Ads 468x60px

.

Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2023

Ngôi nhà 66 Thợ Nhuộm và kỷ niệm về một thời đạn bom


Ngôi nhà 66 Thợ Nhuộm
và kỷ niệm về một thời đạn bom

Nguyễn Ngọc Đoan


Nhà 66 phố Thợ Nhuộm (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) là một biệt thự cổ từng là nơi gia đình nhà văn Nguyễn Công Hoan và gia đình Thiếu tướng Hoàng Mai - “Chủ bút” Báo Bạn dân - sống trong nhiều năm. Đây cũng là trụ sở chính của Báo CAND từ năm 1997 đến năm 2012...

LTS: Con trai nhà văn Nguyễn Công Hoan, đồng chí Nguyễn Tài, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, là một trong những người sáng lập tờ báo Công an mới - tiền thân của Báo CAND ngày nay, xuất bản số đầu vào ngày 1/11/1946... Nhân kỷ niệm 77 năm Ngày Truyền thống Báo CAND, tòa soạn trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Đoan, con gái đồng chí Nguyễn Tài, ghi lại những hồi ức về căn nhà lịch sử 66 Thợ Nhuộm...

Nhà văn Nguyễn Công Hoan (bìa phải) và 4 cháu nội
(từ phải qua là các anh chị: Nguyễn Thị Hòa Bình, Nguyễn Trường Đại, Nguyễn Trường Thống Nhất, Nguyễn Ngọc Đoan).
Ảnh chụp phía trước căn phòng của gia đình (ở từ 1964 đến đầu 1976) tại số 66 Thợ Nhuộm.


Từ khi hòa bình lập lại năm 1954, bố mẹ và 4 anh chị em tôi sống tại tầng 3 của một khu nhà ngay trong cơ quan Bộ Công an tại phố Trần Bình Trọng (nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Ngày 21/3/1964, bố tôi bí mật vào chiến trường miền Nam. Sau ngày đó, gia đình chúng tôi chuyển về ở tại số 66 phố Thợ Nhuộm. Đây là ngôi biệt thự từ thời Pháp, được Bộ Công an dùng làm nơi ở cho 4 gia đình cán bộ. Đầu 1965, Hà Nội bắt đầu phải đi sơ tán do Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc. Ông bà nội tôi bán nhà ở Bưởi, về 66 Thợ Nhuộm ở cùng để giúp mẹ tôi chăm lo các cháu. Bây giờ, mỗi lần đi qua nơi này, chúng tôi vẫn hình dung được những nét xưa của ngôi nhà và nhớ lại kỷ niệm thời thơ ấu.

Nhà 66 có hai cái cổng. Cổng to thường được mở làm lối đi chung cho các gia đình. Ngay trước cổng có cây hoa sữa. Mùa hè ve ở cây kêu vang khắp phố, bọn trẻ con trong khu phố thường đến lấy nhựa ở cây để dính bắt ve. Còn cái cổng bé thì thường đóng, có cây hoa đại khá to. Trên tường rào giữa hai cái cổng có giàn hoa ti-gôn phủ kín; vào mùa hoa rộ thì từng chùm hoa màu hồng làm cho ngôi nhà thêm sắc màu nhẹ nhàng mà rất sang trọng. Trước nhà có khoảnh sân rộng nên thường được khu phố mượn làm chỗ đổi bánh mì hằng ngày. Thẳng cổng lớn vào là cái gara ô tô, kế tiếp là dãy nhà ngang, chia làm 4 gian nhỏ, được dùng làm bếp cho 4 gia đình. Giữa hai khối nhà là cái sân.

Gia đình chúng tôi ở một phòng ở tầng 1, phía tay phải, giáp nhà số 64. Cửa ra sân có bậc thềm và bệ ở hai bên mà chúng tôi thường ngồi chơi, sau này là chỗ ông nội tôi để chậu cây cảnh. Ông nội có cái giường con và bàn làm việc kê ở phía ngoài phòng chính (nhà Pháp thời xưa thì đó là chỗ để cái móc treo áo, mũ khi mới vào nhà), hai bên cửa ra vào có hai cửa sổ. Trong buồng chính kê tủ áo của ông bà, cái giường đôi, bộ phản bằng gỗ lim, bàn ăn và tủ gương được kê làm bàn thờ ở phía trên; phía sau cánh cửa thì để cái giá sách. Một buồng nhỏ ở phía trong (trước kia chắc là phòng tắm) kê tủ áo và giường đơn, có cửa đi ra phía sau. Những năm Mỹ ném bom, các cửa kính trong nhà đều được dán thêm băng giấy hình chữ X ở ô kính để tránh bị nứt vỡ.

Về ở Thợ Nhuộm, ông nội tôi đã nghỉ hưu. Ông thường hay viết bài cho Báo Văn nghệ, mục “Chữ và nghĩa”, hay “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”; viết về những kỷ niệm, những điều ông quan sát được xung quanh mình qua nhiều năm tháng. Ông bảo là ghi lại để cho thế hệ sau biết được. Ban đêm, có khi thấy ông đang nằm thì ngồi bật dậy, ra bàn bật đèn ngồi viết, một lúc rồi lại tắt đèn, đi nằm. Đấy là lúc ông chợt nghĩ ra ý gì, câu gì hay nên phải ngồi dậy ghi ngay kẻo sáng mai quên. Hồi ấy giấy bút còn thiếu thốn nên ông dùng bút mực chấm (chứ không dùng bút máy) và các tờ giấy một mặt trơn, một mặt nhám, hoặc giấy đã dùng một mặt. Ông đặt tên cuốn sách là “Nhớ gì ghi nấy”. Thời gian này, ông cũng hoàn thành và cho xuất bản cuốn “Đời viết văn của tôi”. Hồi đó, có mấy cô nhà văn, nhà nghiên cứu văn học như Lê Thị Đức Hạnh, Nguyễn Thị Ngọc Tú,... thường hay đến hỏi chuyện ông, nhờ ông dạy cách viết truyện.

Ông còn có một cái máy ghi âm, do nữ nhà văn Ba Lan tên là Monica tặng ông. Ông mừng lắm, vì có cái để ông thực hiện dự án “Hỏi chuyện các nhà văn”. Bây giờ cái máy ghi âm ấy vẫn được gia đình tôi lưu giữ cẩn thận.

Một câu chuyện cũng không thể không kể, đấy là chuyện về cái bàn làm việc của ông nội tôi. Cái bàn làm bằng gỗ lim, đã theo ông từ những năm 30 thế kỷ XX, từ Nam Định đi các nơi và đã chứng kiến sự ra đời rất nhiều tác phẩm của ông. Khi chúng tôi bắt đầu hiểu chuyện thì đã thấy cái bàn đó ở Bưởi, rồi về 66 Thợ Nhuộm, khu tập thể Trung Tự. Ông dùng cho tới khi mất thì bố tôi dùng tiếp. Khi tòa soạn Báo CAND về đóng tại 66 Thợ Nhuộm một thời gian, Tổng Biên tập là anh Hữu Ước xin cái bàn đó, đặt tại tòa soạn để làm kỷ niệm. Tới khi tòa soạn chuyển đi, anh Đặng Đình Thành, Phó Tổng Biên tập, là người làng Xuân Cầu (cùng quê với ông nội tôi) xin mang cái bàn đó về nhà ở quê. Cuối 2019, anh Thành gọi điện cho gia đình tôi, bảo là muốn giao lại cái bàn cho gia đình cụ Hoan. Mừng quá, tôi và em Đại về quê anh nhận lại ngay. Sau bao nhiêu năm “lưu lạc”, cái bàn đã được quay về đúng nơi nó cần hiện diện.

Ông thích trồng cây, hoa cảnh. Trước nhà có cái bồn, ông trồng hoa hồng, xung quanh là dãy lan báo hỷ. Sát tường rào có một rẻo đất, có xây bờ be lên. Khi cây hoa sữa bị chặt đi, ông xin về mấy cây tre đằng ngà trồng vào đấy, sau lớn thành một bụi tre có bóng mát, thành ra là giữa phố Tây mà lại có cái nhà có bụi tre rất đẹp. Năm 1975, sau khi giải phóng miền Nam, ông vào Sài Gòn để viết bài. Ông xin được mấy cây hoa như: Cây sứ Thái Lan, thu hải đường, sen cạn. Ông thích lắm. Những lúc rỗi rãi, ông hay tưới, chăm sóc cây rất kỹ. Cây sứ Thái Lan bây giờ vẫn còn, chúng tôi cắt cành mang về trồng ở mộ của ông bà.

Có lần trời mưa bão, nước ngập cao trong sân, cánh cổng nhà bị hỏng nên buổi tối không khóa lại được. Đến đêm, trộm vào, bê đi mất một ít bát đĩa, cặp lồng để ở sân và một chậu hoa của ông. Sáng ra, ông tiếc lắm nhưng tự an ủi là: “Thôi, ít ra thằng trộm nó cũng là người thích chơi hoa”.

Hồi tôi học lớp 6, lớp 7, thỉnh thoảng ông lại bảo hai chị em gái giúp ông chép mấy truyện ngắn để đưa nhà xuất bản in. Mỗi lần có tiền nhuận bút, ông lại đưa cả nhà đi ăn phở ở Lê Văn Hưu. Hồi đó, hàng ăn ít, cả Hà Nội chỉ có mấy quán phở ngon, có tiếng.

Thời bao cấp, mua cái gì cũng phải tem phiếu, xếp hàng. Ông thường nhận việc đi mua gạo, phải đi bằng xe đạp vì cửa hàng gạo ở xa và phải chở gạo về nữa. Mà mỗi lần chỉ được mua ít thôi chứ không được mua hết tiêu chuẩn trong sổ. Có lần đi mua gạo về, ông kể: Hôm nay xếp hàng dài quá, có người nhận ra ông, thế là nhường chỗ cho ông mua trước. Rồi còn việc đi mua củi, mùn cưa; sau này còn đun nấu bằng trấu, có cái lò nấu trấu (trông giống như cái bếp nấu lẩu), mỗi khi nấu cứ phải ngồi gõ cạch cạch để trấu rơi xuống.

Bà nấu nướng rất giỏi. Bà dạy cho chúng tôi cách làm bếp thế nào cho gọn gàng, nấu các món ăn đơn giản mà ngon miệng. Một bữa ăn hằng ngày không nhiều món nhưng rất hài hòa, khoa học. Còn khi nào nấu cỗ thì khỏi nói, món nào cũng chuẩn. Bà có nhiều món ăn ngon lắm, thí dụ như các món ăn với rươi: Mắm, chả, nấu canh, xào với củ niễng; rồi món cuốn tôm rang thịt luộc kèm với bỗng rượu xào chua ngọt,...

Ông bảo là ăn các món mắm thì phải đủ các vị chua, cay, mặn, chát. Không chỉ là các vị, mà còn là sự “chế” nhau của các thứ đó, sao cho ăn ngon miệng và dễ tiêu hóa. Đấy là nghệ thuật ăn uống.

Tết đến bao giờ nhà cũng gói bánh chưng. Bà gói bánh với mong mỏi biết đâu bố Tài được về ăn Tết. Thương lắm nỗi khắc khoải chờ con. Bà gói bánh đẹp lắm, ngày xưa chỉ gói bằng tay chứ không có khuôn như bây giờ. Bà dạy cách rửa lá, rọc cuống lá, đãi đậu, nấu đậu, làm nhân thịt... Ông thì nhận phần luộc bánh. Thức đêm mà luộc bánh với ông thì thích lắm, ông hay lùi vào tro mấy củ khoai lang và kể chuyện cho nghe. Rồi năm nào cũng có một vại dưa hành muối với 10 kg dưa cải Lạng Sơn nén cả cây, 10 kg hành củ. Bà bảo ra Giêng là giáp hạt rau, có vại dưa, nấu canh dưa với lạc ăn với rau diếp là ngon lắm rồi. Mà quả thật, món đó bây giờ cả nhà tôi vẫn thích. Để có vại dưa hành vàng ươm, thơm ngon, bà dùng cây mía chẻ ra, xếp thành nan, rồi chặn hòn đá lên trên. Sợ nhất là trời rét mà phải ngồi rửa dưa, rửa lá gói bánh, đãi đậu, nhưng bù lại là học được ở bà những điều mà nó theo tôi suốt cuộc đời.

Thấy mấy mẹ con làm mứt tết, ông hỏi đùa: “Cứ trộn các thứ với đường thì làm thành mứt chứ gì? Vậy, bây giờ tôi làm “mứt rơm” có được không?”.

Tính ông hay đùa. Thỉnh thoảng ông uống rượu là bà lại cằn nhằn, không thích. Có lần đến giờ ăn trưa, ông dọn bàn ra, gọi mấy đứa cháu trai vào ngồi và rót cho mấy ông cháu mỗi người một ly “rượu” từ cái chai “rượu trắng” để bên cạnh. Bà từ dưới bếp lên, thấy thế liền kêu: “Ông lại uống rượu nữa rồi. Mà sao lại cho bọn trẻ con uống rượu thế kia?”. Ông làm mặt hầm hầm, đứng dậy, cầm chai “rượu” ra cửa sổ, dốc ngược, đổ tồng tộc. Bà lại kêu lên tiếc rẻ: “Sao ông lại đổ rượu đi thế?”. (Ngày xưa cái gì cũng phải mua bằng tem phiếu, cả rượu cũng không ngoại lệ). Mấy anh chị em cười phá lên, ông cũng tủm tỉm. Hóa ra, đấy là nước trắng mà ông dùng giả làm rượu để trêu bà.

Cũng với tính dí dỏm ấy mà ông đã từng làm cho “nhà chức trách” phải “khó nghĩ”. Chả là, có một lần cảnh sát khu vực đến nhà gặp ông để làm kê khai về hộ khẩu. Đến mục “Trình độ văn hóa”, ông khai là “đọc thông viết thạo”. Anh cảnh sát khu vực tần ngần: “Bác có nói nhầm không ạ? Bác là nhà văn lớn mà sao lại chỉ có đọc thông viết thạo?”. Ông cười: "Tôi nói đúng đấy. Hồi trước tôi học theo văn bằng của Pháp thì chỉ tương đương hết phổ thông bây giờ. Tôi chỉ là thầy giáo tiểu học. Theo anh, tôi nên khai như thế nào?". Anh cảnh sát khu vực vẫn băn khoăn: “Cháu mà ghi như thế thì lãnh đạo của cháu không nghe đâu”, nhưng biết làm thế nào được.

Thỉnh thoảng bà cũng đi xem hát ở rạp và cho mấy chị em đi xem, khi thì vở cải lương “Nhị Độ Mai”, khi thì vở chèo “Quan Âm Thị Kính”, “Thị Màu lên chùa”... Còn bé nên chúng tôi không hiểu mấy, thế là bà lại giảng giải cho nghe.

Ở phía tường rào, ông làm cho chúng tôi cái giàn để trồng mướp. Những năm Mỹ đánh phá miền Bắc, cơ quan Bộ làm cho các gia đình cái hầm trú ẩn kiểu cuốn tò vò ở cái ngách giữa tường nhà 64 và nhà tôi, trên đổ đầy đất. Đấy cũng là một chỗ để lũ trẻ con chơi trốn tìm. Trẻ con trong khu nhà ấy có 8 đứa, thường hay theo chị Thành (con ông bà Minh già) để nghe chị kể chuyện ma. Cả lũ phải chui vào chỗ chân cầu thang lên gác 2, tắt hết đèn đi thì chị ấy mới kể. Rồi còn nhiều trò nghịch ngợm tinh quái khác. Cả khu nhà có một cái bể to để chứa nước, đậy ở trên là tấm tôn rất to. Mùa hè, bọn con trai rủ nhau buổi tối nhảy vào bể nước để bơi, nghịch; hôm sau các nhà lại dùng nước ấy để giặt giũ, rửa rau vo gạo. Nhà số 64 có cây sấu rất to, chĩa cành sang bên này, chúng tôi thường lên nhà bác Hoàng Mai ở tầng trên, hái lá sấu non, quấn vào mấy hạt muối giả làm trầu không rồi nhai bỏm bẻm. Còn nhà số 68 thì có giàn nhót rất sai quả, chìa sang sân nhà; cái sân to phía trước nhà thường là chỗ cho các bạn của chúng tôi đến tập văn nghệ, tập tành thì ít mà công kênh nhau lên hái nhót thì nhiều.

Năm 1968, khi Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, các trường bắt đầu về lại Hà Nội, mấy chị em tôi đều đi học ở các trường gần nhà như cấp 2 Trưng Vương, cấp 3 Lý Thường Kiệt. Vì thế, chúng tôi đi bộ đến trường.

Từ nơi sơ tán về, ông bà mang theo cái chõng tre. Chúng tôi cùng bạn bè thường ngồi chơi hoặc học bài trên cái chõng ấy. Ngồi ở sân nên nhiều khi cũng có những trò nghịch ngợm tinh quái, đấy là trêu người đi đường. Có lần thấy có một chị đi ngang qua, thế là một đứa nói to: “Chính “trị” này”, làm chị ấy giật mình nhìn vào, thế là lại đọc tiếp: “Toán này, sinh vật này...”, hóa ra là hắn đọc thời khóa biểu...

Những năm này, mẹ tôi phải đi công tác xa nhà. Khi thì phụ trách trại trẻ sơ tán gồm con các cán bộ của Bộ, khi thì đi học đại học, rồi lại về dạy ở trường C500. Đến tận cuối năm 1973, mẹ tôi mới được về cơ quan Bộ nhưng cũng hay phải đi công tác các tỉnh. Lúc này, chị em tôi đã lớn, cơ quan Bộ đã cho sửa chữa lại cái gara ô tô và phân thêm cho gia đình tôi làm chỗ ở. Sau khi bố tôi ở miền Nam về, bố mẹ ở tại đó cho đến khi gia đình tôi chuyển đi.

Ở nhà với ông bà, mấy chị em phân công nhau giúp bà lo đi chợ, cơm nước hằng ngày. Khi thì đi mua thực phẩm theo tiêu chuẩn tem phiếu ở cửa hàng phố Nhà Thờ, khi thì mua thức ăn ở “chợ cóc” ngay trước cửa nhà.

Từ cuối năm 1970, ở nhà không nhận được thư bố từ miền Nam nên rất lo lắng. Tháng 3/1973, bà vào gặp Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn để hỏi thì mới biết là bố bị địch bắt; ông bà và mẹ buồn lắm nhưng vẫn phải giữ kín. Bà theo đạo Phật. Những năm này, bà thường hay đi chùa, ăn chay vào những ngày mùng 1 và ngày rằm âm lịch. Ông cho là bà mê tín dị đoan nên bảo bà là không được đi chùa. Bà không cãi gì, chỉ nói một câu: “Khi nào Cụ Hồ bảo không được đi chùa thì tôi không đi nữa”. Thế là ông phải chịu. Có lẽ đi chùa đọc kinh, niệm Phật cũng là một cách làm cho bà thấy thư thái trong lòng, vơi bớt nỗi lo âu vì bặt tin bố.

Ông bà càng thương các cháu hơn. Hồi chị Hòa Bình hết cấp 3, được đi học nước ngoài, ông cũng lên Bộ Đại học xin cho chị đi học ở Liên Xô, vì thường hay có người quen đi về, có thể gửi thư, quà, thuốc men cho chị được. Anh Thống Nhất học hết cấp 3 thì đi nghĩa vụ quân sự, sau đó được quân đội chọn đi học ở Liên Xô, ông rất mừng.

Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng. 9 giờ tối ngày 4/5/1975, ở nhà nhận được tin bố còn sống, ông đi bộ ngay trong buổi tối ấy sang nhà cô Minh, là em ruột bố tôi, nhà ở số 72 Lý Thường Kiệt. Đến nơi, ông không vào nhà, chỉ đứng ở cửa nói với cô Minh: “Anh Tài sống rồi”. Rồi ông quay gót, xuống cầu thang đi về luôn. Bao nhiêu buồn lo được trút bỏ, ông bà mong ngày được gặp mặt con trai để thỏa lòng thương nhớ xen lẫn cảm xúc tự hào. Công việc của thành phố mới giải phóng vô cùng bộn bề, bố chưa về gặp gia đình ngay được. Một lần nữa, ông bà lại nén tình cảm riêng vì việc lớn của đất nước, nỗi lo vẫn còn đó.

Thư của bà ngày 8/5/1975:
“Con ơi, hơn mười một năm rồi bao nỗi lo sợ, nhớ mong, nay được tin con còn sống, mừng rỡ vô cùng,... Hôm giải phóng Sài Gòn càng mừng lại hồi hộp mong tin con,..., đến 12 giờ trưa hôm 5,... điện của ông bộ trưởng gửi về, nói là sức khỏe anh Tài tốt, hơi gầy, cần ở lại công tác, xin cho chị Bắc vào ngay gặp anh Tài. Tin ấy rõ quá, thấy con được tiếp tục công tác thì bố mẹ mừng lắm, nếu vì nhẽ gì mà con không tiếp tục được công tác thì cũng đáng tiếc. Mẹ cũng hiểu như thế, nhưng sao lòng nó vẫn bàng hoàng như chiêm bao vì vẫn chưa trông thấy con; giá được gặp con mà ôm con cho hả dạ....”.
Ông thì viết:
“Điện của con, đến chiều ngày 9 mới tới... Thế là nhà biết đích xác con bị bắt ngày nào, được ra ngày nào và ở đâu. Lại cũng biết sơ sơ các ngày con ở trong tù,... và cũng có thể tưởng tượng được sức chịu đựng gian khổ và tinh thần bất khuất của con... Cậu cũng biết là Đảng hết sức cứu con và có theo dõi những chỗ ở... Nghe con nói nó bắt ngồi thức liền 14 đêm ngày thì thấy nó ghê thật, mà con đã thắng được nó, thì ai cũng phải khâm phục...”.
Ngày 29/6/1975, tại nhà 66 Thợ Nhuộm, ông bà và chúng tôi vui mừng đón bố tôi trở về sau hơn 11 năm xa cách, nhớ mong. Chỉ khi ông bà được tận mắt nhìn thấy con, tận tay ôm con vào lòng, niềm vui mới được trọn vẹn.

Đến ngày 25/1/1976, tức là 25 tháng Chạp năm Ất Mão, sau hơn 11 năm sống tại nhà 66 Thợ Nhuộm, cả gia đình tôi chuyển xuống nhà B4 khu tập thể Trung Tự, đón Tết Bính Thìn ở nhà mới.

Thời thơ ấu của chúng tôi gắn liền với ngôi nhà 66 Thợ Nhuộm với biết bao kỷ niệm không thể kể hết. Đến nay, nhà 66 Thợ Nhuộm đã được sửa chữa lại nhiều và được dùng làm nơi làm việc của một đơn vị thuộc Bộ Công an.


Nguyễn Ngọc Đoan








Bàn làm việc cùng những vật dụng của nhà văn Nguyễn Công Hoan và con trai, Anh hùng LLVTND Nguyễn Tài.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan chăm sóc cây hoa sứ.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan và cháu gái Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Đoan (tháng 7/1971), sau lưng là bụi tre đằng ngà.

Ảnh vợ con chụp mùng 2 Tết Mậu Thân 1968 để gửi cho đồng chí Nguyễn Tài ở chiến trường miền Nam.

Vợ chồng Nhà văn Nguyễn Công Hoan và 2 cháu trai Nguyễn Trường Thống Nhất (bìa trái), Nguyễn Trường Đại, năm 1973.

Vợ chồng Nhà văn Nguyễn Công Hoan và con trai Nguyễn Tài mới ở miền Nam trở về sau hơn 11 năm xa cách (29/6/1975).