Ads 468x60px

.

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2019

CẢ CUỘC ĐỜI, NGUYỄN CÔNG HOAN CHỦ TRƯƠNG 'GIỮ MÌNH' CHO 'THUẦN VIỆT'


CẢ CUỘC ĐỜI, NGUYỄN CÔNG HOAN CHỦ TRƯƠNG 'GIỮ MÌNH' CHO 'THUẦN VIỆT'

Sách Văn học Đinh Tị

Có lần Nguyễn Công Hoan đã tự nhận rằng mình không biết làm văn tả cảnh. Lý do thì thật đơn giản, ấy là ông không thấy ở thiên nhiên có gì đẹp. Đối với con người, ông càng khó tìm thấy vẻ đẹp ở họ hơn. Trong văn của Nguyễn Công Hoan, hầu như người ta chẳng tìm được một nhân vật đẹp mà chỉ cần nhắc đến tên là có thể nằm lòng tác phẩm nhân vật ấy xuất hiện. Giống như Chí Phèo của Nam Cao, hay Xuân Tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng, chị Dậu của Ngô Tất Tố.

Nguyễn Công Hoan cầm bút từ rất sớm, khi chỉ mới 17 tuổi. Sự nghiệp văn chương trước năm 1945 có phần thành đạt hơn, tươi sáng hơn so với sau năm 1945, khi mà lớp nhà văn trẻ khi ấy như Nguyễn Tuân, Tô Hoài đang nở rực rỡ. Dù không đọc được hết các tác phẩm mới ấy, nhưng Nguyễn Công Hoan vẫn mạnh bạo nhận xét rằng “Truyện ngắn sau Cách mạng tháng Tám hay hơn truyện ngắn thời trước rất nhiều”.

Văn chương Nguyễn Công Hoan là thứ văn bám chặt với đời sống và nhìn thẳng vào các vấn đề của xã hội đương thời. Ông có biệt tài quan sát và đưa vào tác phẩm của mình đời sống của dân nghèo thành thị. Ông che chở, bênh vực, rồi nói hộ tiếng lòng và khát vọng cuộc đời của họ. Vậy nên người ta mới ca ngợi Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán, một nhà văn bậc thầy về truyện ngắn và nghệ thuật trào phúng.

Nguyễn Công Hoan đã sớm tính chuyện viết hồi ký. Cần phải biết rằng suốt thời trung đại, văn học Việt Nam không có hồi ký. Mà ngay trong thế kỷ 20, cả nhà chính trị, nhà hoạt động xã hội, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ cũng không mấy ai tính chuyện động bút trọng thể loại này. Nhưng Nguyễn Công Hoan thì khác, có lần ông đã tâm sự với Tô Hoài rằng, có một loại truyện dài mà khi viết ra sẽ dài vô tận, ấy là truyện nhớ gì ghi nấy.


Có thể coi Nguyễn Công Hoan là một người ghi chép phong tục. Ông muốn ghi lại cho lớp sau biết những gì mình đã từng trải, những mắt thấy tai nghe từ lúc mất nước đến lúc độc lập có bao nhiêu chuyện phong phú. Nhà văn đã tự gọi “Bước đường cùng” đơn giản chỉ là một tiểu thuyết phong tục, chẳng qua thao nhiều chuyện sinh hoạt ở nông thôn như chuyện sinh đẻ, chuyện cãi nhau vì mất gà đến cảnh vay nợ, ăn khao,... mà đưa vào trong sách. Chính vì ghi chép lại phong tục nên văn của ông mới không có một nhân vật nào được coi là đẹp, là tiêu biểu.

Cả đời, Nguyễn Công Hoan chủ trương “giữ mình” cho “thuần Việt”. Ông không bị ảnh hưởng nhiều bởi trường học của Pháp hay sách báo nước ngoài. Ông phê phán những người viết truyện nhưng chẳng phải truyện Việt Nam, từ tâm lý đến ngôn ngữ nhân vật đều giống truyện nước ngoài, xa rời độc giả, xa rời thực tế Việt Nam.

Có thể hiện thời, quan điểm đọc sách và cách chọn sách đọc của Nguyễn Công Hoan chỉ đúng với riêng ông, và không phù hợp với xu thế chung, nhưng có một điều chắc chắn là, suốt một đời vất vả sáng tạo, Nguyễn Công Hoan đã dâng hiến cho bạn đọc những tác phẩm thấm đẫm phong vị và cốt cách con người Việt Nam.



Thứ Tư, 14 tháng 8, 2019

"Nhà văn hiện đại - Quyển 5": Nguyễn Công Hoan (Vũ Ngọc Phan)


Nhà văn hiện đại- Quyển 5

Nguyễn Công Hoan

Tác giả: Vũ Ngọc Phan
NXB: Thăng Long
Năm: 1960
Ngôn Ngữ: Tiếng Việt
Định dạng: pdf
Quyển 5
Tiểu thuyết tả chân
Nguyễn Công Hoan

Trang 22-48/236 (1051-1077)


Quyển 1

Quyển 2

Quyển 3

Quyển 4




Một cuộc gặp gỡ


Một cuộc gặp gỡ

Nhà văn Lê Minh

Phái đoàn đồng chí Lê Đức Thọ cùng gia đình cụ Đạo (Chu Lễ - Hà Tĩnh) trên đường từ chiến khu Việt Bắc vào Nam Bộ (đồng chí Lê Đức Thọ - người đứng thứ hai từ trái sang)



- Số mình chỉ được ở nhà hướng Tây.

Cha tôi[1][1] Nhà văn Nguyễn Công Hoan. thường nói như một lời vỗ về, mỗi khi nửa đêm nóng quá tôi giẫy đạp lục xục trong giường và cuối cùng cha tôi phải buông bút bế tôi ra vại nước. Cơn nóng dịu xuống lúc về sáng.

Căn nhà gác nhỏ số 7, có cầu thang đi riêng xuống cửa mở thẳng ra hè đường, rất giống một loạt nhà trong cùng dãy, đều thuê của Cha xứ đạo. Nhà trông thẳng hướng mặt trời chiều, gay gắt nắng lửa.

Chợ Rồng về chiều càng lao xao tấp nập người và hàng, đồ biển từ các huyện đánh bắt được theo xe khách lúc này mới gồng gánh đổ vào chợ tỉnh... Mùi tôm tép, cá, rạm tanh mặn ươn nồng vì một ngày chịu nắng. Đến nỗi buổi chiều tối nhìn vào nhà chợ, trong ánh đèn mờ ảo chỉ còn thấy trỏng trơ những bàn sạp, những cọc lều, những lá rác nhưng cái mùi chợ kia thì vẫn dai dẳng bốc lên nồng nặc thấm ướp suốt một dãy nhà trông xuống chợ Rồng. Bên kia nhà chợ cách một con đường lớn là nhà chợ vải và hoa quả, ngược lại, sáng sủa, khô ráo, bước vào đã thơm ngát như đâu đây có hoa ngâu, hoa huệ. Hương chuối ngự chỉ riêng chợ Rồng mới có, sao mà ngọt ngào, sao mà thanh khiết. Nhà phía bên ấy thuê đắt tiền hơn.

Một người khách lạ đến thăm cha tôi. Ông không phải là thầy giáo, vì không thấy nói gì chuyện lớp học. Cũng không phải là người trong họ Xuân Cầu ra, vì nếu thế mẹ tôi đã biết. Nhưng thân thiết mức nào mà khi người khách ra về rồi, cha mẹ tôi không hết thầm thì vui vẻ. Trong câu chuyện của hai người thường nhắc một tên họ rất lạ. Cũng cái tên họ ấy, tôi nghe mẹ đọc trên chiếc phong bì thư cha tôi sắp đem gửi. Cũng cái tên họ ấy, mỗi lần ông khách tới thăm, trong câu chuyện của hai người thường nhắc đến. Rồi một hôm, bà nội tôi từ quê xuống. Trong những toan tính của người lớn tôi chắp nhặt được, cộng với trí tưởng tượng của trẻ thơ, tôi hiểu rằng người chú ruột của tôi đi biệt tích từ khi tôi chưa có mặt trên đời này, mà cả nhà ai cũng nhắc trong những ngày đoàn tụ để xót thương, sắp trở về đến nhà. Người khách đã cho tôi tưởng tượng ra như vậy. Người khách đã bày cách cho cha tôi làm đơn và bà nội tôi điểm chỉ. Đơn gửi Mặt trận Bình dân Pháp đề nghị can thiệp cho chú được phóng thích. Chú đã mang một tên họ khác để không ai đoán nhận được tông tích: Phạm Văn Khương[2][2] Tức Lê Văn Lương. , số tù 6214, đảo Côn Lôn. Người khách cũng mới từ đảo Côn Lôn trở về. Cha tôi gọi ông theo cách xưng hô thân mật: Anh Khải[3][3] Tức Lê Đức Thọ. . "Anh Khải" người dong dỏng cao, cao hơn cha tôi, nhưng trẻ hơn cha tôi nhiều. Té ra "anh Khải" cũng người tỉnh này, nhà ở bên kia Đò Quan, lại là anh ruột anh Đống[4][4] Tức Mai Chí Thọ. , học trò của cha tôi và học cùng lớp với chú Bông tôi. Đều đã là người thân trong nhà cả.

"Anh Khải" vẫn đến với cha tôi và bao giờ cha cũng sai tôi những việc lấy thuốc lá, lấy trà, mặc dù tôi còn rất bé. Đó chứng tỏ một niềm vui của cha tôi, điều cha tôi quý khách. Câu chuyện giữa hai người nghiêm trang, đôi lúc xúc động, và lần nào cũng vậy, sau khi tiễn khách ra về, cha tôi ngồi vào bàn, điếu thuốc lá trên tay, cha tôi nhìn đi đâu, đang nghĩ gì? Chắc là người chú ruột biệt tích của tôi đã lên tàu thủy và sắp về đến nhà rồi. Bao nhiêu tưởng tượng hân hoan nảy nở trong óc tôi về giây phút đầu tiên chú hiện ra trước ô cửa kia, với cái đầu húi trọc, với cái áo trắng đính số tù trước ngực. Chắc chắn bà nội tôi sẽ bật khóc òa nức nở.

Cha tôi cặm cụi trước bàn. Gần như không đứng dậy. Gần như không biết gì xảy ra xung quanh. Khói thuốc lá mù mịt trong phòng đến nỗi mẹ tôi kêu lên vì ngạt. Chỉ có tôi được mon men đến gần, gọi cha đi ăn cơm, giục cha đứng dậy nghỉ. Nhưng cha chỉ thả tay xuống xoa đầu tôi:

- Con ngoan, đi chơi đã,

Tiếng ngòi bút loạt xoạt ngày đêm trên trang giấy. Liền trong nửa tháng, một cánh tay cha tôi bại đi nhức nhối.

- Sao thế, cha đau lắm ư?

Cha tôi cười:

- Con đấm đúng chỗ này này. Thế, thế. Hết đau rồi.

Cái quả đấm nhỏ xíu chỉ bằng quả ổi của tôi làm cho cha tôi buồn buồn và bật lên tiếng cười.

- Cha ơi, có khách.

Tiếng chuông đồng rung leng keng. Cha tôi xuống gác. Và người khách vụt bước vào.

Một thất vọng lớn cho tuổi thơ của tôi, không có chuyện ân xá nữa. Người lớn nói với nhau như thế sau khi khách ra về. Tất cả đổ vỡ. Những người cộng sản bị bắt trở lại rồi, hoặc sẽ bị đày đi căng. Cuốn tiểu thuyết cha tôi mới cho ra đời liền bị cấm. Cha tôi phải thi hành lệnh rời khỏi Nam Định tức khắc.

Chẳng thể bao giờ ngờ được, ít lâu sau, chính bà nội tôi đã tay nải lên đường lặn lội đến tận căng Bá Vân để thăm những người bạn con mình đã bị bắt trở lại. Lúc về, bà cầm thư đi phân phát đến từng gia đình cho anh em, mà suốt thời gian ở quây quần trên căng, anh em đã gọi bà bằng cái tên thiêng liêng, đầm ấm: Mẹ.

Ngày nay nghĩ lại tôi vẫn sửng sốt. Ngay từ những ngày xa xưa ấy trong xã hội Việt Nam đã ngấm ngầm nảy sinh một quan hệ ruột thịt giữa người với người, mối quan hệ không bắt đầu từ một dòng máu, hoặc từ đồng tiền và địa vị như mô hình xã hội đương thời. Đã là tù thì còn có địa vị gì nữa. Nhưng một sự thức dậy đột ngột đã làm cho bà tôi nhận biết, có mối hòa hợp tự đáy lòng mình với lý tưởng của con, bà tôn trọng và từ đó kính phục cuộc đời hy sinh của tất cả các bạn con. Bất chấp bọn mật thám đương theo dõi và triệt hạ gia đình mình, bà đã làm một việc mà xã hội ngày ấy người ta cho là dại dột. Những người tiếp tục đến tụ hội ở nhà với chú Bông tôi, bà che chở. Bà thường nhắc hỏi về "anh Khải". Như xưa kia "anh Khải" đã mang bóng dáng người con trai mất tích của bà đương ở tù chung thân ngoài đảo Côn Lôn, bóng dáng người cháu kêu bà bằng dì ruột là anh Tô Hiệu, mà "anh Khải" cũng rất thân ngoài Côn Đảo, sau này đã chết trong Nhà ngục Sơn La.

Sự kiện Mặt trận Bình dân ở Pháp lên nắm chính quyền và ở Đông Dương, nhiều chính trị phạm được ra khỏi các nhà lao về địa phương gây phong trào, "anh Khải" được trở về Nam Định, đã tạo nên những vang động sâu xa trong lòng mỗi người thuộc gia đình chúng tôi như thế.

Một đoạn trong Đời viết văn của tôi (Nguyễn Công Hoan): "Từ khi tôi được theo dõi các cuộc đình công của công nhân đòi quyền lợi kinh tế và chính trị, các cuộc điều tra của Chính phủ bình dân, phái đoàn Gôđa, Vian sang Đông Dương, từ khi tôi thích đọc các sách báo của Mặt trận dân chủ thì tôi bắt đầu yêu công nhân. Tôi tìm hiểu anh em thợ thuyền Nhà máy sợi và Nhà máy tơ. Tôi xin gia nhập chi nhánh Pháp của Đảng công nhân quốc tế SFIO tức Đảng Xã hội Pháp và dịp kỷ niệm Quốc tế Lao động năm 1938, tôi được cử vào ban trật tự trong cuộc biểu tình lớn ngày 1-5 tại khu Đấu Xảo Hà Nội".
"Càng gần gũi anh em chính trị phạm cũ, nhất là anh Phan Đình Khải hay đến chơi với tôi, tôi càng hiểu chủ nghĩa cộng sản là nhân đạo, và đấu tranh giai cấp chính là đấu tranh giải phóng cho đất nước, cho quảng đại nhân dân".

"Nhưng mặt khác, tôi càng hiểu cộng sản, càng yêu cộng sản, thì bọn cầm quyền ở Nam Định cũng càng hiểu tôi và càng không yêu tôi. Chúng cho tôi là người cộng sản trá hình, là đảng viên Đảng Xã hội để hoạt động công khai.

"Tôi là "một tay cộng sản nguy hiểm, cần tống ra khỏi nơi tập trung thợ thuyền này" (nguyên văn hồ sơ bí mật ở Sở Mật thám). Cho nên Nha học chính Bắc Kỳ, theo lệnh của thống sứ, đuổi tôi ra một hòn đảo xa xôi, hẻo lánh là đảo Trà Cổ. Nghị định thuyên chuyển ký trước ngày nghỉ hè mấy hôm, bắt tôi rời khỏi Nam Định lập tức".

"Thì ừ, ông cộng sản cho mày xem". Suốt nghỉ hè, tôi ngồi lỳ tại Nam Định. Tôi viết cuốn Bước đường cùng, một truyện dài về nông dân, để trang trải món nợ lòng đối với anh em cộng sản ở Nam Định. Cái "sự kiện vùng dậy" của anh Pha chưa đúng với thực tế hồi bấy giờ, nhưng cuối cùng tôi cứ cho anh nông dân vùng dậy. Đó là vì tôi đã chịu ảnh hưởng trong các sách báo cộng sản hồi bấy giờ".

*
* *

Anh Khải thật hồ hởi khi nhắc một kỷ niệm sâu sắc trong đời anh khi tôi hỏi chuyện anh. "Làm sao mà tôi quen biết anh Hoan ư? Chính là vì có Khương. Tôi ra Côn Đảo trước Khương".

Anh kể tiếp: "Đoàn 89 tù cộng sản vừa dự phiên tòa đại hình đặc biệt mở tại Sài Gòn, ngày 14-5-1939 ra đến đảo, đã gây một chấn động lớn trong anh em. Đoàn tù có mấy anh án chém được Quốc tế đỏ can thiệp hạ xuống chung thân. Tôi ở cùng banh với Khương, một trong những người tù án chém ngày đó, nhưng ở khác khám. Phải nói rằng, anh em ai cũng quý Khương. Riêng tôi, rất phục tinh thần dũng cảm của anh. Khương là một tấm gương về sự hy sinh. Con người của anh công tâm, giản dị, ăn ở với ai cũng có tình, con người tốt lắm. Sống với ai cũng được người ta thương. Hai đứa tôi thân nhau. Năm 1936 Mặt trận Bình dân lên, tôi được phóng thích. Tôi hỏi Khương: Gia đình mày còn ai không? Lần này về tao sẽ đi tìm. Từ khi bỏ nhà vào Sài Gòn hoạt động, Khương giấu biệt tông tích để khỏi lụy đến gia đình. Anh ruột của Khương là anh Nguyễn Công Hoan đang dạy học ở Nam Định. Nam Định lại chính quê tôi.

Được Đảng phân công hoạt động công khai và trực tiếp ở tỉnh nhà, tôi liên lạc với anh Hoạt tức Trần Bảo, lúc ấy là Xứ uỷ viên phụ trách Nam Định, Thái Bình. Rồi qua Đống, em trai tôi, bạn học với Nguyễn Công Bông là em út của Khương; hai cậu này cũng rất thân nhau. Thế là tôi bắt liên lạc với Bông và đến anh Hoan. Tôi kể với anh những chuyện về Khương. Tôi nhận xét anh Hoan là người điềm đạm, nói năng chắc chắn, anh là người đã được giác ngộ cách mạng.

Tôi đến anh Hoan luôn, ở căn gác số 7 phố chợ Rồng. Anh hỏi tôi nhiều về phong trào công nhân, về tình hình các nhà tù Côn Đảo, Sơn La, về tình hình công nhân máy sợi, máy tơ, công nhân ngoài mỏ. Tôi đã chuyển nhiều báo chí đến cho anh đọc. Tôi bàn với anh Hoạt tìm mọi cách giúp anh Hoan tiếp xúc được rộng rãi với công nhân. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ, anh đã giác ngộ, cần để anh hiểu về chủ nghĩa cộng sản. Hoàn cảnh anh không đi hoạt động thoát ly được thì tham gia phong trào công khai. Còn tôi giới thiệu Bông để anh Hoạt tổ chức hoạt động bí mật và đưa vào Đảng.

- Có phải vì anh là người thích thơ phú nên ngày ấy đã gắn bó với anh Hoan?

- Hoàn toàn không phải thế. Hoạt động bí mật nên phải dựa vào gia đình các đồng chí, đó là nơi tin cậy. Tôi không hề nghĩ rằng gặp anh Hoan để ảnh hưởng gì đến bước đường viết văn của anh Hoan.

- Vậy anh có đọc Bước đường cùng chứ?.

- Có. Tôi đọc ngay từ ngày ấy. Các tư liệu giúp anh Hoan hiểu về đời sống công nhân, một phần là do tôi đưa đến. Sau này trong kháng chiến chống Pháp, đôi lần tôi cũng gặp anh Hoan, vẫn như xưa, vui vẻ, tin cậy và thân tình. Song chỉ một thời gian ngắn tôi đã chuyển công tác vào mặt trận miền Nam, rồi sau này khi anh Hoan mất, tôi ở mặt trận Tây Nam. Rất tiếc là không được gặp anh lần cuối cùng. Nhưng trước sau như một, tôi rất quý trọng anh. Chính vì hồi ấy mật thám theo dõi tôi, biết tôi thường đến anh Hoan, nên tên anh đã vào sổ đen của Sở Mật thám. Anh Hoan có nói đến một bước chuyển quan trọng trong đời viết văn của anh thời kỳ Mặt trận Bình dân, và nhắc đến tên tôi. Nhưng tôi nghĩ, đó chỉ là một phần, còn là do ảnh hưởng của cao trào cách mạng và do anh Hoan đã tự hào về nhân cách người em ruột, người ấy là bạn tù rất thân của tôi...

Quả thật tôi đã bàng hoàng trước câu chuyện giản dị trên đây khi được nghe kể lại: Một cao trào cách mạng. Những nhân cách cộng sản. Thôi thúc một tấm lòng yêu nước. Cuộc gặp gỡ giữa cao trào chính trị với nhà văn trong tình huống cách mạng hết sức đặc biệt ấy, đã tạo nên những rung động ngân vang trên những trang viết.

Hành động "vùng dậy" của nông dân Pha trong Bước đường cùng; hành động phản kháng đến cùng của Sáng, chị phu mỏ; nhân vật Pha trở thành công nhân hầm lò, đứng trong tổ chức của giai cấp, đấu tranh quyết liệt chống bọn bóc lột cường quyền, đề cương chi tiết đã hoàn thành của cuốn tiểu thuyết tiếp theo: Bước đường ngoặt. Tất cả đã chứng minh một sự kiện vượt mình, một biến động lớn trong chọn lựa nhân vật, trong quyết định số phận nhân vật, trong khuynh hướng phát triển tiểu thuyết: Nhà văn dám dấn thân và sức sáng tạo bật dậy.

Lịch sử văn học Việt Nam cho đến hôm nay có lẽ cũng mới chỉ có một cuộc gặp gỡ này, một nhà văn với cao trào cách mạng, trong một tình huống đặc biệt của cách mạng. Cuộc gặp tự nhiên như con sông nhỏ hòa vào trong con sông lớn tan trong nhau ở khúc chảy xiết.

Cái đẹp đến, chẳng bao giờ cần sự sắp đặt.

Cái đẹp xuất hiện, không bao giờ tuân theo ý định có trước chủ quan...

Cái đẹp bình dị chỉ nảy sinh trong sự chân thành của tấm lòng. Chính vì lẽ đó, mối tình đã long lanh tồn tại. Căn nhà nhỏ số 7 nhìn xuống chợ Rồng, trở thành nơi chứng kiến.



-------------------------------
[1]. Nhà văn Nguyễn Công Hoan.
[2]. Tức Lê Văn Lương.
[3]. Tức Lê Đức Thọ.
[4]. Tức Mai Chí Thọ.

Trích trong cuốn Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng;

Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, 2011



Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2019

Tôi mới thấy bà



Minh họa: Kênh Truyện Xưa

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. Cô Vân | 2. Thái Hoàng Phi


Mời đọc Bản đánh máy

Tôi mới thấy bà

Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan


Cái ngày mà ông ấy bắt được quả tang bà ấy “nói chuyện” với trai ngay ở trong buồng đến nỗi hai người đánh nhau một trận ra tuồng mà bà con ta xúm đông xúm đỏ ở trước cửa để xem, thì ai tưởng đâu có ngày nay, ông bà ấy lại hòa hợp vui vẻ được nhỉ!

Hẳn cũng chửa ai quên được cái câu đau đớn mà bà ấy mỉa chồng. Phải bà ấy gọi lũ con nhỏ ra đứng trước mặt, rồi trợn mắt, nghiến răng ken két, chỉ tay và nói:

- Đừng hợm! Tưởng cái mặt ấy mà đẻ nổi những con như thế này phải không?

Ấy mới nguy! Thế ra thằng Lê, con Lý, thằng Đào là con ai kia đấy! Trong khi quá giận, bà ấy đã vô tình công khai cái lý lịch hay ho!

Khốn nạn, lũ trẻ con chẳng hiểu chuyện gì, chúng nó thấy ba và má cãi nhau, thì sợ hãi, rồi dần dần, lần ra sau nhà đánh đáo.

Mà khốn nạn hơn nữa là lúc ông ấy được nghe câu nói ấy. Thật chẳng khác gì là bị tiếng sét đánh ngang tai. Ông ấy rú lên một tiếng, rồi gục đầu xuống bàn hu hu khóc.

Thật là một sự ông ấy chẳng ngờ. Mà bà con ta cũng chẳng ai dám ngờ là lũ con ấy chẳng phải ông có công đúc cốt. Phải, đèn nhà ai nhà nấy rạng, chứ ai rỗi hơi mà xem xét đến những cái không quan hệ đến mình. Ta có biết gia đình ấy, thì họa chăng từ khi ông ấy bổ về tỉnh nhà, ta chỉ biết ông ấy khinh người bằng nửa con mắt, bà ấy hợm hợm chảy ra mà thôi. Chứ còn cái thằng Lê, con Lý, thằng Đào, với cái hạnh kiểm đáng phục của bà ấy, thì không mồm bà ấy phun ra, có họa thiên lôi biết!

Mà thật, những đứa bé con nhà ông ấy đứa nào cũng phốp pháp, mũm mĩm, tươi tỉnh, thật trái với ông ấy, đã gầy như cái que, mà mặt mũi lúc nào cũng khó đăm đăm, nhăn nhó như cái thằng đau bụng. Nhưng ta có thể tưởng là những đứa trẻ ấy giống máu mẹ, vì bà ấy là một “con bò cái chắc chắn” béo nùng nục, nhất là đôi môi, vừa ướt vừa dầy. Gia dĩ bà ấy đẹp, và thích trẻ. Năm ấy đến bốn mươi tuổi đầu rồi chứ còn ít gì, thế mà vẫn còn làm đỏm như cô con gái thèm chồng. Thấy người ta quần trắng, bà cũng quần trắng, thấy người ta rẽ bên, bà cũng rẽ bên. Nhưng, lạy thánh […] chứ khi bà ấy ăn mặc, đánh phấn […] thì ngay ngoan ngoãn như tôi đây, cũng phải trố mắt, ngây người mà nhìn và nuốt nước dãi. Đẹp thật!

Nhưng mà ông ấy có kém vẻ tân thời chút nào đâu? Bà rẽ lệch thì ông cũng rẽ lệch. Bà áo xa-tanh xúp dài gần tới mắt cá, thì ông cũng áo xa-tanh xúp dài xuống đến bắp chân. Bà quần trắng thì ông cũng quần trắng. Thua gì? Mà ông lại còn tiến hơn bà một bậc, là ông để răng trắng và có cả áo ba-đờ-xuy nữa. Thế thì bà không cảm ông, thì cảm ai?

Nhưng than ôi! Ông ấy cũng tân thời lắm đấy, nhưng không phải! Những hàm răng trắng, những đầu rẽ lệch, những quần trắng, những áo thướt tha dài, mà ở đàn bà, thì nó thành ưa nhìn, chứ mà đàn ông chúng ta, nhất là hạng thiếu niên ta, sống trong thể kỷ thứ hai mươi này, mà còn giữ mãi bộ áo quần quốc túy, thì ăm thưa gì? Có khi mặc thế mà đi hỏi vợ, thì Cẩm tha phạt cho đã là tốt phúc đấy!

Đối với những bà vợ ấy, thì ông chồng phải béo, tốt, khỏe, đẹp, vui vẻ, trung thành, vân vân, vân vân, mà bề ngoài phải mặc quần áo tây đầu chải thật bóng, râu ria cạo cho nhẵn thín, lúc nào cũng phải có cặp kính đồi mồi nó nhong ếp trên sống mũi. Nghĩa là vừa có vẻ hung hồn, vừa ra nhà học giả. Chứ mà lủn củn lùn cùn như ông ấy thế kia thì “về”!

Bởi vậy chẳng được chồng béo, tốt, khỏe, đẹp, vui vẻ, trung thành, mà đến cả cái vân vân vân vân, cũng chẳng có, nên chắc rằng bà phải sưu tập một vài người chồng dự khuyết, để khi ông có việc đi vắng nhà là bà cho mời đến đánh tổ tôm, hút trứng la-coóc, rồi vô phép ông Tơ!

Ờ! Thế mà tài thật! Những cuộc ái tình vụng trộm ấy có phải nó đi không để lại dấu vết đâu mà anh chồng không biết nhỉ! Kìa! Thằng Lê, con Lý, thằng Đào, là ba cái chứng cớ; trước kia, chúng nó chửa ra đời, thì bà ấy còn giấu giếm ở tận đáy lòng, nhưng một ngày bụng dạ bà ấy một rõ rệt ra, rồi mà có lẽ vì ông vẫn không ngờ vực vợ, nên tức mình, chúng nó mới dần dần rủ nhau chui tọt cả ra ngoài cho ông xem để ông hiểu!

Nhưng vì ông không hiểu: cái nghĩa bóng của sự đẻ con, nên ông yêu chúng nó hết sức, và khi thấy vợ diếc móc mình không đẻ nổi lũ con như thế, ông mới như nghe tiếng sét đánh ngang tai!

Rồi cũng vì câu nói đó, mà ông làm đơn xin ly dị vợ, và trong khi đợi tòa xử, ông còn ốm, ốm đến mấy tháng, tưởng chẳng còn sống được đến ngày nay.

Thương hại quá! Ngày ấy ông ốm có mỗi một mình, chẳng có ai trông nôm săn sóc cho cả, vì vợ ông, chẳng đợi gì pháp luật, ngay sau khi mắng chồng câu ấy, bà quát con Sen xếp va ly quần áo để ra ga, về Hà Nội. Trước khi lên xe, bà vẫn còn giận lắm, bà nhìn ông thổn thức, bà cười gằn, rồi nguýt một cái đến dài và nói:

- Để bà xem đứa nào cần đứa nào!

*

Rồi chẳng biết tòa không chiều ý ông, hay đứa nào cần đứa nào, mà sau ta lại thấy bà xách va ly cùng về với ông, hai người vui vẻ hòa hợp ở với nhau, thân mật như đôi tình nhân còn đương kỳ thề sống thề chết về danh dự.

Trông về ngoài gia đình ấy, đố ai không biết mà đoán được rằng nó đã có lần xuýt nữa thì tan nát, vợ một nơi, chồng một nẻo, mấy đứa con thì đầu đường xó chợ bơ vơ.


*

Nhưng trời già thật độc địa! Giữa cái lúc vợ chồng người ta đương hưởng cái lạc thú, đêm đềm của cảnh gia đình, thì ông Xanh đem ngay một cái tai vạ tầy đình đến. Ông ấy bị bắt quả tang làm một việc phi pháp.

Thôi hỏng! Phen này không tù cũng mất chức. Mất chức thì túng! Túng thì đói! Đói thì khổ to! Ấy thế mà còn tù thì, trời ơi! Mất vợ, mất con, mất cả cái để khói hương sau lúc chết!

Nghĩ đến tương lai, ông lo, ông hối hận, ông khóc lóc, rồi phát sốt phát rét, rên khừ khừ!

Suốt mấy ngày đêm, ông không ăn, không ngủ, ông nằm dí trên giường, như người ốm đợi chết đến nỗi bà phải gắt:

- Thì ông cũng phải dậy mà bàn tính công việc,, chứ chịu chết à?

Ông gượng ngồi, nhưng không đủ sức để dựng nổi cái lưng còm rỏm, ông bèn mặc kệ nó rơi lả xuống giường, rồi nhắm mắt, nói như mê sảng:

- Thôi, tội sờ sờ ra đó, còn làm gì được nữa.

Bà đập tay xuống bàn, cau mặt:

- Đàn ông mà hèn thế! Mới có thế đã hết vía lên rồi!

Rưng rưng nước mắt, ông run rẩy, đưa tay ra để nắm tay vợ và nói:

- Bà có nghĩ hội tôi cách nào không!

Bà ngắm chồng mà thở dài. Bà lắc đầu chép miệng, rồi tiến lại gần hơn, dịu dàng nói:

- Nếu ông cứ mặc tôi để tôi lo lắng, thì mười phần có thể chắc được chín rưỡi.

Mở choàng mắt ra, ông ngồi nhổm dậy ngơ ngác nhìn như tìm vị phúc tinh, rồi ngạc nhiên, hỏi vợ:

- Bà vừa nói gì?

- Nếu ông cứ mặc tôi để tôi lo lắng, thì mười phần có thể chắc được chín rưỡi.

Ông mừng rỡ, trợn mắt rõ to để chòng chọc nhìn vợ:

- Bà nói thật?

Bà quả quyết, gật đầu:

- Tôi chắc thế.

Ông nắm chặt tay bà, năn nỉ:

- Thế thì phúc nhà ta còn vượng. Sao bà không bảo ngay từ hôm nọ?

- Nhưng biết ông có bằng lòng giao cho tôi việc này không?

Gật lấy gật để, ông run run đáp:

- Sao không bằng lòng? Không bằng lòng để mà chết à?


*

Cuối năm ấy, một hôm, người ta thấy ông ngồi bên cạnh vợ bế đứa con mới đẻ.

Nhưng các ngài đừng tưởng gia đình nhà ông đã trải qua cuộc tang thương đâu nhé. Này vẫn hoành phi, câu đối, này vẫn sập gụ, tủ gương, bao nhiêu vẻ choáng lộn, bao nhiêu vẻ đài các ngày trước hiện nay vẫn còn, mà thằng Lê, con Lý, thằng Đào bây giờ chiều chiều lại nhảy lên ô tô cho anh Tài vận đi về vùng nhà quê đổi không khí. Nghĩa là không có cái gì mất mát cả, mà ông bà ấy nhờ trời còn thêm được mụn con trai.

Ông ấy bế con, âu yếm, hôn hít bộ tóc vàng như tơ của nó, rồi nhìn vợ. Bà mỉm cười, khép lại cái ấp cho kín bụng thằng bé.

Bỗng ra vẻ nghĩ ngợi điều chi, ông ngậm ngùi thởi dài, rồi trông trộm vợ. Ngạc nhiên, bà hỏi một cách âu yếm:

- Ông có điều gì nghĩ ngợi?

Vẫn chưa thấy chồng trả lời, bà véo von ngâm:

- Đẻ ra, con thiếp, con chàng, con ai?

Ông mỉm cười, lắc đầu:

- Không phải, tại tôi nghĩ hối hận cái ngày dại dột làm giấy ra tòa độ trước!

Bà lườm yêu ông rồi mỉm cười.

Ông cũng mìm cười, hôn tóc, rồi nắm chặt tay vợ, gật gù đáp:

- Thoát được cái nạn năm ngoái, tôi mới thấy bà là có giá trị thật!




NGUYỄN CÔNG HOAN
(Tác phẩm đăng trên báo Ích Hữu)
No 1 (25 Février 1936 - 5 xu)

© 2012 Blog NXB Tân Dân





Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF

Trong Tổng tập văn học Việt Nam - Tập 28 - Trung tâm KHXH NV Quốc gia -2000


Tham khảo: Các bài viết liên quan

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2019

Từ James Joyce đến Nguyễn Công Hoan: Lịch sử của thị dân


Từ James Joyce đến Nguyễn Công Hoan:
Lịch sử của thị dân

Hiền Trang

Thành phố có trước hay người thành phố có trước? Nếu xét về bình diện ngôn ngữ, thì từ “city” – thành phố - trong tiếng Anh bắt nguồn từ civitas trong tiếng Latinh, mà civis nghĩa là công dân. Còn trong vở “Coriolanus”, William Shakespeare cũng viết: “- Thành phố là gì, nếu không phải con người? - Phải, con người chính là thành phố.” Vậy tức là có thị dân rồi mới có thị thành.

James Joyce đã ký thác lại một Dublin u mang qua 15 câu chuyện mà xếp riêng truyện nào ra cũng có thể đặt vào hàng kiệt tác



Thành phố, quả vậy, không tạo nên nhờ những đại đế giễu võ giương oai hay những triết gia siêu phàm mẫn tiệp, thành phố là một không gian hình thành nhờ những thói quen của những người thị dân bình thường, thậm chí tầm thường, bé mọn, khốn cùng. Lịch sử đô thị cũng không bao giờ là một lịch sử đơn tính. Nó luôn là một tập hợp những mẩu chuyện từ rất nhiều người, rất nhiều những kẻ đã sinh ra, đã sống, đã chết. Và có lẽ bởi thế chăng, mà những văn sĩ khi muốn bắt lấy cái linh hồn của một thành phố, thì thường lấy truyện ngắn, rất nhiều truyện ngắn, làm phương tiện biểu đạt?

Jan Neruda đã làm sống dậy một Prague nhộn nhạo qua tập truyện ngắn “Những câu chyện về khu phố nhỏ ven sông” (tên gốc “Povídky malostranské”). Alberto Moravia cũng nhờ 60 truyện ngắn trong tập “Racconti romani” (Những câu chuyện thành Rome) mà lột tả được khí sắc thành Rome thời hậu chiến. Aziz Nesin sẽ mãi mãi là “chú bé thành Istanbul” nhờ hàng ngàn lát cắt cười ra nước mắt về đời sống thành phố giữa hai bờ lục địa. Và đại văn hào vĩ đại bậc nhất thế kỷ 20 là James Joyce đã ký thác lại một Dublin u mang qua 15 câu chuyện mà xếp riêng truyện nào ra cũng có thể đặt vào hàng kiệt tác. Còn nhắc tới Hà Nội, chúng ta chẳng phải cũng có Nguyễn Công Hoan hay sao?

Lịch sử là lời bộc bạch của những thị dân

Thế kỷ 19, nằm dưới một lâu đài tráng lệ, khu phố nhỏ Malá Strana nơi tả ngạn con sông vắt qua Prague tập hợp đủ hạng người. Họ là những quý bà trung niên ngồi lê đôi mách, những phú ông sắp chết già, những tên ăn mày mạt hạng, những cặp tình nhân, những gã ế vợ, những thanh niên nổi loạn âm thầm.

Đó cũng là một thế kỷ bản lề của Prague và vùng đất Séc. Nền quân chủ lưỡng hợp Áo – Hung thành lập. Ở Bohemia, mâu thuẫn giữa người Séc và Đức không thể nào trị dứt điểm hoàn toàn. Phong trào hồi sinh văn hóa Séc nổ ra, những người cấp tiến đấu tranh cho ngôn ngữ, tính danh Séc đã dần bị đồng hóa từ thời Harbsburg. Thế nhưng, trong những hang cùng ngõ hẻm của Malá Strana, những người thị dân vẫn ơ hờ với đổi thay xã hội. Họ bận bịu làm thơ tán tỉnh người tình trong mộng, họ bận bịu đánh bạc, bận bịu hóng hớt đám ma của một người giàu có.

Thành phố là một không gian hình thành nhờ những thói quen của những người thị dân bình thường, thậm chí tầm thường, bé mọn, khốn cùng. Lịch sử đô thị cũng không bao giờ là một lịch sử đơn tính. Nó luôn là một tập hợp những mẩu chuyện từ rất nhiều người, rất nhiều những kẻ đã sinh ra, đã sống, đã chết.

Thế mà rồi, trong cái nhịp đời bất tận của những hỉ nộ ái ố tầm thường ấy, vẫn hằn in những vết chân của một niên đại lịch sử đầy biến động. Truyện ngắn “Chiến trận đánh nước Áo” chẳng hạn, một lũ trẻ con bốn đứa vắt mũi còn chưa sạch bày đặt… chiếm cứ lại thành Prague, lật đổ nước Áo. Chúng lên cả một kế hoạch tính toán chi li lắm, nào là đánh lúc nào, đánh ở đâu, đánh bằng cái gì, chúng còn đưa 6 zloty cho một lão già bán thịt gà, nhờ ông mua hộ thuốc súng. Ấy thế mà cuối cùng, chúng lại bị lão già khôn lỏi lừa mất luôn 6 đồng tiền xương máu ấy. Cái hay của truyện là, dẫu biết bọn trẻ chỉ là một bọn nít ranh, người ta vẫn cứ nghĩ biết đâu chúng lại chẳng làm nên chuyện. Mà cuối cùng chúng thất bại vì cái gì kia chứ? Vì cái thói tham vặt của một lão con buôn! Đó, lịch sử đã luôn thất bại vì những lão con buôn như thế đó.
“Những câu chyện về khu phố nhỏ ven sông” của Jan Neruda trong ấn bản tiếng Việt.


Trong khi đó, Alberto Moravia, người mà ta thậm chí có thể ngợi ca như một Vittorio De Sica của văn chương, dữ liệu của Moravia về một thành Rome nhếch nhác hậu Thế chiến thứ hai khi phát xít Ý thua cuộc là gì nếu không phải là một ông chồng phẫn chí cứ đến mùa hè là chỉ muốn bỏ nhà ra đi, nếu không phải là hai tay thợ cạo phải cạo lông tóc cho nhau chỉ vì nước Ý khốn khổ lắm rồi, người Ý làm gì còn tiền mà đi cắt tóc, hay một kẻ thò tay vào miệng người chết những mong lấy cái răng vàng, thế rồi bất ngờ cái miệng người chết đóng phập lại, và hắn ta cùng đồng bọn liền xộ khám?

Cũng tương tự vậy, những truyện ngắn về Hà Nội của Nguyễn Công Hoan cũng là tiểu vi lịch sử của một đô thành bốc mùi thối hoăng của chế độ thực dân, chế độ phong kiến, một đô thành đang rữa nát vì những cuộc khủng hoảng đạo đức, khủng hoảng hiện sinh. Đó là cái thời của bọn nhà báo bồi bút tối ngày hút thuốc phiện rồi chọc ngoáy thiên hạ bằng chữ nghĩa vô lương tâm, là thời của những tên quan nha kẻ cắp, những kẻ trí thức đớn hèn, phường tân thời phóng đãng.

Còn Aziz Nesin, người sinh ra dưới chế độ Ottoman, thì sao? Trong hàng trăm những truyện ngắn mà ông từng viết, tôi vẫn còn nhớ “Đừng mua dây thun cho quần đùi nhé”. Truyện chẳng có gì, chỉ là về một anh công chức quèn ngày ngày đi làm hay bị hàng xóm nhờ vả mua cái này cái kia, hết mua cà phê, mua xà phòng lại mua quần đùi, bít tất. Môt hôm, tẩu hỏa nhập ma thế nào, anh lại viết một lô một lốc danh sách hàng hóa đó vào thông tư gửi lãnh đạo. Ấy thế mà, ông giám đốc cũng chẳng phát hiện ra và ký bừa vào thông tư anh gửi. Và lại ấy thế mà, ông ta để nhầm thông tư vào phong bì và rồi đến lượt bưu điện cũng gửi nhầm lại cho văn phòng anh công chức. Thế đấy, lịch sử một giai đoạn của Istanbul đã lồ lộ trong một dây chuyền xã hội đãng trí, quan liêu, trì trệ ấy đấy, nào có cần một bản hùng biện hay bút ký tỉ mỉ nào về những chính khách hay lãnh tụ?
Nhưng, có lẽ đỉnh cao của kỹ thuật đại tự sự về một thành phố thông qua những tiểu tự sự bên trong nó phải là Dubliners, một đỉnh cao văn chương do James Joyce chắp bút, mà ở Việt Nam vừa ra mắt thêm một bản dịch mới của Thiên Lương mang tên “Dân Dublin”.

Dublin của Joyce, một Dublin ảm đảm và u buồn, ảm đạm và u buồn đến mức giữa những năm tháng chủ nghĩa dân tộc Ireland lên đến đỉnh điểm, Dublin vẫn ảm đạm và u buồn như thế. Tất cả những bóng người lang thang nơi Dublin mà Joyce mô tả, từng người từng người một là phiên bản thu nhỏ, là sự phản ảnh của tự thân thành phố Dublin. Họ tù đọng trong cuộc sống thường nhật như Dublin tù đọng dưới áp lực của người Anh và của nhà thờ, họ đốn ngộ về đời mình như Dublin vùng lên với những phong trào hồi sinh ngôn ngữ, văn hóa bản địa, nhưng rồi họ lại vẫn tê liệt như chính Dublin những năm tháng ấy không thể tìm được lối ra khỏi những mâu thuẫn chính trị.
Thậm chí, Joyce tinh tế đến mức đặt nhân vật của ông vào cảnh huống ăn một bữa ăn với đĩa đậu và một ly bia gừng. Tinh tế ở điểm nào? Tinh tế ở điểm, đậu màu xanh, bia gừng màu cam, quốc kỳ của Ireland chính gồm ba màu xanh, trắng, cam. Và khi tên giang hồ ấy ngấu nghiến vào bụng “lá quốc kỳ” của Ireland, ta sẽ tự hỏi, liệu chăng đó có phải một ẩn dụ cho cuộc khủng hoảng danh tính của người Ireland và sự mong manh của niềm hy vọng về một đất nước Ireland hoàn toàn độc lập.

Và cho đến những dòng cuối cùng trong tập truyện của Joyce, khi tuyết nhè nhẹ rơi trên khắp thế gian, “lên tất cả những người còn sống và những người đã khuất”, Dublin dù đã đối mặt với phút giây hiển lộ, vẫn là một Dublin bế tắc, ứ trệ, phi hành động, cũng như mỗi kẻ sống trong lòng Dublin trong toàn bộ tác phẩm, sau khoảnh khắc khai minh, lại lựa chọn trở về với gông cùm đã đeo mang từ tiền kiếp, người thiếu nữ lại từ bỏ người tình để về căn nhà đày ải, kẻ ăn chơi lại tiếp tục đánh bài, người chết vẫn tiếp tục nằm yên dưới ba tấc đất. Có ai bộc bạch được lịch sử thành phố tường minh hơn những tiện dân đang kéo lê đời mình trong thành phố đó?


Tiện dân thế nào, thị thành thế ấy

Nhưng có phải đâu chỉ người Dublin bị trì níu trong vũng bùn của vòng đời trơ trơ, vô vị và nhạt toẹt của cuộc đời?

Người Prague cũng thế cả thôi. Đọc lại thiên truyện ngắn “Những người hàng xóm”, vẫn trong tập truyện về khu phố cũ Malá Strana mà xem. Một luật sư tập sự ba mươi tuổi hăm hở chuyển tới cố quận Malá Strana nên thơ yên tĩnh những mong tập trung ôn thi lấy chứng chỉ hành nghề. Trời ơi! Anh ta vạch ra bao nhiêu là kế hoạch, mỗi ngày sẽ học gì, học gì, và chẳng mấy chốc sẽ xong xuôi. Thế mà khốn nỗi, sống giữa láng giềng phiền nhiễu, anh sau rốt cũng bị kéo vào cuộc đời vô thưởng vô phạt của họ, những kẻ cả ngày chẳng biết làm gì ngoài buôn chuyện, đưa chuyện và gây chuyện. Cái chí tiến thủ của anh ngày nào còn hừng hực, vậy mà giờ đây, giờ đây nó bốc hơi tận đâu đâu. Anh sau rốt lại rơi vào cái bẫy hiện sinh của một cuộc đời “phi lý” mà sau này triết gia Camus đúc kết.

Mà rồi người thành Rome hay Istanbul cũng thế thôi. Moravia hay Nesin cũng chẳng thiếu nhân vật cùn mòn. “Giá không có ruồi ấy à, tôi sẽ làm việc phải biết nhé! Cứ gọi là làm như điên chứ không nói chuyện.”, họ có đủ lí do lí trấu để mà mãi giậm chân tại chỗ. Cái lịch sử tính riêng biệt của mỗi thành thị cuối cùng lại gặp gỡ nhau ở điểm này, tính cách thị dân. Đúng thế, tiếp điểm của mọi nền văn minh trên thế gian này hình như đều ở cả đấy, ở cái “chí thú thấp hèn, kiến văn thô lậu” của tầng lớp thị dân. Cụm từ “chí thú thấp hèn, kiến văn thô lậu” là mượn từ một tài liệu phê phán thói xấu người Việt do Đông Kinh Nghĩa Thục soạn năm 1907, mà sau được tác giả Vương Trí Nhàn tập hợp thành cuốn "Người xưa cảnh tỉnh", năm rồi vừa “tái xuất giang hồ”.

Sự phổ quát của thói xấu thị dân chính là mạch kết nối giữa những tác phẩm tưởng chừng khác biệt. Lẽ thường, không ai có thể xếp James Joyce vào cùng một chiếu với Moravia hay Neruda, Nesin, Nguyễn Công Hoan. Bốn người kia đều xuất thân là nhà báo, văn phong có tính bình dân, châm chọc, chế giễu và quan trọng nhất là tính phơi bày. Còn Joyce, văn chương của Joyce luôn là một bí ẩn, như một câu đố ghép hình nhưng bị ông giấu đi một vài mảnh ghép, đòi hỏi người đọc không ngừng giải nghĩa, suy tư. Kỹ thuật viết của Joyce lại phức tạp, tinh xảo, đầy ẩn ý. Joyce cũng không dùng Dubliners để chê bôi, giễu cợt ai. Dẫu vậy, những mặt tối nơi người thị dân của Joyce, ở một vài khía cạnh, vẫn gặp gỡ những mặt tối trong người thị dân của Neruda hay Nesin hay Nguyễn. Và, điều đấy hẳn có nghĩa tự thân người thị dân đã đầy thói tật, những thói tật ấy dù trong con mắt cảm thông nhất cũng không thể nào biến báo.

Trong tác phẩm “Dạo bước”, triết gia Thoreau có diễn giải từ “villain” (kẻ xấu) có chung gốc cùng từ “villa” (căn nhà), bởi người xưa đã tin rằng kẻ nào không có chí viễn du, cứ mãi quẩn quanh trong một cái nhà, một cái làng, hay rộng ra là một không gian địa lý giới hạn (như một thành phố), thì tất đạo đức kẻ đó sẽ suy vi.

Tính trì trệ là bước suy vi thứ nhất của người thị dân trong những nhát cắt vi lịch sử. Họ đóng khung cuộc đời mình trong những khu phố nhỏ của những tiểu thương chi li toan tính hay những người đàn bà rỗi việc (như Jan Neruda miêu tả), hay trong những tòa soạn không ra tòa soạn, cơ quan không ra cơ quan, rồi những cuộc tổ tôm, đánh chén (như Nguyễn Công Hoan đã viết), thậm chí như trong truyện ngắn “Eveline” của Joyce, một người thiếu nữ đã gần lên tới tàu thủy để rời khỏi Dublin rồi, thế mà khi tiếng còi tàu ngân lên, cô cũng vùng quay trở lại cái ngôi nhà với người cha tàn tệ. Bị trói buộc trong những không gian độc hại ấy, từ bước thứ nhất ấy, họ dần tiến đến bước thứ hai, bước thứ ba, thứ tư, bất kiểm soát. Dần dần, họ cũng trở nên đồng hóa với không gian đó, nhẹ thì trở nên bạc nhược, nặng thì trở thành gian xảo, lưu manh, hèn hạ, dối trá, tham lam, học đòi, trưởng giả, quan liêu.

Họ đớn hèn đến rợn cả người: Hai tay đàn ông trai tráng mà phải nhờ tiền một ả đàn bà. (truyện ngắn “Hai tay chơi” của James Joyce); Một kẻ bán quan tài chỉ mong người ta chết quách đi để y còn lập kế sinh nhai, bởi “ít người chết thì ta sống làm sao được?” (truyện ngắn “Một tin buồn” của Nguyễn Công Hoan); Một kẻ lông bông vì muốn có đôi giày mới liền rủ thêm một tay đầu đường xó chợ đi cướp của (truyện ngắn “Đôi giày” của Alberto Moravia); Một người đàn bà chỉ vì thói đặt điều ăn không nói có đã đẩy một anh bán hàng đi vào chỗ chết (truyện ngắn “Cái tẩu bọt biển” của Jan Neruda). Chính những kẻ như vậy đã khiến bộ mặt của thị thành nếu không nhếch nhác thảm hại như Rome thì cũng nực cười như Istanbul, nếu không nực cười như Istanbul thì cũng thê lương, tù túng như Dublin vậy.

***

James Joyce sinh thời từng viết thế này: “Với riêng mình, tôi lúc nào cũng viết về Dublin, bởi nếu như tôi có thể đi vào trái tim của Dublin, tôi sẽ có thể đi vào trái tim của mọi thành phố trên thế giới. Trong cái khu biệt đã chứa đựng cả cái toàn thể”.

Trong cái khu biệt đã chứa đựng cả cái toàn thể. Không ai có thể du hành khắp thế gian. Càng không ai có thể tận tường từng chặng đường của lịch sử. Nhưng khi quy nạp những sự kiện lớn lao về những hiện tượng bé mọn trong đời, ta sẽ thấy có những nút thắt nhỏ thôi nhưng thắt cả những rối rắm mấu chốt của cả một thời đại. Và có khi, người ta chỉ cần đọc Dublin thôi mà cũng có thể nhìn được ảnh tượng của cả Istanbul hay Hà Nội. Lại có khi, người ta chỉ cần nhìn bi kịch của một anh bán bột mì thôi mà cũng thấy được cả một thời li loạn của đô thành.

Tưởng xa mà gần, chính là như thế.



Hiền Trang



Những truyện ngắn về Hà Nội của Nguyễn Công Hoan cũng là tiểu vi lịch sử của một đô thành trước năm 1945.


Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2019

Văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan


Văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan

VOV6
VOV6 - Không những có công khai phá, mở đường cho văn chương hiện thực phê phán ở nước ta mà nhà văn Nguyễn Công Hoan còn là người góp phần đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Nhiều tác phẩm Nguyễn Công Hoan viết sau Cách mạng tháng Tám ngược về quá khứ, nhìn vào hiện thực với một cảm quan mới, sâu sắc và khách quan hơn...(Tìm trong kho báu phát 01/08/2019)





Tiểu thuyết hiện thực phê phán của nhà văn Nguyễn Công Hoan


Tiểu thuyết hiện thực phê phán của nhà văn Nguyễn Công Hoan

VOV6
VOV6 - Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Công Hoan đều được sân khấu hóa. Các thói tục nông thôn, chuyện quan lại chốn đình trung, những chuyện tình yêu bị chia cắt do lễ giáo phong kiến đã được nhà văn phục dựng một cách sinh động. Tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nguyễn Công Hoan thực sự trải trước mắt người hôm nay một bức tranh xã hội cũ thu nhỏ...(Tìm trong kho báu phát 25/7/2019)





Kép Tư Bền - Truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Công Hoan


Kép Tư Bền - Truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Công Hoan

VOV6
VOV6 - Có tài dẫn dắt cốt truyện đến một kết cục không ai ngờ đến, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có dáng dấp như một màn kịch ngắn đầy cảm xúc và cuốn hút. Truyện ngắn “Kép Tư Bền” in trong tập truyện ngắn cùng tên năm 1935 tiêu biểu cho đặc điểm ấy của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan...(Tìm trong kho báu phát 18/07/2019)





Nhà văn Nguyễn Công Hoan - "Kiến trúc sư" tài hoa của dòng văn học hiện thực phê phán (VOV6)


Nhà văn Nguyễn Công Hoan - "Kiến trúc sư" tài hoa của dòng văn học hiện thực phê phán

VOV6

VOV6 - Giữa muôn ngả rẽ của tư tưởng văn chương buổi giao thời, ngay từ đầu nhà văn Nguyễn Công Hoan đã dứt khoát hướng ngòi bút của mình đứng về phía người dân lao động bị áp bức. Ông là người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán. Theo Giáo sư Phan Cự Đệ, tác phẩm Nguyễn Công Hoan là bức tranh sống động về những cảnh ngộ, con người trong chế độ cũ...(Tìm trong kho báu phát 11/7/2019)