự, bắt mẹ tôi in tay.

Nhưng sực nghĩ ra điều gì, nó nhìn mãi cái văn tự, rồi lắc đầu:

- Không hợp pháp. Chồng bà chết, bà không có phép bán ruộng. Phải có hội đồng gia tộc mới bán nổi, vì các con bà còn bé. Thôi tôi không làm bậy.

Mẹ tôi lo lắng:

- Thế thì làm thế nào, bác bảo cho.

Nó nghĩ ngợi một lát, rồi nói:

- Nhưng mà được.

Nó xé văn tự vừa làm, viết lại tờ khác:

- Đây, tôi đề ngày hôm qua, tức là hôm ông ấy chưa chết, để hai vợ chồng cùng ký nhận.

Mẹ tôi không hiểu. Nó in tay mẹ tôi, rồi cầm đèn hoa kỳ vào buồng. Xác bố tôi vẫn trần truồng, nằm úp mặt xuống đất. Thân thể đã xám ngoẹt hơn. Nó lật ngửa lên, kề đèn vào gần cánh tay phải, bôi mực vào ngón tay cái. Rồi nó áp tờ văn tự vào. Mẹ tôi và chúng tôi thút thít khóc. Đoạn nó vui vẻ đứng dậy:

- Thật là thuận vợ thuận chồng.

Nó ra ngoài, ngồi trên phản, bỏ miếng trầu vào mồm, rồi nói:

- Bà bán cho tôi hai chuc. Tôi trừ mười lăm đồng, còn năm đồng. Nhưng năm đồng này, tôi phải giữ lại để chia cho các ông ấy.

Mẹ tôi choáng người:

- Bác cho lại tôi, để tôi mua cỗ ván cho thầy cháu.

Nó lắc đầu, đứng dậy ra về. Mặc cho mẹ tôi lạy van và bù lu bù loa khóc.

Thằng lính huyện vẫn ở lì lại nhà tôi, để chờ được ăn thêm một bữa cỗ đám ma, thấy chúng tôi khóc, thì nó tỏ vẻ khó chịu:

- Gớm, làm gì mà ồn lên thế. Mất có hai mươi đồng là quá phải rồi, còn kêu gì!

Mẹ con chúng tôi vào buồng, mặc cho bố tôi cái quần nâu lành, và cái áo the cũ, rồi đặt nằm lên trên chiếu.

Bố tôi đã trương, mặt bị đánh sưng, nay to bằng cái cháp tròn.

Tôi trông thấy đứt từng khúc ruột.

Khi mẹ tôi chưa nong xong cái áo cho bố tôi, thì con mẹ Hường Vôi léo nhéo từ cổng vào:

- Sao quân chúng bay ngu thế, bán ruộng thì không bán cho bà. Bà không có tiền à!

Rồi nó quát:

- Đâu rồi? Nó đâu rồi? Không mở miệng ra được à!

Mẹ tôi vội vàng chạy ra. Nó dí ngón tay trỏ vào trán, và nghiến răng:

- Cha con mẹ mày, đồ bạc nhé. Mày bán mất ruộng rồi à?

- Thưa bà, bác lý nó đòi mua.

- Thế đã làm văn tự chưa?

- Thưa bà làm rồi.

Con mẹ tuyệt vọng, quắc mắt, chửi một thôi nữa, rồi nói:

- Được rồi, đã thế, có tiền thì giả bà mười đồng bạc sưu đây!

- Thưa bà, có năm đồng thôi ạ.

- Thế không lãi nữa à? Đồ khốn nạn!

Mẹ tôi kể cho nó biết rằng bán ruộng được có hai chục và thằng lý trưởng lấy hết cả rồi. Nó chửi:

- Cha mẹ đồ ngu như con chó. Bốn sào có hai chục mà không bán cho bà.

Rồi im một lát nó tiếp:

- Nhưng không lẽ mày để cho lý trưởng lấy hết. Thế nào mày cũng còn tiền để làm ma cho chồng mày.

- Lạy bà, thật quả con không được đồng nào.

- Mặc kệ, không giả tao mười đồng, thì mày không chôn nổi chồng mày đâu. Tao nói trước cho mày biết.

Rồi nó ra về, vừa đi vừa lẩm bẩm chửi cho đến ngõ.

Một lát, nó cho anh Thảo đến, tay xách cái ghế gỗ, tay cầm gậy. Anh ta đặt cái ghế ở cổng, ngồi xuống, không nói gì. Anh ta canh, hễ mẹ con chúng tôi ai ra đường, là anh ta khám túi, nắn gấu áo, cạp quần. Con mẹ Hường Vôi đoán thế nào chúng tôi cũng còn tiền để sắm sửa làm ma cho bố tôi, nên nhất định nó phải lấy nợ cho bõ giận. Thành thử mẹ con chúng tôi không ai dám ra đường.

Bà con và hàng xóm thấy trong nhà có lính và có người nhà thằng Hường Vôi canh cổng thì không dám đến, sợ lụy đến thân.

Xác bố tôi vẫn nằm cong queo trong buồn.

Mẹ tôi lo quá, không biết làm thế nào để chôn được, nên chỉ khóc.

Trời về mùa hè, nóng nực, nên qua một đêm, xác đã lên mùi.

Anh Thảo ngồi ở cổng, nhổ toèn toẹt. Thẳng lính huyện cũng nhổ toèn toẹt. Luôn luôn nó hỏi mẹ tôi sao không mổ gà mổ chó để cúng bố tôi, lại nỡ để vong hồn người chết bơ vơ đói khát.

Cả ngày hôm ấy, nhà tôi thật lặng lẽ. Chỉ chốc chốc có tiếng thở dài và tiếng khóc ti tỉ. Anh Thảo phải bắc ghế ra tận đường để ngồi, thỉnh thoảng quay vào trong nhà, chửi đổng là nó làm khổ ông. Thằng lính kiên tâm hơn, vài giờ đồng hồ lại vào bếp ngó một tý. Thấy mẹ con tôi nằm ôm nhau, thì nó sốt ruột, nên thỉnh thoảng lại nhắc nhỏm:

- Gớm, nhịn đói khỏe nhỉ!

Chiều hôm ấy, muốn chừng biết rằng chờ mãi cũng vô ích, chỉ phải ngửi thối thôi, nên nó bắt mẹ tôi biện ba hào tiền tiễn để nó về huyện. Mẹ tôi không có, phải lột cái áo the mặc cho bố tôi, gán cho nó.

Đến đêm, chở cho anh Thảo ngủ, mẹ con tôi đánh thức nhau dậy, bó chiếu cho bố tôi, rồi xé hàng rào sau, khênh xác bố tôi ra đồng.



Mời đọc Bản chụp dạng ảnh

Trong Tập truyện ngắn "Nông dân với địa chủ"


Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
PDF


Mời đọc tại ISSUU



Tham khảo: Các bài viết liên quan


Công dụng của giấy nhật trình cũ



Minh họa: Kho tàng truyện hay

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. Cô Vân | 2. Phú Thăng

Mời nghe đọc tại
ĐÀI TRUYỀN HÌNH KỸ THUẬT SỐ VTC
Mời đọc Bản đánh máy

Trong Tập truyện ngắn "Nông dân với địa chủ"

Công dụng của giấy nhật trình cũ

Nguyễn Công Hoan



Trong có một năm, thằng địa chủ Lâm chiếm đoạt đến hơn ba chục mẫu ruộng của nhân dân làng Chèn. Nếu không nhờ có phát động quần chúng, nông dân giác ngộ, nổi dậy đấu tranh, thì có khi còn bao nhiêu gia đình thất cơ lỡ vận về nó. Và rồi tất cả ruộng vùng này về tay nó hết.

Đợt phát động, giảm tô vừa rồi, thằng Lâm được đi học lớp cải tạo tư tưởng hai mươi ngày. Nó học tập bài mục "Tính chất giai cấp địa chủ" và liên hệ bản thân, nó bộc lộ tội ác của nó.

Hôm tổng kiểm thảo, nói các thủ đoạn về chiếm đoạt ruộng đất, bóc lột nhân công, đánh người, giết người, hiếp dâm và phản động về chính trị, nó cúi mặt xuống nói:

- Con năm nay ba mươi ba tuổi đầu, mà đã phạm tất cả các tội ác điển hình của giai cấp địa chủ. Nay nhờ Đảng, nhờ Chính phủ, nhờ các ông nông dân giáo dục, con biết giai cấp địa chủ thật là một giai cấp xấu xa, nhơ nhuốc, hại nước hại nòi. Hồ Chủ Tịch khoan hồng, cho chúng con đi học, thật là cải tử hoàn sinh cho chúng con...

Dưới đây là lược trích một mưu mô trong lịch sử làm giàu của thằng Lâm:

"Quê con ở Hà Nam. Bố con làm chánh hội, có mười lăm mẫu ruộng. Chú bác con phần nhiều là cường hào. Thuở bé, con đi học, nhưng vừa dốt, vừa lười, nên phải chạy ba chục đồng bạc, mới đỗ được sơ học yếu lược. Rồi bố con bắt con ở nhà, cho rằng họ Bùi không có đất học.

Từ năm mười sáu tuổi, con bắt đầu mê gái và mê cờ bạc.

Bố con thấy con mới nứt mắt đã biết phá của, nên bắt con hút thuốc phiện, vì cho rằng người nghiện không thiết chơi bời gì. Nằm bàn đèn thì phải ở nhà. Như vậy giữ được của.

Nhưng giữ của đã đành, còn phải làm ra của nữa. Bố con mới tìm cách cho con học tập thông thạo việc quan, để sau này làm tổng lý, nối nghiệp nhà. Tức là cái nghiệp bóc lột. Con làm nho cho một tên thừa phái ở huyện.

Ngày ấy, bọn đế quốc định lệ cho những người đỗ sơ học yếu lược được thi thừa phái. Con cho rằng đường công danh mở rộng cho những con cái nhà giàu. Nếu còn đỗ, làm thừa phái đủ niên hạn, thì con sẽ chạy lấy giấy chứng nhận là đã ở thượng du trên hai năm, biết tiếng thiểu số, con được thi bang tá. Rồi từ bang tá, con sẽ thi tri châu. Từ tri châu, con sẽ thi tri phủ. Và cứ thế, lên đến bố chánh, tuần phủ, tổng đốc, tha hồ mà hái ra tiền.

Nhưng con đã thi thừa phái ba khóa mà không đỗ. Bố con không tiếc tiền hối lộ. Nhưng vì xểnh bố con ra, thì con lại coi tiền như rác, tiêu pha liều lĩnh. Năm đầu, còn khấn hai trăm, thằng Tuần Đức nhận lời. Nhưng cuối cùng, nó bắt phải thêm một trăm nữa. Con không có đủ. Năm sau con giành lại ba trăm để đút thằng chủ khảo người Pháp, nhưng khi được vào vấn đáp, thì thằng quan giám khảo đòi con phải cho riêng nó hai trăm. Con lại không có. Năm sau nữa, con có đủ năm trăm, nhưng giá thừa phải tăng vọt hẳn lên đến một nghìn.

Con cho là mả nhà con chỉ phát hào, nên thôi không bon chen vào hoạn lộ nữa.

Con làm nho, học lối nặn bóp dân rất thạo. Con dối trên, lừa dưới, nhiều món ăn chặn cả thằng thừa phái lẫn thằng tri huyện.

Thấy con tiêu xài xa xỉ, chúng nó đâm nghi. Rồi dò la, biết con đã hớt của chúng nó rất nhiều món bở, nên chúng nó đuổi con, và định bỏ tù. Con phải trốn đi.

Con lên Phú Thọ, tìm đến giúp việc một người chú làm quản lý đồn điền cho một tên địa chủ Pháp, có vợ Việt Nam.

Năm ấy thằng chủ về Tây, để cho con vợ trông nom cơ nghiệp. Con mẹ này ngót bốn mươi tuổi có con gái riêng mười sáu tuổi. Con mẹ có tiếng là dâm dật. Vắng chồng, nó thường bắt anh em tá điền vào buồng ngủ để hiếp anh em.

Thấy con nhanh nhẹn, nó dỗ con làm thư ký riêng. Con biết công việc không phải là biên chép sổ sách, mà là để thỏa mãn tình dục cho nó. Nhưng con cứ đồng ý. Để được ăn hút sướng thân. Năm ấy con mới hai mươi hai tuổi.

Rồi sau, muốn cho hai mẹ con khỏi ghen tuông nhau, con hủ hóa cả với đứa con gái.

Chẳng bao lâu, thằng chủ Pháp sang và con gái nó có mang với con. Con mẹ muốn thu xếp cho ồn thoà, nhận con là con rể, nói với chồng cho con bốn mẫu, và bảo con làm nhà riêng ở Chèn, cũng ở khu vực đồn điền.

Vì ít lâu, con được con mẹ nó chiều chuộng, cho ăn tiêu tự do, nên con hút nặng thêm. Đến bây giờ, trông vào tô của bốn mẫu, con không thể nào đủ được.

Con nghĩ mưu kế làm giàu.

Một kinh nghiệm cho con biết rằng muốn làm giàu thì phải cho vay, lãi nặng.

Một kinh nghiệm nữa là muốn có nhiều người vay, thì phải làm cho nhiều người cần tiền. Người cần tiền phải vay, không ai liều lĩnh bằng người thua bạc.

Vậy thì con phải mở sòng, để cho những người thua bạc vay tiền, và phải gắn ruộng.

Nhưng muốn cho vay thì phải có vốn.

Song, đối với ai kia, thì việc xoay vốn là việc khó, chứ đối với con, nó không thành vấn đề. Con không phải nhờ ai giúp. Còn nhờ, còn phải ân huệ người ta. Ở đời có bột mới gột nên hồ là sự thường, chứ không có bột mà gột nổi hổ mới là tài xuất chúng. Không có tiền mà làm giàu to và nhanh mới là phi thường. Con học chữ thì dốt, nhưng bóc lột thì ít ai bằng.

Con dựa vào uy thế thằng chủ đồn điền Pháp để mở sòng xóc đĩa. Sòng mở ngay trong đồn điền, thì không quan nào dám vào bắt. Tất nó cướp được khách của các sòng khác.

Con đã tính đúng. Quả nhiên, tối đầu vắng khách. Nhưng đến tối thứ hai, đã đông hơn, và đến tối thứ ba, thì đông hơn nữa. Họ sát phạt nhau rất hăng.

Đến tối thứ tư, con làm cháo gà, mời con bạc ăn, rồi nói chuyện:

- Đành rằng chúng ta chơi ở đây thì rất yên ổn, không sợ gì, vì đây là đồn điền của quan Tây. Vả lại tôi đã cắt đặt canh phòng cẩn thận. Song, ta cũng phải đề phòng sự bất trắc. Thế nào mà không đến tai quan, và quan nào họ lại chịu thua mình. Các ông phần nhiều là tổng lý kỳ hào trong hạt, có thể quan nó bảo một tiếng, thì các ông phải nghe, không dám đến đây chơi nữa.

Xưa nay, luật pháp chỉ trừng phạt những người đánh bạc, chứ không trừng phạt những người không đánh bạc. Cho nên tôi đã nghĩ ra một cách, là chúng ta không đánh bằng tiền. Quan lính có giỏi mà vào lọt đây để khám, thì rồi cũng chỉ thấy người không. Tha hồ mà đổ tội cho chúng ta làm hội kín. Ta không làm hội kín thì họ hỏi lắm chỉ mỏi mồm. Vả quan chủ đây sẽ bảo đảm cho chúng ta là những người không làm hội kín.

Thì tôi định như thế này: Trước khi vào chiếu bạc, ta hãy đổi tiền lấy giấy riêng, ta dùng giấy riêng ấy để đánh với nhau. Không bắt được tiền làm tang vật, đố ai dám bảo là sòng bạc.

Được mọi người cho là có lý, hôm sau, con lấy những tờ nhật trình cũ, cắt ra từng miếng nhỏ hình chữ nhật. Miếng nhỏ nhất là một đồng. Miếng to hơn là năm đồng. Miếng to hơn nữa là mười đồng. Muốn người ngoài khỏi làm gian lận, con ký tên con vào đó.

Thế là từ hôm sau trở đi, sòng con đánh toàn bằng giấy nhật trình.

Ai đến chơi, trước hết phải đổi tiền ra giấy nhật trình. Có tối, con phải đổi đến ngót một nghìn. Ai không có tiền, thì đến nói với vợ con cho vay. Vợ con cho vay hẳn hoi bằng tiền mặt. Tiền ấy là tiền của người khác vừa gửi. Người ấy đem tiền đến đổi ở con, lấy giấy nhật trình, rồi mới được ngồi và chiếu bạc. Thật là phân minh.

Nhưng con bố trí cho vợ con ở hơi xa chỗ đánh bạc, để khách vay thấy việc đi lại là phiền, vì vậy, chính họ phải nói khó với con cho vay bằng giấy nhật trình để khỏi mất thì giờ đến chỗ vợ con. Vả lại, khi vợ con cho vay rồi, thì người vay vẫn cứ phải đổi ra giấy nhật trình ở chỗ con. Nhất là những người thua, đương cay cú thì sốt ruột, có tiền ngay để gỡ. Lại nhiều khi vợ con giả vờ túng, khách đòi vay một trăm, thì đưa bảy chục thôi, nói rằng không có đủ. Nhưng hễ vay con bằng giấy nhật trình, thì ai cần bao nhiêu, có đủ sẵn bấy nhiêu. Họ cho là dễ và tiện hơn.

Người có tiền đến sòng con đã đành, người không có tiền cũng có thể đến chơi được. Người đỏ thì tiếp tục đánh đã đành, người đen thua hết, vẫn có thể có tiền để gỡ gạc. Sòng con bởi vậy càng ngày càng đông khách. Khách đến chơi được yên tâm. Muốn vay bao nhiêu cũng có. Ai cũng khen con có sáng kiến hay.

Lệ thường, thì đương dở cuộc, không ai được về. Con nói sợ đi lại nhiều thì lộ. Phải đợi từ hai giờ sáng trở đi mới được ra khỏi sòng. Lệ ấy đặt ra cốt để trói chân những người được bạc, muốn ăn non. Thật thế, muốn ăn non thì phải rời ngay khỏi sòng bạc, chứ mà có tiền trong túi, lại đương vào lúc đỏ, nghe những tiếng bạc dễ đánh, dễ ăn, thì có họa tài thánh mới gan được.

Vì vậy không ai được bạc mà ăn non thoát được với con.

Từ hai giờ sáng trở đi, làng chơi được tự do ra về. Trước khi ra khỏi sòng, họ đổi giấy nhật trình lấy bạc. Nhưng ít ai đổi được đủ. Vợ ở nhà riêng, ngủ trong buồng có khóa. Vin vào đấy, con thường bảo để đến sáng hôm sau hãy đổi, "đánh thức nhà tôi dậy, sợ cháu khóc, tội nghiệp".

Nhưng sáng hôm sau, những người còn ít giấy nhật trình thì không bõ đến đổi. Họ giữ lại để tối lại đến chơi. Chỉ có những người có nhiều, hoặc những người không muốn chơi nữa, mới thiết đổi mà thôi. Để đề phòng những người muốn tu trí, con bảo vợ con, thế nào cũng phải găm lại chút ít để giữ khách. Nói rằng:

- Tôi trót mua món vải, phải giật tạm vào cái số của bác. Thôi thì bác bằng lòng vậy, tối nay bác đến chơi, tôi xin trả bác hết.

Không những con lừa người có tiền, có ruộng, mà con còn vơ vét cả của các ông bẩn cố nông làm ở nhà con. Những ông con mượn làm ruộng, những ông con mượn canh gác sòng ban đêm, con đều trả bằng tiền, nhưng lại trả ngay trong sòng bạc. Rút cục không ông nào còn đồng nào, nhiều ông phải vay thêm, và trả bằng công không hàng tháng.

Ông Hãnh máu mê nhất, đến bây giờ, còn nợ con nửa năm công. Bà Tặng, vì khuyên chồng không nổi, đã bỏ nhà, dắt con đi ăn xin, nay không biết xiêu bạt nơi nào. Còn ông Nhi, vì không có gạo ăn, đã phải nhịn và chết đói.

Trong một năm con chiếm ba chục mẫu về nghề cho vay lãi, bằng giấy nhật trình cũ. Lý Si có hai tối, phải gán cho con bảy mẫu. Anh Vượng suốt hai mươi năm lao khổ, dành dụm tậu được sáu mươi sào, thì có trong một tiếng đồng hồ nướng hết sạch. Chánh Bỉnh thua hết tiền thuế, phải đi tù.

Nói tóm lại, trong một năm trời, con gian ác đến nỗi nhiều gia đình khánh kiệt, trở nên tàn nát, con lìa cha, vợ mất chồng, nhiều người không biết còn sống hay đã chết.

Thủ đoạn làm giàu của con ít ai nghĩ nổi, phải có cái óc bóc lột gia truyền của giai cấp hàng nghìn năm chuyên môn hưởng sung sướng trên mồ hôi nước mắt, xương máu nhân dân, mới có thể tàn nhẫn như con được.

Ruộng đất của con là do bàn tay lao động của nông dân làm ra. Con đã chiếm đoạt một cách phi pháp. Thóc gạo của con cũng không tự tay con cày bừa cấy gặt mà có. Con đã bóc lột nông dân một cách vô lý, bất công. Tiền bạc mà con có để tậu thêm ruộng đất, làm lại nhà cửa, ăn tiêu phung phí hàng ngày, cũng là do sức lao động của nông dân làm ra hạt thóc.

Đời sống của con là đời sống ô nhục. Từ hôm Đội phát động về đây, con cứ thấy các ông nông dân tố khổ, kể tội ác của giai cấp địa chủ gọi, chúng con là thằng, thì còn rất bực mình. Con cho là Trời làm một trận lăng nhăng, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông. Nhưng được học tập, con mới hiểu rằng cái trận lăng nhăng chính là vào thời kỳ phong kiến và đế quốc thống trị, cho nên những thằng ăn bám, bóc lột mới trở nên ông, và những ông lao động chịu bao nỗi vất vả để làm nên hạt thóc nuôi sống người, lại hóa ra thẳng.

Bây giờ, dưới chế độ dân chủ nhân dân, Hồ Chủ Tịch và Đảng đã làm cho xã hội ta không còn lăng nhăng nữa. Ai đáng là thằng, ai đáng là ông, mới thật rõ rệt".




Mời đọc Bản chụp dạng ảnh

Trong Tập truyện ngắn "Nông dân với địa chủ"



Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
PDF


Mời đọc tại ISSUU



Tham khảo: Các bài viết liên quan

Chị Liền



Minh họa: Kho tàng truyện hay

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. Cô Vân | 2. Phú Thăng | 3. Anh Khôi


Mời đọc Bản đánh máy
Trong Tập truyện ngắn "Nông dân với địa chủ"

Chị Liền

Nguyễn Công Hoan


Chị Liền quê quán ở đâu, bố mẹ tên là gì, chị không biết. Cả họ thật của chị, tên thật của chị là gì, chị cũng không hay. Liền là tên người bạn đã chết. Và đến mãi sau ngày Khởi nghĩa tháng Tám, để lấy thẻ bầu cử, chị mới khai liều là họ Nguyễn. Chị nói lý do:

- Bởi vì em thấy ở nước ta phần đông là họ Nguyễn. Em vốn lẻ loi, nên muốn cùng họ với đa số.

Rồi chị tiếp:

- Có làm sao? Miễn là em cứ là dân cụ Hồ, hăng hái đấu tranh đánh đổ địa chủ phong kiến, hăng hái kháng chiến, tiêu diệt hết quân xâm lược.


I

Theo sự hiểu biết của chị, thì gốc gác của chị như thế này:

Mẹ chị ngày trước lấy một người bần nông, đẻ được một gái và một trai. Đến năm bà ba mươi nhăm tuổi, thì chồng bà chết. Thằng địa chủ ở làng - chị không biết tên là gì - thấy bà còn trẻ, xinh, và khỏe mạnh, nên muốn lấy bà làm lẽ. Nó vừa tham nhan sắc, vừa tham nhân công.

Người đến nói chuyện với bà hộ nó, đem cái trăm mẫu và cái uy thế của nó hống hách một vùng ra để làm mồi phú quý, dỗ dành bà. Nhưng bà không bằng lòng:

- Tôi có con giai rồi, tôi có ruộng rồi. Thế là đủ. Tôi chả cần bước đi bước nữa.

Thằng địa chủ suy nghĩ.

Nó lập tâm.

Nó thuê người rủ con trai bà ra cầu chơi, rồi đẩy xuống nước, cho chết đuối. Nó lại xui những người nhà chồng bà, đến bà bắt phải tìm một người cháu trai để lập tự, sau này hương khói cho ông. Lẽ cố nhiên, sáu sào ruộng mọi ngày vẫn nuôi sống mẹ con bà, nay về tay người khác.

Thế là câu bà nói "tôi có con giai rồi, tôi có ruộng rồi", để bà "chả cần bước đi bước nữa", không còn lý do tồn tại.

Lần này, thằng địa chủ nhờ người đến hỏi bà, thì bà phải suy nghĩ. Nó lại tấn công bà bằng cách nhờ những người thân mến của bà, nói vào hộ rất nhiều. Sau hết, bà bằng lòng lấy nó.

Bà lấy lẽ thằng địa chủ. Nghĩa là thằng địa chủ đã có sẵn vợ ăn cơm nóng và nằm nhà trong. Và con vợ cả này đã có cả con trai lẫn con gái. Chính nó là chủ trăm mẫu ruộng. Ngày nào con mẹ cũng ra đồng, để lao động... cái mồm: luôn miệng, nó quang quác mắng chửi người làm. Như vậy, nó đầy đủ quá lắm rồi, đầy đủ gấp mấy bà, khi bà mới góa chồng.

Nhưng có một cái mà gia đình địa chủ nào cũng thiếu, cũng cần, là nhan sắc và nhân công, thì bà không nghĩ ra.

Cho nên bà trở thành cái mồi ngon cho cả hai vợ chồng nó, là những quân chuyên môn dâm dục và bóc lột.

Ban ngày bà hùng hục làm từ gà gáy. Xểnh đâu là bị quát, bị đánh. Đến nửa đêm, bà mới được nghỉ, nhưng không bao giờ thằng chồng cho bà ngủ ngay.

Được ba tháng, bà có mang. Thật là lôi thôi. Vì bà sẽ đẻ ra một đứa con, mà vợ chồng thằng địa chủ không cần có. Đứa con ấy, sau này, lại được hưởng một phần gia tài. Như vậy, lũ con vợ cả mỗi đứa phải bớt đi một ít ruộng. Mà có mang thì kém sức lao động, khi đẻ, phải nghỉ việc. Nhà thì bận. Một người phải nghỉ việc, thì rất thiệt thòi. Thuê người khác làm thay, thì phải trả công. Hơn nữa - theo thằng địa chủ nghĩ - người mà nó nhận là vợ lẽ, khi có con, yếu đi, già đi, sẽ trở thành vô dụng, thì khó đuổi. Nó phải nuôi báo cô suốt đời.

Do những lẽ ấy, vợ chồng thằng địa chủ làm như đã làm với những người vợ lẽ trước có mang. Chúng nó dỗ dành, khuyên nhủ bà uống thuốc thôi thai.

Nhưng không như những người trước, bà không uống. Chúng nó nói vã bọt mép, bà cũng không nghe. Bà không thể tàn nhẫn.

Bảo ngọt không được thì nó bắt.

Một hôm, con vợ cả gọi bà vào buồng ngủ riêng của nó.

Bà biết là chuyện chẳng lành.

Bà thấy trên bàn có một bát thuốc màu đen, hơi còn lên nghi ngút. Hai vợ chồng nó vào. Thằng chồng, một tay cầm dây thừng, một tay cầm đòn cân. Con vợ khóa cửa lại.

Con quạ cái trỏ vào bát thuốc, nói:

- Bà nói đã hết lời mà mày không nghe, thì bà bắt mày uống. Mày ở nhà này, thì phải theo gia pháp nhà này. Ở nhà này không có lệ vợ lẽ đẻ con!

Bà đứng lăng. Nó quát hỏi:

- Mày có uống không?

Thằng chồng giục:

- Khôn hồn thì uống đi. Không uống cũng không được.

Bà bưng mặt, hu hu khóc:

- Tôi tưởng tôi lấy ông để...

Con vợ trừng mắt, đập bàn:

- Không kể lể! Uống!

Bà nhìn nó bằng đôi con mắt nằn nì:

- Thưa bà, tôi không uống. Lấy chồng, ai chả muốn có con...

- Không muốn được! Nói nhiều rồi! Uống!

- Thưa bà, bà giết tôi thì giết. Tôi không uống.

- À, con này khó bảo!

Nó cầm cây vỏ, quật vào lưng bà đánh chát, rồi kề bát thuốc vào mồm bà:

- Uống!

Nhưng bà quay mặt đi, mím chặt môi.

Thấy bà gan, hai vợ chồng nó, mặt đỏ bừng, vật ngựa bà xuống đất. Bà quằn quại. Thằng chồng ôm ghì lấy hai tay và đầu bà. Con vợ gang mồm bà, đổ thuốc vào. Bà không thể cựa. Nhưng bà phì thuốc ra. Nó đánh cho bà kêu để thuốc trôi vào họng. Nhưng bà không kêu, chỉ ằng ặc và cố cựa quậy cái đầu, cho thuốc khỏi vào miệng. Nó bèn thọc hai tay vào nách để cho bà sặc cười, phải nuốt thuốc. Nhưng bà không buồn. Cả bát thuốc đổ ra ngoài gần hết.

Con vợ nghiến răng, vừa vấn lại khăn, vừa nói:

- À con này rắn đầu rắn cổ!

Rứt lời, nó lấy dây thừng, buộc một đầu vào cánh tay bà. Rồi nó quấn xung quanh mình bà. Nó thít thật chặt. Bà mất cựa. Không thể cưỡng nổi, bà năm ườn, thở hổn hển. Vợ chồng nó cũng mệt, cũng thở hổn hển. Thằng chồng quấn thêm dây vào hai cẳng chân bà. Bà cố sức rẫy đành đạch. Nhưng sức một người địch sao nổi hai người. một lát, bà bị trói chặt như con lợn sắp đem mổ. Con vợ, muốn chừng đầy kinh nghiệm, nhét giẻ vào miệng bà, cho bà chửi không rõ tiếng.

Hai vợ chồng nó lật ngửa bà ra. Con vợ ghì chặt. Bà không thể lật nghiêng. Bà thở phì phì ú ớ kêu.

Thằng chồng hỏi:

- Tao hỏi mày lần nữa, có uống thuốc không?

Bà lắc đầu. Con vợ nói:

- Được rồi!

Nó cầm cái đòn càn, để ngang bụng bà, ấn hai tay xuống, để cán đi cán lại. Bà rẫy rụa. Nhưng thằng chồng giữ chặt quá.

Bà vừa rẫy vừa kêu.

Bực mình, thằng chồng bảo con vợ giữ. nó phăm phăm đứng dậy, và cứ cả giày tây đanh trống, nó dẫm lên bụng bà. Nó dận, dận thật mạnh. Bà kêu u ú.

Một lát, bà không quẫy, không cựa, không kêu được nữa. Máu đỏ ướt đẫm quần. Cái thai phọt ra.

Bà ngất đi.

*
*      *

Sợ bà chết ở nhà nó, vợ chồng nó bắt khênh bà ra cổng. Anh Sơ, một tá điền nghèo, đem bà về nhà, chữa chạy cho bà.

Bà thoát chết.

Bà thoát chết thì khỏe dần ra. Và lại đẹp dần ra. Nghĩa là lại có nhan sắc và sức lao động.

Thằng địa chủ tiếc của trời, bắt bà về nhà nó để ở.

Nhưng bà sợ quá rồi. Nghĩ đến hai vợ chồng đứa tàn ác, bà rùng mình.

Thằng địa chủ bảo:

- Không ở chung nhà thì thôi. Lấy chồng không có phép ở nhà người khác.

Nó cho bà ở cái nhà mà nó vừa chiếm để bắt nợ, cách dinh cơ nó độ nửa cây số. Nhà có người ở thì đỡ nát. Ban ngày bà phải đến nhà nó để làm việc cho nó như trước. Ban đêm, được về ngủ với con gái.

Nhưng thằng dê già không để cho bà được sống yên thân một mình. Thỉnh thoảng nó vẫn dùng cái quyền làm chồng để đến hiếp bà. Phải gọi là hiếp mới đúng. Vì bà kinh tởm nó, nhưng không sao chốn nổi nó.

Chẳng bao lâu, bà lại có mang. Lần này thì bà dắt đứa con riêng, trốn đi biệt. Để khỏi phải cán bụng, phọt thai lần thứ hai.

*
*      *

Bà đẻ ra chị Liền. Gọi tên là cái Gái con. Chị của chị tên là cái Gái.

Vợ chồng thằng địa chủ dò biết chỗ bà ở. Thấy bà vẫn còn khỏe mạnh, thì bắt về. Để bóc lột nhân công.

Nó sợ bà mắn đẻ, nên cấm chỉ thằng chồng không được bén mảng đến nhà bà ở. Nhưng cấm sao nổi. Nó đã đánh bà bằng những trận đòn ghen thừa sống thiếu chết. Nó lại đầy đọa bà phải làm lụng vất vả và ăn đói uống khát hơn cho thân hình xấu xí đi.

Nhưng nó vẫn cứ sợ. Sợ cái nghề đàn bà trẻ chưa qua, già chưa tới, lại ở một mình, lỡ ra dại dột với đứa nào, ễnh bụng ra với nó, thì chồng nó không thể không nhận con. Vì cấm rất ngặt, mà thằng này vẫn cứ thì thọt lui tới với bà, nên muốn giải quyết sự không yên tâm này cho êm thấm, nó lừa cho bà uống thuốc độc.

Bà chết.

Năm ấy, chị Gái lên bẩy tuổi, chị Liền lên hai tuổi. Vợ chồng thằng địa chủ đuổi chị Gái về ở với họ nội. Còn chị Liền thì nó giữ lại.

Chị liền gọi vợ chồng thằng địa chủ là thầy và u, xưng là con. Nhưng những đứa con của vợ cả thì được ăn với cha mẹ, mặc lành lặn, ở nhà trên, nằm ngủ có chăn màn. Lên sáu tuổi còn có người phải xì mũi và rửa đít hộ. Còn chị thì cả ngày trần truồng, có mỗi cái áo thải, thì rách tả tơi, ít dám mặc, vì lòe sòe, sợ nó đánh. Chị ăn với đầy tớ, ngủ dưới bếp, nằm ổ rơm với nửa mảnh chiếu thủng. Bất cứ có cớ hay không có cớ, hễ vợ chồng nó ngứa mồm hoặc ngứa tay, thì nó chửi và đánh chị. Chị phải chửi và phải đánh nhiều quá, đến nỗi gầy gò, xanh xao, lúc nào cũng ngẩn ngơ, len lét, sợ sệt tất cả. Thằng chồng bảo chị là cái bướu, sao không chết quách đi cho đỡ bẩn mắt. Con vợ nhiếc chị là con con đĩ, nuôi làm gì cái giống ấy để ăn hại cơm chó. Nhiều lúc đứa trẻ nô đùa ở sân, chị ngồi đằng sau vách bếp, ngó qua lỗ thủng để dòm ra.

Thấy chị Liền bị đầy đọa khổ sở, có ngày đến chết oan vì đòn, nên cậu ruột chị bắt trộm chị đem về nhà.

Người cậu cũng nghèo, nên năm lên năm tuổi, chị Liền đã phải kiếm ăn lấy.

Chị đi ở chăn trâu cho người ta.


II

Tôi về công tác tại xã Toàn Thắng. Qua thăm nghèo hỏi khổ, tôi được biết chị Liền. Năm nay, chị hai mươi chín, bị què từ năm hai mươi bẩy. Chị đã có chồng. Chồng chị là một thương binh, cụt bàn tay trái, được đón về xã bốn năm nay. Nay chị đã có một con trai.

Hồi phát động giảm tô, hai vợ chồng đều được bắt rễ. Qua phong trào đấu tranh, hai người đều được vào Đảng. Chồng chị được chọn đi dự hội nghị tổng kết và được đào tạo làm cán bộ đi phát động cải cách ruộng đất.

Người làng kể lại cái tình duyên của hai anh chị cũng khá hay hay. Nguyên là ở xã, anh thương binh ấy phụ trách lớp Bình dân học vụ. Thấy chị Liền trốn chủ đi học tập anh ấy chú ý và đi sâu tìm hiểu. Ngày ấy, chị Liền còn ở nhà địa chủ. Nó không cho chị đi lớp. Nó không cho chị lấy chồng. Nó hung ác đến nỗi đánh chị què, tàn tật suốt đời. Anh ấy thương chị Liền, đã từ chối một người nhà giàu gọi gả con gái, để kết hôn với chị. Hôm tuyên bố đám cưới, anh ấy phát biểu:

- Tôi là cố nông. Chị Liền là cố nông. Chỉ có người cùng cảnh nghèo khổ mới hiểu nhau để thương yêu nhau lâu bền. Tôi cụt tay vì đế quốc. Chị Liền què chân vì phong kiến. Chị ấy lại khổ hơn tôi, là bị đế quốc nó làm cho mù chữ, và bị phong kiến nó kìm hãm, ngăn ngừa, không cho học tập để u mê thêm. Chúng tôi đều là nạn nhân của cả đế quốc lẫn phong kiến. Chúng tôi có thủ sâu với đế quốc phong kiến thì chúng tôi mới lấy nhau. Tôi lấy chị Liền thì mới cứu chị ra khỏi bàn tay địa chủ nó đầy đọa chị khổ cực từ đời mẹ. Chị liền lấy tôi để giúp tôi thêm sức mạnh lao động. Chúng tôi lấy nhau để nâng đỡ, an ủi nhau, đem hạnh phúc cho nhau, vượt cho nhau khỏi cái nạn thương tật của đế quốc và phong kiến nó gây cho chúng tôi. Chúng tôi lấy nhau, sung sướng, không khổ nữa, là chúng tôi thắng cả đế quốc và phong kiến.

*
*      *

Chị Liền kể cho tôi nghe quãng đời từ năm chị hiểu biết như sau này:

- Năm ấy lên chín, tuổi vẫn ở chăn trâu ở nhà quê. Chị Gái em thì đi ở cho một người ngoài Hà Nội. Một hôm chị em về bảo em ra Hà Nội chơi.

Em theo chị em đi. Xe lửa tới ga. Người xuống xe đông nghìn nghịt. Chị em bảo em níu áo cho khỏi lạc. Trước cửa ga, đèn điện sáng trưng. Xe pháo, người qua kẻ lại ồn ào, tấp nập. Em hoa cả mắt. Em theo chị đi quặt phố này sang phố khác, đến một cửa hiệu, đèn sáng quá, có bày hai con ngựa giấy ở trong tủ. Em đứng lại xem. Lúc quay ra, em không thấy chị em đâu. Em gọi to, rồi khóc ầm ĩ. Bấy giờ có một người đàn ông đến bảo em:

- Mày nín đi, theo tao, tao dắt về với chị mày. Chị mày ở gần đây.

Em theo nó. Nó đưa đi mãi, đến một nhà có hai tầng (chị Liền muốn nói nhà gác) thì vào. Em trèo lên thang, thấy đến hơn một chục đứa trẻ bằng tuổi em, ngồi lốc nhốc trên mặt ván. Chúng nó trố mắt nhìn em. Không thấy chị Gái, em òa lên khóc. Thằng đàn ông dỗ em, em không nín. Tức thì, nó giơ tay tát em một cái. Đầu em rập vào tường. Em không dám khóc. Nhưng tất cả những đứa khác khóc vang. Thằng đàn ông trợn mắt, lấy ở tường cái roi to bằng ngón tay cái người lớn, nói:

- Có cầm họng cả đi không? Đến đây, ông cấm khóc kia mà, quên rồi à?

Tất cả chỉ dám thút thít, rồi im bặt.

Em ở đây hai hôm, thì thấy thằng đàn ông đưa một con đàn bà lạ mặt đến. Hai đứa bắt bọn trẻ con chúng em cởi trần truồng ra, để ngắm nghía từng đứa một, bắt quay đằng trước, quay đằng sau, để nhìn từng li từng tí.

Nó chọn được bốn đứa, trong đó có em, với một đứa nữa tên là Liền. Nó trả thằng đàn ông hai mươi bốn đồng, rồi bảo chúng em:

- Chúng mày theo tao, tao đưa về nhà bố mẹ chúng mày.

Chúng em tưởng thật, rất mừng rỡ, theo nó ra ga, lên xe lửa.

Con Liền tinh nhất đám, oà lên khóc. Nó nói:

- Về nhà em phải đi xe điện kia mà!

Con mẹ tát nó dúi dụi, đẩy nó lên toa, và giao hẹn:

- Đứa nào khóc tao vất xuống đường.

Xe chạy, chúng em ngơ ngác nhìn nhau. Chúng em khôn rồi. Đứa nào khóc nhiều thì phải đánh nhiều, khóc ít, phải đánh ít, không khóc, không phải đánh. Cho nên thằng Cung mau nước mắt nhất, cũng phải thin thít. Vì con mẹ ấy ngồi ngay bên cạnh.

Xe dần dần đến đồi núi. Em sợ quá. Em vẫn nghe chuyện ở rừng có ma hay ăn thịt trẻ con. Em cố nhịn khóc, nhưng không nổi. Em òa lên, đứng dậy, đòi về. Ba đứa kia cũng khóc.

Con mẹ quác mắt, ấn vai em ngồi xuống. Cả bốn đứa khóc loạn lên. Con mẹ tát mỗi đứa một cái. Em bị đinh tai, nhưng cũng nghe rõ nó nói với người đi tàu:

- Thật là cái tội, tôi là cô chúng nó, đưa chúng nó lên chơi với bố mẹ chúng nó ở Phú Thọ, mà chúng nó cứ đòi về.

Thấy nói bố mẹ, em ngó ra để nghe.

*
*      *

Con mẹ buôn người đưa chúng em về nhà nó. Đến hôm phiên chợ, nó đem đi bán, mỗi đứa giá mười lăm đồng.

Con mẹ chánh Mừng mua em với con Liền.

Em ở nhà vợ chồng thằng chánh Mừng mười chín năm. Nó bảo con Liền với em làm con nuôi nó, lớn lên, nó gả chồng và cho quần áo, mấm vàng, xà tích, và ruộng nương.

Trong mười chín năm, mình em đếm được hai mươi ba cái sẹo vì bị đòn, và nay thì què. Vợ chồng nó ác quá. Nó đánh bất cứ bằng cái gì. Vớ được cán cuốc, nó đánh bằng cán cuốc. Vớ được con dao, nó đánh bằng con dao. Chúng em bị đánh nhiều quá đến nỗi mụt cả người, cả ngày không dám nói năng gì, nhưng đêm đêm lại ôm nhau mà khóc.

Cả ngày chúng em làm quần quật ở ngoài ruộng, thật là bán lưng cho trời, bán mặt cho đất ngay từ năm mười ba tuổi. Vợ chồng nó chỉ ngồi phưỡn ra mà ăn, để chửi, để đánh chúng em.

Bất cứ thế nào, nó cũng đánh, cũng chửi.

Nó thấy đít quẩn chúng em còn lành nguyên, mà hai ống đã rách tả tơi, thì nó chửi rằng mặc hại. nó thấy mùa rét, áo chúng em đẫm mồ hôi, thì nó chửi rằng bẩn. Nó không biết rằng tại nó bắt chúng em làm cả ngày, có lúc nào được ngồi như chúng nó đâu để đít quần mòn rách trước ống như quần của hạng chúng nó.

Chúng em phải cũng bị nó đánh chửi, trái cũng bị nó đánh chửi. Thành thử không biết thế nào là phải, là trái. Hình như nó mắc bệnh chửi người, đánh người. Không chửi, không đánh, thì nó ngứa ngáy cái mồm, cái tay hay sao ấy.

Chúng em không đếm xuể là bị đánh bị chửi bao nhiêu rận.

Một hôm, con Liền bảo em:

- Bây giờ mày với tao làm thế này thì đếm được đòn. Thôi thì không kể những cái đấm đá, tát lặt vặt, cứ những trận nào ra trận thì chúng ta bỏ một hạt ngô vào trong ống. Cuối năm, rốc ra đếm xem, đứa nào phải đón nhiều hơn. Năm nào ống em cũng nhiều ngô hơn, có năm đếm được một trăm hai mươi chín hạt. Ngày ấy, con Liền và em, mỗi đứa có một nguyện vọng khác nhau. Nó ước ao được chọn một ngày không bị chửi, bị đánh. Em ước ao được nguyên một bữa an toàn cơm nông. Bởi vì chúng em với chúng nó ăn chung mâm thật, nhưng mình thì mũi ngửi thấy mùi cơm tám ngon ngào ngạt, mà miệng thì nuốt cơm chua.

Một lần, em đi chợ bán khoai cho con mẹ chánh Mừng được một đồng hai. Bà Nhự, là một bần nông, thương em đói rách, bảo:

- Mày bớt ra hai hào mà ăn quà, tao không phô bà ấy đâu mà sợ.

Nhưng em không dám. Không biết bà Nhự tử tế thật, hay định lừa em. Em sợ vợ chồng thằng chánh Mừng quá, đến nỗi nghi kỵ hết cả mọi người, cho ở đời không ai là tốt cả.

Năm chúng em mười sáu tuổi, thẳng chánh Mừng dở thói hiếp dâm. Con Liền bị nó đè sấn ra kêu không được, mới nói:

- Thầy là bố nuôi con, sao thầy làm thế?

Nó đáp:

- Tao nuôi mày chỉ mong mày báo hiếu những lúc này thôi.

Còn em thì nó không hiếp nổi. Vì con vợ nó biết, nên thoát. Hôm sau, nó bảo:

- Đấy là thầy thử con, xem có kiên gan không, chứ thầy còn thèm nhạt gì.

*
*      *

Nằm khởi nghĩa, con Liền với em bị một trận đòn nhừ tử, vì trốn vợ chồng nó đi biểu tình. Con Liền mới cất cơn sốt, bị đòn, lại ốm lại. Nó bắt nằm ở chuồng trâu.

Thấy mỗi ngày một ốm nặng thêm, nó đuổi ra khỏi cổng. Vì cổng lúc nào cũng khóa chặt, nên em thương nó quá, mà không tài nào cứu được nó. Rồi nó chết. Em căm thù quân giết người, nhất định đổi tên là Liền. Em nghĩ bây giờ nước nhà độc lập rồi, em phải đi trình Ủy ban để trừng trị thằng địa chủ gian ác. Nhưng sau em mới rõ, chính thằng chánh Mừng làm chủ tịch Ủy ban lâm thời.

Em biết Cách mạng làm cho người nghèo không phải khổ nữa, nhưng vì tụi chúng nó chui vào chính quyền, nên chúng em không được hưởng một cái gì là sung sướng của độc lập. Chỉ trừ phi bây giờ em thoát ra khỏi nhà địa chủ, tự tay lao động, kiếm lấy mà ăn, mới không bị ai áp bức bóc lột. Nó bảo nó nuôi em, nhưng kỳ thực chính em và con Liền dựng nên cơ nghiệp nhà nó, nuôi vợ chồng con cái nó.

Em đòi đi học và đi họp. Nó bảo:

- Học để ăn cứt à? Không đi họp với lũ đĩ.

Thành thử em đi học và đi họp như đi ăn trộm.

Một lần, em xin nó đi dân công, nhưng nhất định nó không cho đi. Em cãi nó. Sẵn con dao dựa cầm trong tay, nó quăng vào chân em. Một miếng thịt thây lẩy, máu chảy lênh láng.

Em bị thương, nhưng nó không cho nghỉ và cũng không cho thuốc. Nó còn bắt em lội vào chuồng trâu để lấy phân. Vì vậy thành ra sâu quảng. Rồi vì không được kiêng phân, kiêng bùn, nên đau đớn non một năm và đến bây giờ em bị què.

Em thâm thủ thằng hung bạo và thương những người cùng cảnh khổ như em. Nhiều lần, vợ nó đi coi gặt, nhưng lại về sớm, nên giao cho em giả công thợ. Vì không có mặt nó, nên đáng trả ai mười hai gồi, thì em trả mười bốn gồi. Em định hễ nó chửi thì em chửi trả. Cách mạng rồi, em không sợ.

Em thấy nếu ở mãi với vợ chồng thằng chánh Mừng, thì rồi em cũng chết theo con Liền mất thôi. Đời chúng em đáng lẽ được sướng, đời chúng nó đáng lẽ phải khổ, mới phải chứ. Mấy lần em định trốn ra khỏi nhà nó, nhưng chưa lần nào thoát.

Thì đến ngày nhà em tìm hiểu em, và nói với nó để tuyên bố. Trước hết, nó nhất định không nghe, nói rằng nó là bố nuôi, thì có quyền gả bán. Sự thực, nó sợ em lấy chồng thì nó mất một nhân công. Sau nó nể nhà em là thương binh, bằng lòng cho cưới, nhưng bắt phải ở gửi rể. Thủ đoạn của nó là để mua chuộc và bóc lột thêm một sức lao động nữa.

Nhưng nhà em không mắc mưu. Nó nhất định Không cho cưới. Nhưng nhà em cứ tổ chức lễ tuyên bố, và giao hẹn với nó rằng nó còn phải tính công mười chín năm nợ của em.

Nói đến đấy, chị Liền ôm con vào lòng, nở một nụ cười sung sướng, rồi tiếp:

- Nhà em nói thế, chứ em tính em không thèm tiền nhơ bẩn của nhà nó. Chúng em tuy tàn tật, nhưng sống để thương yêu nhau. Chúng em có sức lao động, nhất định không chết đói. chúng em đã trải qua nhiều đau khổ, nhất định đấu tranh để những người nghèo khỏi đau khổ.

Anh ạ, không kể cái Liền, riêng em, trong mười chín năm trời, làm lợi cho vợ chồng thằng chánh Mừng vô kể. Hồi giảm tô, em đã tính em bị nó bóc lột tròn là một nghìn hai trăm tạ. Thế mà khi bước ra khỏi nhà nó, vẫn hai bàn tay trắng. Vợ chồng nó không làm gì cả, đáng lý thì phải đói rách, khổ sở, mà em thì được nó ấm, sung sướng. Nhưng hai bàn tay em xúc của vào cho nó, mà hai bàn tay nó thì đánh đập, đầy đọa em. Thật hết sức là vô lý và bất công.

Ngày phát động giảm tô, anh cán bộ đến nhà em. Anh ấy hỏi đời em. Em cứ ngài ngại, không dám nói. Bởi vì em là con đẻ của địa chủ, lại là con nuôi của địa chủ. Mấy tối đầu, em đi họp, thấy bà con tố khổ nhiều, lắm lúc em cứ muốn kể cái đời khổ của em cho hả dạ. Ngồi im mà nghe, nó cứ thế nào ấy. Em chỉ muốn thở dài và khóc. Là vì em sợ rằng em kể khổ, thì phải động chạm đến những đứa làm em khổ, người ta sẽ trách là em tố bố đẻ và tố bố nuôi, trái với luân thường, đạo lý. Nhưng không rõ người ta có biết cái giai cấp gian ác ấy có còn hiểu luân thường đạo lý là cái gì không?...


Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Trong Tập truyện ngắn "Nông dân với địa chủ"


Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
PDF



Mời đọc tại ISSUU

Tham khảo: Các bài viết liên quan