Ads 468x60px

.

Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2023

Nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977)


Nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977)

Bảo tàng Văn học Việt Nam


1. TIỂU SỬ

Nhà văn Nguyễn Công Hoan sinh ngày 06 tháng 03 1903 ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên).
Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội.



2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC

Nhà văn Nguyễn Công Hoan xuất thân trong một gia đình quan lại nho học. Lúc nhỏ, ông học ở trường Bưởi, nay là trường Chu Văn An, Hà Nội. Năm 1922, ông học trường sư phạm. Cũng từ năm ấy, Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan viết văn từ rất sớm. Truyện ngắn đầu tiên “Quyết chí phiêu lưu” ông viết năm 17 tuổi, Tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Từ năm 1930, ông thường xuyên có bài trên mục Xã hội ba đào ký của báo An Nam tạp chí, hầu hết là những truyện ngắn trào lộng, phê phán xã hội. Tiểu thuyết “Những cảnh khốn nạn” tập I, xuất bản năm 1934, viết trong thời gian ông dạy học ở Lào Cai, đã báo hiệu con đường văn chương độc đáo của riêng ông. Năm 1935, tập truyện ngắn Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan được xuất bản gây một tiếng vang lớn và đưa ông lên vị trí hàng đầu những nhà văn hiện thực xuất sắc lúc bấy giờ. Cho đến trước 1945, nhà văn đã viết hàng trăm truyện ngắn và hàng chục cuốn tiểu thuyết vừa hiện thực vừa lãng mạn.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông làm Giám đốc báo chí Hà Nội rồi Phó giám đốc Sở tuyên truyền Bắc Bộ.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nhà văn gia nhập bộ đội, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân (báo Quân đội Nhân dân ngày nay), Giám đốc Trường Văn hóa Lý Thường Kiệt, Chủ nhiệm tờ Quân nhân học báo. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ.

Hòa bình lập lại 1954, ông trở lại nghề văn. Từ sau năm 1954, nhà văn công tác ở Hội văn học nghệ thuật Việt Nam với cương vị Ủy viên. Khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, Ông được bầu làm Chủ tịch Hội (khóa đầu tiên 1957 – 1958), kiêm Chủ nhiệm Tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ) và là Ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học & nghệ thuật Việt Nam. Ông tiếp tục viết truyện ngắn, tiểu thuyết và nhiều bài về kinh nghiệm sáng tác, nghiên cứu bình luận văn chương. Ông mất ngày 6.6.1977 tại Hà Nội và để lại một di sản văn học khá đồ sộ: 200 truyện ngắn, 30 truyện dài, và hàng trăm bài viết về kinh nghiệm sáng tác, phê bình và nghiên cứu văn học. Tên Ông hiện được đặt cho một đường phố ở quận Ba Đình, Hà Nội. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình có con đường mang tên ông. Vào năm 2009 tên ông đã được đặt cho trường Trung học phổ thông Nguyễn Công Hoan tại Xã Mễ Sở, Huyện Văn Giang, Tỉnh Hưng Yên.



3. TÁC PHẨM
  • Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923)
  • Răng con chó của nhà tư sản (truyện ngắn, 1929; đăng Annam tạp chí số 23 năm 1931 với nhan đề Răng con vật nhà tư bản)
  • Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1930)
  • Thật là phúc (truyện ngắn, 1931)
  • Người ngựa, ngựa người (truyện ngắn, 1931)
  • Thế là mợ nó đi tây (truyện ngắn, 1932)
  • Xin chữ cụ nghè (truyện ngắn, 1932)
  • Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933). Năm 1936, truyện dài Tác phảm Tắt lửa lòng của ông đã được soạn giả Trần Hữu Trang chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng “Lan và Điệp”.
  • Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934)
  • Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935)
  • Đồng hào có ma (truyện ngắn)
  • Mất cái ví (truyện ngắn)
  • Đào kép mới (truyện ngắn)
  • Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn)
  • Xuất giá tòng phu (truyện ngắn)
  • Một tin buồn (truyện ngắn)
  • Nỗi lòng ai tỏ (truyện ngắn)
  • Tôi cũng không hiểu tại làm sao? (truyện ngắn)
  • Chiếc quan tài (truyện ngắn)
  • Sáu mạng Người (truyện ngắn)
  • Thịt người chết (truyện ngắn)
  • Sáng, chị phu mỏ (truyện ngắn)
  • Ông chủ (truyện dài)
  • Bà chủ (truyện dài)
  • Thanh đạm (truyện dài)
  • Cô giáo Minh (Truyện dài)
  • Cô làm công (tiểu thuyết, 1936)
  • Oẳn tà roằn (truyện ngắn, 1937)
  • Vợ (truyện ngắn, 1937)
  • Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938)
  • Tinh thần thể dục (truyện ngắn, 1939)
  • Phành phạch (truyện ngắn, 1939)
  • Cái thủ lợn (tiểu thuyết, 1939)
  • Nông dân và địa chủ (tập truyện ngắn, 1955)
  • Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956)
  • Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960)
  • Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961)
  • Đống rác cũ (tiểu thuyết, 1963)
  • Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971)
  • Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1983 – 1986)



4. GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC

– Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.





Thứ Tư, 19 tháng 4, 2023

Nguyễn Công Hoan - Bậc thầy về truyện ngắn châm biếm


Nguyễn Công Hoan -
Bậc thầy về truyện ngắn châm biếm

TTXVN
Là tác giả của trên 200 truyện ngắn và gần 30 truyện dài, truyện vừa với nghệ thuật đặc sắc và độc đáo, Nguyễn Công Hoan là một trong những ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Qua hơn 50 năm cầm bút, sự nghiệp văn học của ông khá đồ sộ. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm với hàng trăm truyện ngắn, truyện dài và nhiều tiểu thuyết, bút ký, tiểu luận về ngôn ngữ văn học. Ông sinh ngày 6/3/1903, cách đây 120 năm.




Bậc thầy về truyện ngắn châm biếm –
Nguyễn Công Hoan

Theo: Thanh Hoa (TTXVN)



Là tác giả của trên 200 truyện ngắn và gần 30 truyện dài, truyện vừa với nghệ thuật đặc sắc và độc đáo, Nguyễn Công Hoan là một trong những ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945.

Một bậc thầy về truyện ngắn và nghệ thuật trào phúng
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6/3/1903, quê ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông được sinh ra và trưởng thành trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và học thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối, những giai thoại mang tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích bọn tầng lớp quan lại tham lam, địa chủ cường hào, ác bá. Chính những thơ ca và giai thoại này đã làm ảnh hưởng sâu sắc tới lối viết của ông sau này.

Nguyễn Công Hoan viết văn từ rất sớm, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường và ngay từ những ngày đầu cầm bút, ông đã xác định được hướng đi và phong cách viết. Ông có biệt tài về truyện ngắn trào phúng, ông giỏi phát hiện những tình huống mâu thuẫn đáng cười và có cách kể chuyện thật tự nhiên, có duyên, hấp dẫn với một ngôn ngữ sinh động.

Nếu như Nam Cao nhìn thấy cuộc đời của con người chỉ là đang sống mòn, đang chết dần đi hoặc bị tha hóa; với Vũ Trọng Phụng, cuộc đời chỉ toàn sự vô nghĩa lý, thì đối với Nguyễn Công Hoan, đời là một sân khấu hài kịch. Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn của mọi thứ lố lăng, kệch cỡm, nhìn vào đâu cũng thấy sự giả dối, lừa bịp, những cái đáng cười, đáng chế giễu, thậm chí cười ra nước mắt…

Trong hồi ký của mình, nhà văn Lê Minh, con gái Nguyễn Công Hoan đã chia sẻ: “Thời của ông, trong lúc một số nhà văn đang say sưa với chủ nghĩa lãng mạn, với những hư hư thực thực kiểu “Hồn bướm mơ tiên” thì ông lại dứt khoát lựa chọn một đường đi khác cho riêng mình”.

Còn GS.TS văn học người Nga Niculin đã gọi ông là “bậc thầy về truyện ngắn châm biếm”. Với hàng trăm truyện ngắn trào phúng, mỗi câu chuyện là một cảnh đời, một số phận, ông đã vẽ lên bức tranh sinh động về xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, đầy rẫy bất công, giả dối.

Ông đả kích không thương tiếc bọn quan lại tham lam, bỉ ổi, chức cao nhưng ít tài đức, bọn địa chủ cường hào keo bẩn, ngu dốt, bọn tư sản vô lương tâm chỉ biết chạy theo đồng tiền và lối sống tư sản lố lăng, đồi bại… bằng một bút pháp trào lộng, khiến bạn đọc không thể không cười ra nước mắt. Nhưng ở chỗ sâu thẳm trái tim ông là lòng xót xa, thương cảm đối với những người dân nghèo bị cho là thấp cổ bé họng..

Thế giới nhân vật trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan vô cùng đông đúc. Đó là những phu phen, thợ thuyền, dân quê, những địa chủ, lý dịch, cường hào; những nghị viên, dân biểu, quan lại; những con buôn, tư sản, chủ thầu; những giáo chức, nghệ nhân, viết văn, làm báo; những me tây, cô đầu, kép hát; những gái điếm, con sen, thằng nhỏ, lính cơ, thầy quyền, những bồi bếp, tây trắng, tây đen…

Ông đã dày công khắc họa thế giới nhân vật đông đúc, đa dạng ấy khiến cho họ trở nên đặc sắc, sinh động, đầy sức sống. Sau mỗi một hành động của nhân vật, tiếng cười bật lên với nhiều cung bậc khác nhau. Đó là tiếng cười khoái trá, sảng khoái. Đó cũng là tiếng cười mỉa mai, châm biếm, đả kích, đầy chua xót.

Đó còn là tiếng cười căm phẫn xã hội đồng tiền đưa đẩy con người vào những hoàn cảnh trớ trêu mà cái bi, cái hài xen lẫn hòa trộn.

Danh tiếng của ông thật sự nổi bật trên văn đàn Việt Nam là một bậc thầy về truyện ngắn và nghệ thuật trào phúng khi tập truyện ngắn “Kép Tư Bền” ra đời. Tác phẩm đã gây một tiếng vang lớn và tên tuổi của ông nổi tiếng khắp Bắc Trung Nam, có 18 tờ báo đăng bài khen ngợi…

Nguyễn Công Hoan viết nhiều trong những năm 1920 đến 1945, truyện của ông chiếm khối lượng lớn. “Bước đường cùng” là tác phẩm tiêu biểu nhất, có giá trị cao nhất của Nguyễn Công Hoan. Với “Bước đường cùng” lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một tác phẩm nói đến đời sống nông thôn Việt Nam một cách sâu sắc, vạch trần được một trong hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội nước ta dưới thời thuộc Pháp là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến.

Người nông dân trong “Bước đường cùng” không còn thụ động như người nông dân trong văn học Việt Nam ngày trước nữa. Đó là một hiện tượng rất mới trong văn học nước ta hồi bấy giờ. Chính quyền thực dân đã phải ra lệnh cấm lưu hành.

Cùng thời điểm này ông cũng có nhiều các tác phẩm khác tiêu biểu như: “Cô làm công” (tiểu thuyết, 1936), “Lá ngọc cành vàng” (tiểu thuyết, 1934), “Cái thủ lợn” (tiểu thuyết, 1939), “Phành phạch” (truyện ngắn, 1939)… Từ sau năm 1954, ông cũng có nhiều truyện ngắn viết về cải cách ruộng đất và chiến sĩ cách mạng.

Một thế đứng vững vàng trong văn mạch dân tộc

Sau ngày hòa bình lập lại, Nguyễn Công Hoan công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm cán bộ Nhà xuất bản văn nghệ. Khi Hội Nhà văn thành lập (1957), ông được bầu làm Chủ tịch Hội khóa đầu tiên và ủy viên Ban Thường vụ trong các khóa tiếp sau đó; đồng thời là ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.

Năm 1977, Nguyễn Công Hoan qua đời tại Hà Nội, ông thọ 75 tuổi. Qua hơn 50 năm cầm bút, sự nghiệp văn học của ông khá đồ sộ. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm với hàng trăm truyện ngắn, truyện dài và nhiều tiểu thuyết, bút ký, tiểu luận về ngôn ngữ văn học. Các tác phẩm của ông đã được tái bản nhiều lần và hiện được chọn lại trong bộ tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, nhà xuất bản Văn học 1983-1986).

Với tài năng và những cống hiến của mình cho văn học nước nhà, Nguyễn Công Hoan có một vị trí sang trọng trong lịch sử văn học Việt Nam; một thế đứng vững vàng trong văn mạch dân tộc. Tên tuổi của ông còn được ghi trong “Từ điển bách khoa toàn thư” của Liên Xô những năm 60…

Đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về ông (kể cả của những người nước ngoài), khai thác, tìm hiểu nhiều góc cạnh, nhiều tầng vỉa trong khối di sản lớn mà ông để lại. Năm 1996, cùng với 14 nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, ông đã vinh dự được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật.


Theo: Thanh Hoa (TTXVN)