2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
4. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
5. Mời đọc tại ISSUU
6. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại
ĐÀI TRUYỀN HÌNH KỸ THUẬT SỐ VTC
Mời đọc Bản đánh máy
Công dụng của giấy nhật trình cũ
Trong có một năm, thằng địa chủ Lâm chiếm đoạt đến hơn ba chục mẫu ruộng của nhân dân làng Chèn. Nếu không nhờ có phát động quần chúng, nông dân giác ngộ, nổi dậy đấu tranh, thì có khi còn bao nhiêu gia đình thất cơ lỡ vận về nó. Và rồi tất cả ruộng vùng này về tay nó hết.
Đợt phát động, giảm tô vừa rồi, thằng Lâm được đi học lớp cải tạo tư tưởng hai mươi ngày. Nó học tập bài mục "Tính chất giai cấp địa chủ" và liên hệ bản thân, nó bộc lộ tội ác của nó.
Hôm tổng kiểm thảo, nói các thủ đoạn về chiếm đoạt ruộng đất, bóc lột nhân công, đánh người, giết người, hiếp dâm và phản động về chính trị, nó cúi mặt xuống nói:
- Con năm nay ba mươi ba tuổi đầu, mà đã phạm tất cả các tội ác điển hình của giai cấp địa chủ. Nay nhờ Đảng, nhờ Chính phủ, nhờ các ông nông dân giáo dục, con biết giai cấp địa chủ thật là một giai cấp xấu xa, nhơ nhuốc, hại nước hại nòi. Hồ Chủ Tịch khoan hồng, cho chúng con đi học, thật là cải tử hoàn sinh cho chúng con...
Dưới đây là lược trích một mưu mô trong lịch sử làm giàu của thằng Lâm:
"Quê con ở Hà Nam. Bố con làm chánh hội, có mười lăm mẫu ruộng. Chú bác con phần nhiều là cường hào. Thuở bé, con đi học, nhưng vừa dốt, vừa lười, nên phải chạy ba chục đồng bạc, mới đỗ được sơ học yếu lược. Rồi bố con bắt con ở nhà, cho rằng họ Bùi không có đất học.
Từ năm mười sáu tuổi, con bắt đầu mê gái và mê cờ bạc.
Bố con thấy con mới nứt mắt đã biết phá của, nên bắt con hút thuốc phiện, vì cho rằng người nghiện không thiết chơi bời gì. Nằm bàn đèn thì phải ở nhà. Như vậy giữ được của.
Nhưng giữ của đã đành, còn phải làm ra của nữa. Bố con mới tìm cách cho con học tập thông thạo việc quan, để sau này làm tổng lý, nối nghiệp nhà. Tức là cái nghiệp bóc lột. Con làm nho cho một tên thừa phái ở huyện.
Ngày ấy, bọn đế quốc định lệ cho những người đỗ sơ học yếu lược được thi thừa phái. Con cho rằng đường công danh mở rộng cho những con cái nhà giàu. Nếu còn đỗ, làm thừa phái đủ niên hạn, thì con sẽ chạy lấy giấy chứng nhận là đã ở thượng du trên hai năm, biết tiếng thiểu số, con được thi bang tá. Rồi từ bang tá, con sẽ thi tri châu. Từ tri châu, con sẽ thi tri phủ. Và cứ thế, lên đến bố chánh, tuần phủ, tổng đốc, tha hồ mà hái ra tiền.
Nhưng con đã thi thừa phái ba khóa mà không đỗ. Bố con không tiếc tiền hối lộ. Nhưng vì xểnh bố con ra, thì con lại coi tiền như rác, tiêu pha liều lĩnh. Năm đầu, còn khấn hai trăm, thằng Tuần Đức nhận lời. Nhưng cuối cùng, nó bắt phải thêm một trăm nữa. Con không có đủ. Năm sau con giành lại ba trăm để đút thằng chủ khảo người Pháp, nhưng khi được vào vấn đáp, thì thằng quan giám khảo đòi con phải cho riêng nó hai trăm. Con lại không có. Năm sau nữa, con có đủ năm trăm, nhưng giá thừa phải tăng vọt hẳn lên đến một nghìn.
Con cho là mả nhà con chỉ phát hào, nên thôi không bon chen vào hoạn lộ nữa.
Con làm nho, học lối nặn bóp dân rất thạo. Con dối trên, lừa dưới, nhiều món ăn chặn cả thằng thừa phái lẫn thằng tri huyện.
Thấy con tiêu xài xa xỉ, chúng nó đâm nghi. Rồi dò la, biết con đã hớt của chúng nó rất nhiều món bở, nên chúng nó đuổi con, và định bỏ tù. Con phải trốn đi.
Con lên Phú Thọ, tìm đến giúp việc một người chú làm quản lý đồn điền cho một tên địa chủ Pháp, có vợ Việt Nam.
Năm ấy thằng chủ về Tây, để cho con vợ trông nom cơ nghiệp. Con mẹ này ngót bốn mươi tuổi có con gái riêng mười sáu tuổi. Con mẹ có tiếng là dâm dật. Vắng chồng, nó thường bắt anh em tá điền vào buồng ngủ để hiếp anh em.
Thấy con nhanh nhẹn, nó dỗ con làm thư ký riêng. Con biết công việc không phải là biên chép sổ sách, mà là để thỏa mãn tình dục cho nó. Nhưng con cứ đồng ý. Để được ăn hút sướng thân. Năm ấy con mới hai mươi hai tuổi.
Rồi sau, muốn cho hai mẹ con khỏi ghen tuông nhau, con hủ hóa cả với đứa con gái.
Chẳng bao lâu, thằng chủ Pháp sang và con gái nó có mang với con. Con mẹ muốn thu xếp cho ồn thoà, nhận con là con rể, nói với chồng cho con bốn mẫu, và bảo con làm nhà riêng ở Chèn, cũng ở khu vực đồn điền.
Vì ít lâu, con được con mẹ nó chiều chuộng, cho ăn tiêu tự do, nên con hút nặng thêm. Đến bây giờ, trông vào tô của bốn mẫu, con không thể nào đủ được.
Con nghĩ mưu kế làm giàu.
Một kinh nghiệm cho con biết rằng muốn làm giàu thì phải cho vay, lãi nặng.
Một kinh nghiệm nữa là muốn có nhiều người vay, thì phải làm cho nhiều người cần tiền. Người cần tiền phải vay, không ai liều lĩnh bằng người thua bạc.
Vậy thì con phải mở sòng, để cho những người thua bạc vay tiền, và phải gắn ruộng.
Nhưng muốn cho vay thì phải có vốn.
Song, đối với ai kia, thì việc xoay vốn là việc khó, chứ đối với con, nó không thành vấn đề. Con không phải nhờ ai giúp. Còn nhờ, còn phải ân huệ người ta. Ở đời có bột mới gột nên hồ là sự thường, chứ không có bột mà gột nổi hổ mới là tài xuất chúng. Không có tiền mà làm giàu to và nhanh mới là phi thường. Con học chữ thì dốt, nhưng bóc lột thì ít ai bằng.
Con dựa vào uy thế thằng chủ đồn điền Pháp để mở sòng xóc đĩa. Sòng mở ngay trong đồn điền, thì không quan nào dám vào bắt. Tất nó cướp được khách của các sòng khác.
Con đã tính đúng. Quả nhiên, tối đầu vắng khách. Nhưng đến tối thứ hai, đã đông hơn, và đến tối thứ ba, thì đông hơn nữa. Họ sát phạt nhau rất hăng.
Đến tối thứ tư, con làm cháo gà, mời con bạc ăn, rồi nói chuyện:
- Đành rằng chúng ta chơi ở đây thì rất yên ổn, không sợ gì, vì đây là đồn điền của quan Tây. Vả lại tôi đã cắt đặt canh phòng cẩn thận. Song, ta cũng phải đề phòng sự bất trắc. Thế nào mà không đến tai quan, và quan nào họ lại chịu thua mình. Các ông phần nhiều là tổng lý kỳ hào trong hạt, có thể quan nó bảo một tiếng, thì các ông phải nghe, không dám đến đây chơi nữa.
Xưa nay, luật pháp chỉ trừng phạt những người đánh bạc, chứ không trừng phạt những người không đánh bạc. Cho nên tôi đã nghĩ ra một cách, là chúng ta không đánh bằng tiền. Quan lính có giỏi mà vào lọt đây để khám, thì rồi cũng chỉ thấy người không. Tha hồ mà đổ tội cho chúng ta làm hội kín. Ta không làm hội kín thì họ hỏi lắm chỉ mỏi mồm. Vả quan chủ đây sẽ bảo đảm cho chúng ta là những người không làm hội kín.
Thì tôi định như thế này: Trước khi vào chiếu bạc, ta hãy đổi tiền lấy giấy riêng, ta dùng giấy riêng ấy để đánh với nhau. Không bắt được tiền làm tang vật, đố ai dám bảo là sòng bạc.
Được mọi người cho là có lý, hôm sau, con lấy những tờ nhật trình cũ, cắt ra từng miếng nhỏ hình chữ nhật. Miếng nhỏ nhất là một đồng. Miếng to hơn là năm đồng. Miếng to hơn nữa là mười đồng. Muốn người ngoài khỏi làm gian lận, con ký tên con vào đó.
Thế là từ hôm sau trở đi, sòng con đánh toàn bằng giấy nhật trình.
Ai đến chơi, trước hết phải đổi tiền ra giấy nhật trình. Có tối, con phải đổi đến ngót một nghìn. Ai không có tiền, thì đến nói với vợ con cho vay. Vợ con cho vay hẳn hoi bằng tiền mặt. Tiền ấy là tiền của người khác vừa gửi. Người ấy đem tiền đến đổi ở con, lấy giấy nhật trình, rồi mới được ngồi và chiếu bạc. Thật là phân minh.
Nhưng con bố trí cho vợ con ở hơi xa chỗ đánh bạc, để khách vay thấy việc đi lại là phiền, vì vậy, chính họ phải nói khó với con cho vay bằng giấy nhật trình để khỏi mất thì giờ đến chỗ vợ con. Vả lại, khi vợ con cho vay rồi, thì người vay vẫn cứ phải đổi ra giấy nhật trình ở chỗ con. Nhất là những người thua, đương cay cú thì sốt ruột, có tiền ngay để gỡ. Lại nhiều khi vợ con giả vờ túng, khách đòi vay một trăm, thì đưa bảy chục thôi, nói rằng không có đủ. Nhưng hễ vay con bằng giấy nhật trình, thì ai cần bao nhiêu, có đủ sẵn bấy nhiêu. Họ cho là dễ và tiện hơn.
Người có tiền đến sòng con đã đành, người không có tiền cũng có thể đến chơi được. Người đỏ thì tiếp tục đánh đã đành, người đen thua hết, vẫn có thể có tiền để gỡ gạc. Sòng con bởi vậy càng ngày càng đông khách. Khách đến chơi được yên tâm. Muốn vay bao nhiêu cũng có. Ai cũng khen con có sáng kiến hay.
Lệ thường, thì đương dở cuộc, không ai được về. Con nói sợ đi lại nhiều thì lộ. Phải đợi từ hai giờ sáng trở đi mới được ra khỏi sòng. Lệ ấy đặt ra cốt để trói chân những người được bạc, muốn ăn non. Thật thế, muốn ăn non thì phải rời ngay khỏi sòng bạc, chứ mà có tiền trong túi, lại đương vào lúc đỏ, nghe những tiếng bạc dễ đánh, dễ ăn, thì có họa tài thánh mới gan được.
Vì vậy không ai được bạc mà ăn non thoát được với con.
Từ hai giờ sáng trở đi, làng chơi được tự do ra về. Trước khi ra khỏi sòng, họ đổi giấy nhật trình lấy bạc. Nhưng ít ai đổi được đủ. Vợ ở nhà riêng, ngủ trong buồng có khóa. Vin vào đấy, con thường bảo để đến sáng hôm sau hãy đổi, "đánh thức nhà tôi dậy, sợ cháu khóc, tội nghiệp".
Nhưng sáng hôm sau, những người còn ít giấy nhật trình thì không bõ đến đổi. Họ giữ lại để tối lại đến chơi. Chỉ có những người có nhiều, hoặc những người không muốn chơi nữa, mới thiết đổi mà thôi. Để đề phòng những người muốn tu trí, con bảo vợ con, thế nào cũng phải găm lại chút ít để giữ khách. Nói rằng:
- Tôi trót mua món vải, phải giật tạm vào cái số của bác. Thôi thì bác bằng lòng vậy, tối nay bác đến chơi, tôi xin trả bác hết.
Không những con lừa người có tiền, có ruộng, mà con còn vơ vét cả của các ông bẩn cố nông làm ở nhà con. Những ông con mượn làm ruộng, những ông con mượn canh gác sòng ban đêm, con đều trả bằng tiền, nhưng lại trả ngay trong sòng bạc. Rút cục không ông nào còn đồng nào, nhiều ông phải vay thêm, và trả bằng công không hàng tháng.
Ông Hãnh máu mê nhất, đến bây giờ, còn nợ con nửa năm công. Bà Tặng, vì khuyên chồng không nổi, đã bỏ nhà, dắt con đi ăn xin, nay không biết xiêu bạt nơi nào. Còn ông Nhi, vì không có gạo ăn, đã phải nhịn và chết đói.
Trong một năm con chiếm ba chục mẫu về nghề cho vay lãi, bằng giấy nhật trình cũ. Lý Si có hai tối, phải gán cho con bảy mẫu. Anh Vượng suốt hai mươi năm lao khổ, dành dụm tậu được sáu mươi sào, thì có trong một tiếng đồng hồ nướng hết sạch. Chánh Bỉnh thua hết tiền thuế, phải đi tù.
Nói tóm lại, trong một năm trời, con gian ác đến nỗi nhiều gia đình khánh kiệt, trở nên tàn nát, con lìa cha, vợ mất chồng, nhiều người không biết còn sống hay đã chết.
Thủ đoạn làm giàu của con ít ai nghĩ nổi, phải có cái óc bóc lột gia truyền của giai cấp hàng nghìn năm chuyên môn hưởng sung sướng trên mồ hôi nước mắt, xương máu nhân dân, mới có thể tàn nhẫn như con được.
Ruộng đất của con là do bàn tay lao động của nông dân làm ra. Con đã chiếm đoạt một cách phi pháp. Thóc gạo của con cũng không tự tay con cày bừa cấy gặt mà có. Con đã bóc lột nông dân một cách vô lý, bất công. Tiền bạc mà con có để tậu thêm ruộng đất, làm lại nhà cửa, ăn tiêu phung phí hàng ngày, cũng là do sức lao động của nông dân làm ra hạt thóc.
Đời sống của con là đời sống ô nhục. Từ hôm Đội phát động về đây, con cứ thấy các ông nông dân tố khổ, kể tội ác của giai cấp địa chủ gọi, chúng con là thằng, thì còn rất bực mình. Con cho là Trời làm một trận lăng nhăng, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông. Nhưng được học tập, con mới hiểu rằng cái trận lăng nhăng chính là vào thời kỳ phong kiến và đế quốc thống trị, cho nên những thằng ăn bám, bóc lột mới trở nên ông, và những ông lao động chịu bao nỗi vất vả để làm nên hạt thóc nuôi sống người, lại hóa ra thẳng.
Bây giờ, dưới chế độ dân chủ nhân dân, Hồ Chủ Tịch và Đảng đã làm cho xã hội ta không còn lăng nhăng nữa. Ai đáng là thằng, ai đáng là ông, mới thật rõ rệt".
Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Trong Tập truyện ngắn "Nông dân với địa chủ"
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
Mời đọc tại ISSUU
Tham khảo: Các bài viết liên quan
Ôn Thi Văn là nơi tổng hợp Kiến thức văn cho học sinh
Trả lờiXóa