Ads 468x60px

.

Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2024

Nhớ ‘Tinh thần thể dục’ của Nguyễn Công Hoan!


Nhớ ‘Tinh thần thể dục’ của Nguyễn Công Hoan!

Trân Văn

(Hình: Trích xuất từ VnExpress.net)
Cho dù thành tích của Đội tuyển Bóng đá nữ Việt Nam vượt xa Đội tuyển Bóng đá nam, nhưng các nữ cầu thủ chỉ được nhắc tới khi đạt thành tích vượt trội rồi... thôi!

Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam vừa chúc mừng các thành viên Đội tuyển Bóng đá nữ của quốc gia giành được vé tham dự Vòng Chung kết Giải Vô địch Bóng đá nữ Thế giới (Women's World Cup) do FIFA tổ chức ở Australia và New Zealand vào năm tới, sau khi thắng Đội tuyển Bóng đá nữ của Đài Loan 2-1 (1).

Đây là lần đầu tiên trong bóng đá, Đội tuyển Việt Nam giành được quyền tham dự Vòng Chung kết của Giải Vô địch Bóng đá Thế giới nên chuyện chúc mừng là tất nhiên.

Tuy nhiên, nếu quan tâm đến bóng đá Việt Nam nói chung và bóng đá nữ ở Việt Nam nói riêng, người ta dễ ngơ ngẩn và ngậm ngùi về câu, từ của Chủ tịch Nhà nước...

Ví dụ Chủ tịch Nhà nước
... bày tỏ niềm vui, niềm tự hào của người hâm mộ Việt Nam khi dõi theo cả quá trình tập luyện và thi đấu, nhất là được chứng kiến những giây phút các cầu thủ bóng đá nữ Việt Nam làm nên chiến thắng, ghi dấu mốc lịch sử đối với nền bóng đá Việt Nam...

***

Cứ dùng Google với một số từ khóa, chẳng hạn “bóng đá nữ”và ”phân biệt đối xử”,... sẽ thấy thân phận của những phụ nữ yêu thích bóng đá và chọn con đường làm nữ cầu thủ bóng đá tại Việt Nam thế nào, bao nhiêu người thật sự... “dõi theo cả quá trình tập luyện và thi đấu” của Đội tuyển Bóng đá nữ Việt Nam như Chủ tịch Nhà nước vừa chúc mừng!

Cho dù thành tích của Đội tuyển Bóng đá nữ Việt Nam vượt xa Đội tuyển Bóng đá nam (ba lần Vô địch Giải Bóng đá nữ Đông Nam Á, sáu lần giành Huy chương vàng SEA Games dành cho bóng đá nữ, tám lần có mặt tại vòng bảng của Cúp Bóng đá nữ khu vực châu Á) nhưng các nữ cầu thủ chỉ được nhắc tới khi đạt thành tích vượt trội rồi... thôi!

Trước, nhiều người Việt từng lắc đầu khi tình cờ được biết nữ cầu thủ đội tuyển quốc gia thiếu đủ thứ từ trang bị cá nhân, tiện nghi tập luyện, đến ăn, ở, chăm sóc y tế. Giờ cũng thế. Sau khi các cầu thủ nữ Đội tuyển Bóng đá nữ của quốc gia giành được một vé tham dự Vòng Chung kết FIFA Women's World Cup 2023, một số người tiếp tục nhắc lại chuyện nhiều người đã biết, họ không có lương, mỗi ngày tập luyện được trợ cấp từ 60.000 VND đến 100.000 VND. Khi khoác áo đội tuyển quốc gia ra sân thỉ được trả thêm tiền ăn từ 90.000 VND đến 200.000 VND. Thu nhập bình quân từ ba triệu VND đến bốn triệu VND, cao nhất cũng chỉ từ bảy triệu VND đến tám triệu VND (2)...

Đó cũng là lý do các thành viên Đội tuyển Bóng đá nữ Việt Nam phải làm thêm nhiều nghề khác nhau để có thể tiếp tục làm... “nữ chiến binh áo đỏ”, để những viên chức hữu trách như Chủ tịch Nhà nước thỉnh thoảng lại nhân danh người hâm mộ bày tỏ... sự tự hào về tinh thần quả cảm, tinh thần của những “con cháu Bà Trưng, Bà Triệu”!

Sau những tuyên bố về cảm xúc... “tự hào” đó là gì? Hồi tháng 8/2019, một số cơ quan truyền thông chính thức ở Việt Nam tường thuật... những nữ cầu thủ - Đội Tân Vô Địch Bóng đá nữ Đông Nam Á hồi hương trong vắng lặng. Họ bảo với báo giới, họ không chạnh lòng vì đã... quen với chuyện này (3)!

Đầu tháng 3 năm 2020, vài cơ quan truyền thông chính thức nêu thắc mắc, tại sao Chương Thị Kiều không được sắp xếp để phẫu thuật sớm? Hai tháng sau khi bị chấn thương, nữ cầu thủ giữ vai trò Trung vệ, một trong những trụ cột của Đội tuyển Bóng đá nữ Quốc gia này vẫn phải chờ, trong khi chỉ một tuần sau khi bị chấn thương, hai cầu thủ khác của Đội tuyển Bóng đá nam Quốc gia đã được sắp xếp để đưa sang Nam Hàn và Singapore phẫu thuật (4).

Hôm 6 tháng 2 vừa qua, Chương Thị Kiều được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trong trận đấu giữa Đội tuyển Bóng đá nữ Việt Nam và Đội tuyển Bóng đá nữ Đài Loan. Cô gái người Kh’mer này theo đuổi bóng đá từ năm 15 tuổi, đã bị chấn thương vài lần phải nghỉ tập luyện, thi đấu và kiếm sống bằng nghề làm tóc (5)...

***

Không phải tự nhiên mà kẻ viết bài này nghe Chủ tịch Nhà nước Việt Nam chúc mừng các thành viên Đội tuyển Bóng đá nữ Quốc gia lại nhớ đến... “Tinh thần thể dục” của Nguyễn Công Hoan (6)... Đại khái, vì... “Tinh thần thể dục”, tỉnh ra lệnh cho huyện, huyện chỉ đạo cho xã phải dẫn đủ 100 người đi xem đá bóng. Người Việt thời đó sợ đi xem đá bóng theo chỉ đạo do phải ăn mặc tử tế, vác cờ, cuốc bộ tới huyện, phải vỗ tay luôn luôn vì hôm ấy có nhiều quan khách nên họ... trốn hay hối lộ cho Lý trưởng để được ở nhà. Vào... ngày trình diễn “Tinh thần thể dục”, lý trưởng tuy tận tâm, cử tuần đinh lùng sục từng nhà, bới cả đụn rơm, bồ trấu, cót gio,... nhưng chỉ gom được 96 người!

Có một thời, “Tinh thần thể dục” được đưa vào sách giáo khoa để giúp học sinh nhận diện... chính sách lừa bịp, mị dân của thực dân, phong kiến. Nay, chẳng rõ “Tinh thần thể dục” còn trong sách giáo khoa hay không nhưng so cách hành xử với Đội tuyển Bóng đá nữ của quốc gia và Đội tuyển Bóng đá nam của quốc gia, có thể thấy, nguyên nhân dẫn tới lối xử sự “bên trọng, bên khinh” không phải là khác biệt trong nhận thức liên quan tới giới tính mà nằm ở chỗ, một bên có đám đông, một bên... không!


Trân Văn



----------------

Chú thích

(1) Chủ tịch nước chúc mừng Đội tuyển Bóng đá Nữ quốc gia lần đầu tiên giành quyền tham dự World Cup - vietnam.vnanet.vn

(2) Bài viết của Phan Châu Thành - FB

(3) Tuyển nữ Việt Nam trở về trong vắng lặng - vnexpress.net

(4) Chuyện tuyển thủ nữ 2 tháng chưa được phẫu thuật, tuyển thủ nam 1 tuần đã xong xuôi: VFF có phân biệt đối xử? - kenh14

(5) Tinh Thần Thể Dục - isach.info

Trân Văn là bút danh của một nhà báo có 28 năm làm việc ở nhiều vị trí khác nhau (Cộng tác viên, Phóng viên, Biên tập viên, Thư ký Tòa soạn) của một số đài truyền hình, đài phát thanh, nhật báo, tuần báo, báo điện tử tại Việt Nam và Hoa Kỳ. Các bài viết của Trân Văn là blog cá nhân và được đăng tải với sự đồng ý của đài VOA nhưng không phản ánh quan điểm chính thức của chính phủ Hoa Kỳ.



Nghe đọc Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan - ABC BOOK (Yêu Ngữ Văn)


Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Tuyển chọn & Diễn đọc: ABC BOOK (Yêu Ngữ Văn)



Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2024

Phùng Văn Khai - Trần Đăng Suyền: Đối thoại về nhà văn Nguyễn Công Hoan


Phùng Văn Khai - Trần Đăng Suyền:
Đối thoại về nhà văn Nguyễn Công Hoan

Bảo Thơ (ghi)


Theo kế hoạch của Dự án sách “Thuật bút Xuân Cầu”, Ban biên soạn Dự án đã có chuyến đi về thăm mộ nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nhà lưu niệm Tô Hiệu tại làng Xuân Cầu, Nghĩa Trụ, Văn Giang, Hưng Yên. Đây là chuyến đi vô cùng ý nghĩa và nhiều cảm xúc đã tiếp thêm động lực cho ban biên soạn có nguồn cảm hứng bất tận, tiếp nối các bậc đa đề để tạo ra những tác phẩm hay, có giá trị cống hiến cho quê hương, đất nước. Ngay sau chuyến đi đó, Ban biên soạn đã lên kế hoạch, sắp xếp lịch hẹn với Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đăng Suyền để có một buổi phỏng vấn sâu về nhà văn lỗi lạc Nguyễn Công Hoan.

Đoàn nhà văn viếng mộ nhà văn Nguyễn Công Hoan.


Nhà văn Nguyễn Công Hoan.

Nhà văn Phùng Văn Khai: Xin kính chào GS.TS Trần Đăng Suyền! Thưa ông, chúng tôi vừa có một cuộc viếng thăm, dâng hương tại mộ nhà văn Nguyễn Công Hoan. Một nấm mộ nhỏ bé nằm trong khu nghĩa trang của làng Xuân Cầu rất đơn sơ, giản dị đã cho chúng tôi nhiều cảm xúc. Nhà văn Nguyễn Công Hoan là vị Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam đã để lại một kho tàng các tác phẩm đồ sộ. Cũng đã có hàng chục luận văn thạc sĩ, tiến sĩ làm về tác phẩm của nhà văn Nguyễn Công Hoan nhưng tôi cho rằng nhà văn Nguyễn Công Hoan vẫn phải tiếp tục được định vị, khẳng định vị trí, cái tâm và cái tầm của ông trong nền văn học cách mạng.
Vậy với tư cách và cương vị là nhà nghiên cứu văn học đương đại, ông đánh giá như thế nào về nhà văn Nguyễn Công Hoan?


GS.TS Trần Đăng Suyền: Xin cảm ơn nhà văn Phùng Văn Khai. Trước tiên chúng ta có thể thấy, vùng quê nào cũng có những đặc sắc riêng và đều có những chân giá trị từ lâu đời. Thế nhưng mà vùng quê sinh ra những nhà văn lớn thì phải là cái vùng quê có truyền thống văn hóa. Những vùng đất khác có thể sinh ra những nhân vật lớn ở những lĩnh vực khác nhưng đã là văn chương nghệ thuật thì phải là cái vùng đất có truyền thống văn hóa. Ý tưởng của các bạn tôi thấy rất hay là nói về vùng đất Xuân Cầu nơi sinh ra nhiều nhân vật nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực, trong đó có nhà văn lớn Nguyễn Công Hoan. Đấy là một cái cái hướng khảo sát mà theo tôi là rất đúng, rất trúng, rất là chuẩn xác.

Nói về nhà văn Nguyễn Công Hoan - ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn chương hiện thực Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Ông đã để lại một di sản lớn cho văn học nước nhà với hàng trăm tác phẩm và nhiều tác phẩm của ông đã gây tiếng vang lớn, thậm chí là gây chấn động trên văn đàn Việt Nam. Với tầm tư tưởng, tài năng lớn và những đóng góp lớn, tôi nghĩ rằng tên tuổi và nhiều tác phẩm của Nguyễn Công Hoan chắc chắn sẽ có một vị trí quan trọng, chắc chắn, vững vàng, trường tồn trong nền văn học Việt Nam và sẽ còn được tiếp tục nghiên cứu, giới thiệu rộng rãi, vang xa hơn nữa.

Nhà văn Phùng Văn Khai: Vâng thưa ông, “Dư Địa Chí Xuân Cầu” đã cho thấy trong thời phong kiến có 13 tiến sĩ có tên trong bia Văn Miếu. Ở đó có những dòng họ truyền thống khoa bảng như dòng họ Nguyễn, dòng họ Tô, dòng họ Quản - ba dòng họ lớn nhất và có nhiều tiến sĩ nhất. Đối với nhà văn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi cho rằng ông là một nhân vật lịch sử với những đóng góp về văn chương nghệ thuật và về các lĩnh vực khác nữa. Nhà văn Nguyễn Công Hoan nổi tiếng là một bậc thầy truyện ngắn trào phúng, vậy theo ông, đóng góp sâu sắc nhất của nhà văn Nguyễn Công Hoan với văn chương là gì? Và hiện nay chúng ta cần phải làm gì tiếp theo để tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của những đóng góp đó của nhà văn Nguyễn Công Hoan?

GS.TS Trần Đăng Suyền: Theo tôi, xét đến cùng, một nhà văn lớn, một nhà văn kiệt xuất là các tác phẩm của nhà văn đó phải mang dấu ấn của thời đại sinh ra nhà văn cùng với những tác phẩm bất hủ của ông ta. Mặt khác, điều ảnh hưởng đến những sáng tác của nhà văn chính là môi trường sống từ bé và hoàn cảnh gia đình, cái nét riêng của quê hương. Nhà văn Nguyễn Công Hoan hội tụ cả hai phương diện trên.

Ông là nhà văn của thời đại trước cách mạng, sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng. Bác ruột của nhà văn Nguyễn Công Hoan từng đỗ Phó bảng, từng làm Tri phủ, ngay từ lúc bé, Nguyễn Công Hoan được nuôi ở nhà ông bác và hằng ngày ông tiếp xúc với thế giới quan trường, lính tráng. Từ nhỏ, Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Nhà văn Nguyễn Công Hoan còn có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (tức Lê Văn Lương) - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị - trưởng Ban Tổ chức Trung ương; Nguyễn Công Bồng - nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ - nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha Bình dân học vụ. Có thể thấy, đây là một dòng họ lớn của đất nước ta có truyền thống gia đình, truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng rất đáng trân trọng và tự hào.

Nói về nhà văn Nguyễn Công Hoan, theo tôi ông là nhà văn mở đầu cho trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Đây là một trào lưu văn học lớn, rất tiến bộ và có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao. Sức sống của trào lưu văn học này sẽ còn lâu dài đối với lịch sử văn học dân tộc. Những nhà văn của thời kỳ hiện đại chúng ta nếu như muốn đi xa được phải nâng cao trình độ, bồi dưỡng tâm hồn bằng nhiều cách, trong đó có việc kế thừa và phát triển văn mạch dân tộc, từ những cây bút lớn của trào lưu văn học hiện thực phê phán mà trong đó có Nguyễn Công Hoan.

Văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945 đã phản ánh chân thực và sâu sắc hiện thực xã hội đầy bất công, thối nát đương thời, thể hiện thái độ bất bình với thực tại, tỏ lòng thương cảm với những số phận khốn khổ của nhân dân lao động, bị dồn vào đường cùng. Trải qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, những tác phẩm của văn học hiện thực phê phán ấy đến nay vẫn nguyên giá trị và luôn có sức ảnh hưởng với văn học thời hiện tại và cả trong tương lai.

Tôi cũng là người nghiên cứu khá sâu và kỹ về trào lưu văn học hiện thực phê phán. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu văn học đều cho rằng: Trào lưu văn học hiện thực phê phán được chia làm 3 chặng đường. Chặng đường thứ nhất từ khoảng 1930 đến 1935, đã thấy xuất hiện những tác phẩm của các cây bút hiện thực với những tác phẩm bước đầu gây được sự chú ý như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Tú Mỡ, trong đó tiêu biểu nhất là nhà văn Nguyễn Công Hoan với tập truyện ngắn xuất sắc Kép Tư Bền (1935). Chặng đường thứ hai, từ 1936 đến 1939, xuất hiện thêm nhiều cây bút tài năng như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,… trong đó, Vũ Trọng Phụng là tiêu biểu nhất. Chặng đường thứ ba, từ 1940 đến 1945, hàng loạt những cây bút trẻ đầy tài năng xuất hiện, trong đó tiêu biểu nhất là Nam Cao.

Như vậy, nói đến văn học hiện thực 1930 - 1945, người ta thường kể tên các nhà văn lớn như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng và Nam Cao, tiếp đến có thể kể tên nhiều cây bút hiện thực tài năng khác. Trong trào lưu văn học lớn này, Nguyễn Công Hoan có một vị trí đặc biệt, có đóng góp lớn. Ông là cây bút đặt nền móng, mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực ở thể loại truyện ngắn. Ông đã sáng tạo ra một kiểu truyện ngắn rất độc đáo là truyện ngắn giàu chất kịch, truyện ngắn trào phúng. Mỗi truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Công Hoan giống như là cái màn hài kịch được viết bằng văn xuôi. Cũng có khi là những tấn bi - hài kịch. Càng đi sâu vào để mà lý giải vấn đề này thì càng rất thú vị.

Nhà văn Phùng Văn Khai: Thưa ông, ông vừa chia sẻ về ba đỉnh cao của văn học hiện thực phê phán là nhà văn Nguyễn Công Hoan, nhà văn Vũ Trọng Phụng và nhà văn Nam Cao. Chúng tôi thấy rằng có một vẻ đẹp của ba ông là ba ông rất độc lập với nhau về cách viết và trong thời gian sáng tác của Nguyễn Công Hoan có những quãng song song với Tự Lực Văn Đoàn, thế nhưng Nguyễn Công Hoan vẫn độc lập. Ông đánh giá như thế nào về tư cách của nhà văn khi độc lập ngòi bút trong sáng tác, trong cuộc sống và sau này gần như nhà văn Nguyễn Công Hoan luôn rất nhất quán với tinh thần ấy?

GS.TS Trần Đăng Suyền: Chúng ta hiểu đây là vấn đề về cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật, về bản lĩnh và tài năng của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Công Hoan xuất hiện trong một bối cảnh văn học của ta lúc bấy giờ thiên về lãng mạn, sướt mướt, tình ái làm mủi lòng người. Khi độc giả không thích đọc những truyện như thế nữa người ta đòi hỏi văn học phải phản ánh sự thực ở đời, người ta thích những tác phẩm phơi ra những mặt trái của xã hội và nói về những vấn đề thân phận con người. Nhà văn Nguyễn Công Hoan đáp ứng được nhu cầu ấy và trào lưu văn học hiện thực ra đời là vì cái nhu cầu ấy.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan là người được học hành, được học tiếng Pháp đến nơi đến chốn. Thế nhưng, truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan hầu như không chịu ảnh hưởng gì từ văn học phương Tây. Những đề tài, những nhân vật, những cốt truyện, ngôn ngữ của ông đều lấy từ đời sống xã hội Việt Nam, đậm chất Việt Nam. Chúng ta thấy được bản lĩnh rất lớn của Nguyễn Công Hoan là ở chỗ, nếu ông có đọc những tác phẩm của văn học phương Tây nhưng không tiếp nhận một cách thụ động, không sao chép, mô phỏng mà tìm ra một lối đi riêng, sáng tạo ra một kiểu truyện ngắn riêng của mình, trên cơ sở kế thừa và phát triển truyền thống văn học của dân tộc.


Nhà văn Phùng Văn Khai: Thưa Giáo sư, chúng tôi có nhận định như thế này: Đối với nền văn học cách mạng thì Nguyễn Công Hoan giống như là người bắc cầu, chúng ta lấy dấu mốc năm 1945, trước đó chữ quốc ngữ cũng mới được sử dụng và chúng ta đã mau chóng có những tác phẩm văn học bằng chữ quốc ngữ, trong đó Nguyễn Công Hoan là tiên phong. Sau Cách mạng, nhà văn Nguyễn Công Hoan cùng với các nhà văn khác như Nam Cao vẫn tiếp tục đi theo hướng đó. Sau đó, Nguyễn Công Hoan được phân công làm Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên, ông vừa sáng tác vừa gánh vác công việc quản lý văn học nghệ thuật ngày đó. Có thể thấy là không dễ gì để tập hợp anh em văn nghệ sĩ quây quần, sinh hoạt trong một tổ chức. Ông đánh giá như thế nào về vai trò của Nguyễn Công Hoan với cương vị là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam?

GS.TS Trần Đăng Suyền: Nguyễn Công Hoan là nhà văn lớn, vừa có tâm vừa có tài. Với tài năng lớn, ông đã tạo được một phong cách nghệ thuật độc đáo. Truyện ngắn Việt Nam đến Nguyễn Công Hoan mới thực sự hiện đại, có vai trò mở đầu cho trào lưu văn học hiện thực phê phán. Có thể nói, ngay từ trước Cách mạng, Nguyễn Công Hoan đã là nhà văn lớn, uy tín văn học của ông đã rất lớn.

Như tôi vừa nói là gia đình Nguyễn Công Hoan có truyền thống văn hóa và truyền thống cách mạng đã tạo nền tảng để ông có thể viết được các tác phẩm để đời trong đó có tiểu thuyết nổi tiếng Bước đường cùng. Gia đình (các em ruột, các con trai), họ hàng, bè bạn của ông có nhiều người hoạt động cách mạng bị thực dân Pháp bắt giam, tù đày. Nhà văn Nguyễn Công Hoan viết trong Đời viết văn của tôi, ông viết Bước đường cùng là để “trang trải món nợ lòng đối với anh em cộng sản ở Nam Định”. Ấy là vì, khi dạy học ở thị xã Nam Định (bây giờ là thành phố Nam Định), ông đã tiếp xúc, gần gũi với các đồng chí Lê Văn Phúc, Lê Đức Thọ, những người đồng chí với người em ruột của ông là Lê Văn Lương. Sở mật thám thực dân cho ông là “một tay cộng sản nguy hiểm” và chuyển ông từ thị xã Nam Định - nơi tập trung nhiều thợ thuyền - ra hòn đảo Trà Cổ hẻo lánh. Nhà văn đã hối hả viết Bước đường cùng, chỉ trong 16 ngày (từ ngày 1 - 16/7/1938), trước khi bị chuyển ra đảo Trà Cổ. Cho nên ngoài những truyện ngắn xuất sắc thì Nguyễn Công Hoan còn để lại những cuốn tiểu thuyết có giá trị, trong đó có tiểu thuyết Bước đường cùng nổi tiếng, là một trong những đỉnh cao của tiểu thuyết hiện thực phê phán 1930 - 1945. Nhà văn Nguyễn Khải có lần nhận xét, đó là một trong những cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học.

Nguyễn Công Hoan là một nhà văn có nhân cách lớn, tài năng lớn, có uy tín lớn trong giới nhà văn. Không phải ngẫu nhiên mà năm 1957, Hội Nhà văn Việt Nam thành lập, Nguyễn Công Hoan được giao trọng trách là Chủ tịch. Tất nhiên, một con người tính cách như Nguyễn Công Hoan không bao giờ ham hố danh vị, chức tước. Thì chính ông viết trong cuốn hồi kí Đời viết văn của tôi, là ông “bị bầu làm Chủ tịch”. Nhưng ông là một con người đầy tinh thần trách nhiệm, ông đã hoàn thành trọng trách được tổ chức giao phó, đồng nghiệp tín nhiệm. Trên cương vị là Chủ tịch Hội Nhà văn, Nguyễn Công Hoan ông có công lớn và vai trò rất quan trọng tập hợp một đội ngũ nhà văn đi vào hoạt động và sáng tác, gắn bó sâu sắc với vận mệnh của đất nước, đưa văn học nước nhà tiến lên thêm một bước nữa.


Nhà văn Phùng Văn Khai: Thưa ông, chúng tôi quay lại câu chuyện đầu tiên là chúng tôi vừa mới về dâng hương mộ của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Tôi với tư cách là hậu sinh dẫn anh em văn nghệ sĩ trí thức đến đó dâng hương cụ. Tôi thấy ngôi mộ cũng rất khiêm tốn, đơn sơ nhưng do nguyện vọng của cụ là ngôi mộ nằm chung trong một dãy mộ của gia đình, điều này cũng phù hợp với văn hóa Việt Nam giản dị, khiêm tốn. Tuy nhiên, với những đóng góp của nhà văn Nguyễn Công Hoan, chúng ta cũng phải tính những bước lâu dài như xây dựng Nhà Lưu niệm Nguyễn Công Hoan, hoặc dựng văn bia về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của cụ. Bởi vì bây giờ đất nước và Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã rất phát triển và khang trang, chúng ta hoàn toàn có đủ điều kiện để thực hiện những điều trên. Vậy theo ông, chúng ta đưa ra những bước đi rõ như vậy thì có cần thiết không khi thực hiện những công trình mang tính kỷ niệm, mang tính nhắc nhở, giáo dục, truyền thống về một nhà văn nổi tiếng, về một con người đã có những đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, đóng góp cho nền văn học một kho tàng tác phẩm như vậy?

GS.TS Trần Đăng Suyền: Nhà văn Phùng Văn Khai đặt ra một vấn đề theo tôi là rất hay và rất có ý nghĩa. Những tài năng lớn, những nhân cách lớn như Nguyễn Công Hoan thì những con người ấy người ta lại rất giản dị, khiêm tốn. Bản thân giá trị tác phẩm của những nhà văn như thế đã đi vào lịch sử văn học dân tộc, đi vào tình cảm của nhân dân, của đất nước là lẽ đương nhiên, cho nên những con người có chân giá trị như thế, người ta cần gì, người ta không bao giờ tự đề cao mình.

Không chỉ nhà văn Nguyễn Công Hoan mà cả các nhà văn như Nguyên Hồng, Nam Cao cũng đều sống rất là khiêm nhường, giản dị. Mục đích, lẽ sống của họ là bằng tâm huyết, tài năng, họ cống hiến những tác phẩm vô giá cho đất nước, cho dân tộc.

Nhà văn Phùng Văn Khai đặt vấn đề rất đúng, bây giờ chúng ta có điều kiện rồi và trong cái tình hình văn hóa như hiện nay thì đây chính là trách nhiệm của thời đại này, của những người biết tôn trọng và yêu văn hóa nghệ thuật. Chúng ta làm không phải là vì Nguyễn Công Hoan mà là vì nền văn học của dân tộc, để tạo địa chỉ cho những bạn đọc yêu quý văn chương, trân trọng giá trị văn học truyền thống của dân tộc ghé thăm, tỏ lòng tri ân thành kính. Đây là vấn đề rất lớn, giữ gìn rồi phát huy cái bản sắc văn hóa truyền thống cần có những việc làm cụ thể thiết thực và chúng ta nên làm càng sớm càng tốt.

Nhà văn Phùng Văn Khai: Hôm nay, thông qua câu chuyện với GS.TS Trần Đăng Suyền, chúng tôi cũng thấy được sự hiểu biết, đánh giá công tâm và đặc biệt là những cái tư duy thông qua câu chuyện đã tạo nên tinh thần để chúng ta thực hiện những hoạt động về văn hóa văn học nghệ thuật bắt nguồn từ những hoạt động hữu ích nhất và những con người cụ thể nhất để từ đó góp phần làm giàu hơn cho văn hóa, văn học nghệ thuật, làm giàu hơn nhận thức và trí tuệ của lớp trẻ có được một niềm tin, nguồn tri thức, nguồn sức mạnh để chúng ta mạnh mẽ bước về phía trước.

Xin trân trọng cảm ơn giáo sư!




Bảo Thơ (ghi)

Toàn cảnh buổi phỏng vấn.



Thứ Tư, 18 tháng 12, 2024

Phương pháp tra tấn "Lộn mề gà"


Phương pháp tra tấn "Lộn mề gà"

Hội Sử Học Dân Lập Việt Nam


Xuất hiện dưới thời Pháp thuộc, từng được miêu tả trong truyện ngắn "Thằng ăn cướp" của nhà văn Nguyễn Công Hoan, đây là một phương pháp tra tấn khá đơn giản và dễ làm, gây đau đớn rất lớn cho phạm nhân

Đầu tiên phạm nhân sẽ bị ép nằm sấp xuống phản, chân duỗi thẳng, cơ thể phạm nhân sẽ bị giữ chặt làm cho không động đậy được. Hai tay sẽ bị đặt ép sát vào hai bên hông, người tra tấn sẽ từ từ nâng hai cánh tay phạm nhân lên theo phương thẳng đứng từ từ cho đến khi vuông góc 90 độ so với cơ thể, ép vào hai bên đầu. Có thể đi kèm trước khi tra tấn là một trận đòn đấm đá cực đau.


Đòn tra tấn này sẽ làm cho cơ ngực phạm nhân bị siết chặt, chèn ép lồng ngực khiến cho ngạt thở, kèm theo sẽ bị đau cơ dữ dội. Thực hiện trong thời gian dài có thể khiến nạn nhân thổ huyết, ngất. Nếu tra tấn quá tay có thể làm trật khớp vai.

Lộn mề gà được dùng rất phổ biến trong nhà tù thời Pháp thuộc, từ tội phạm cứng đầu, cho đến tù chính trị. Nó còn được kết hợp với các biện pháp khác như đi tàu bay, đi tàu ngầm, treo dây,... tạo lên một chuỗi tra tấn liên hoàn, khủng bố tinh thần phạm nhân

Nguồn:
- Truyện ngắn "Thằng ăn cướp" Nguyễn Công Hoan.
- Hồi kí Bùi Công Trừng.
- Những kí ức của Đồng chí Đỗ Mười.


Nhà tù Hoả Lò, một trong những nhà tù khét tiếng của Thực Dân Pháp


Thứ Hai, 16 tháng 12, 2024

Vì sao người Việt xưa đi chân đất (không mang giày dép)?


Vì sao người Việt xưa đi chân đất
(không mang giày dép)?

Chuyện Xưa


Nếu xem lại những hình chụp người Việt (người Pháp gọi là Annamite) thời cuối thế kỷ 19 hoặc nửa đầu thế kỷ 20, có lẽ nhiều người sẽ thắc mắc là hầu hết “dân thường” đều đi chân đất (không mang giày dép).

Có phải do thời điểm đó giày dép quá mắc tiền nên người dân nghèo không có điều kiện để mua? Điều đó cũng có thể đúng, nhưng lý do cốt yếu là trước khi Pháp tới chiếm Việt Nam, người Việt dưới chế độ quân chủ bị cấm mang giày, vì đó là đặc quyền của vua quan thời đó.

Theo ghi chép của bác sĩ người Pháp Baurac năm 1894, điều này được ghi rõ như sau:
Người An Nam thường không đi giày, và trước khi người Pháp tới Nam kỳ, giày bị cấm hoàn toàn với dân thường. Lễ nghi của người An Nam không cho phép người ta đi giày xuất hiện trước kẻ bề trên; phải để dép ở cửa và đi chân trần. Thói quen này có từ thời thơ ấu, khiến lòng bàn chân ai nấy đều chai sạn, đến mức người An Nam có thể đi trên đá và xuyên qua các cánh rừng đầy bụi rậm và bụi gai mà không hề đau đớn.
Sau khi Pháp chiếm toàn bộ Nam kỳ (1867), sau đó là toàn bộ Trung kỳ và Bắc kỳ, nhiều điều luật được ban hành dưới chế độ phong kiến được xóa bỏ, trong đó việc cấm người dân thường mang dép dĩ nhiên cũng được gỡ bỏ.

Trong một thời gian rất dài, người mang giày và người đi chân đất cũng là thể hiện sự khác biệt về giai cấp trong chế độ phong kiến.

Tuy nhiên do thói quen lâu đời đã ăn sâu vào lối sống của người dân, nên dù không còn bị cấm nữa nhưng vẫn còn nhiều người ái ngại mang giày dép, và việc đi chân đất vẫn còn kéo dài qua quá nửa thế kỷ 20. Thậm chí sang tới thập niên 1970-1980, trong các hình cũ sau đây vẫn thấy có nhiều người dân lao động đi chân đất.

Theo ghi chép của bác sĩ Baurac (có nhắc tới bên trên), thì dần dần người Việt cũng quen với việc mang giày dép để nhìn tươm tất hơn:
“Từ một vài năm nay, những người khá giả và nhiều người An Nam khác, chẳng hạn như thông ngôn, thư ký của Đổng lý Nội vụ… nhất là ở Sài Gòn đã mang tất và giày Âu châu; phụ nữ thuộc tầng lớp khá giả vẫn mang giày Trung Hoa”.
chuyenxua.net biên soạn

Quan mang giày còn người hầu đi chân không



Các bà trong Cung đi ra xem đua thuyền trên sông Hương thời vua Khải Định (12-1924). Các bà này có lẽ là người hầu (cung nữ), tất cả đều phải đi chân trần, giống như lính của triều Nguyễn, chỉ quan mới được đi giầy hay hài.


Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2024

Tổ nghề đóng giày


NGUYỄN THỜI TRUNG, PHẠM THUẦN CHINH, PHẠM ĐỨC CHÍNH, NGUYỄN SĨ BÂN -
Tổ nghề đóng giày

Trong "Dấu ấn khơi dòng văn hóa Việt"
Lê Minh Quốc

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2024

Xưng hô trong giao tiếp vợ chồng nông dân người việt


Xưng hô trong giao tiếp vợ chồng nông dân
người việt

(Trên cứ liệu một số tác phẩm văn học giai đoạn 1930 - 1945)

KHUẤT THỊ LAN
(ThS; Đại học Sư phạm II, Hà Nội)

Thứ Năm, 12 tháng 12, 2024

Triết lí tiếng Việt trong một thành ngữ “phi lô gích”


Triết lí tiếng Việt trong
"thượng cẳng chân hạ cẳng tay"

GS TS Nguyễn Đức Dân


Tôi thường nghe nhiều lời bình (và cả một số bài viết) về những hiện tượng “phi lí”, “thiếu lô gích” ở tiếng Việt. Trong số này có thành ngữ (TN) thượng cẳng chân, hạ cẳng tay. Chân thấp tay cao, sao lại là thượng cẳng chân? Có giáo sư giải thích rằng chân đá hất lên cao, tay đập xuống nên mới nói vậy. Và cũng có bài viết theo như thế. Bạn có thể hỏi cắc cớ thế chân đạp, tay thụi có phải là thượng cẳng chân, hạ cẳng tay không? Cái “phi lí” của TN này mạnh đến nỗi hai nhà nghiên cứu văn học dân gian NL và LVĐ trong quyển từ điển Thành ngữ tiếng Việt (1978, nxb KHXH) được đánh giá cao, khi trích dẫn TN này cũng đã sửa lại cho nó “lô gích” hơn (?): “Bà cai Hách không dám hé răng nửa lời, vì cai Hách là kẻ phàm phu, chỉ biết có thượng cẳng tay, hạ cẳng chân (Vũ Trọng Phụng, Giông Tố)”. Quyển Từ điển thành ngữ Việt Nam (1993, nxb VH) của một nhóm tác giả thuộc Viện NNH cũng dùng lại lời trích dẫn đã bị sửa lại này. (Hay những tư tưởng sai thì gặp nhau?) Thật ra nhà văn họ Vũ viết “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” (GT, chương 27). Tôi tâm đắc câu cái gì hợp lí thì tồn tại của triết gia người Đức G.W. Leibniz và đi tìm cái lí cho những cách nói có vẻ “phi lí” nhưng vẫn được dùng rất bình thường này.
Trước hết, mời các bạn quan sát và trả lời những câu hỏi sau:
Trong vở Thị Màu lên chùa, người mõ “chiềng làng chiềng chạ, thượng hạ, Tây Đông, con gái phú ông là Thị Màu không chồng mà chửa…” Vì sao lời trình thượng hạ, Tây Đông là lời trình tới cả làng?
Tô Hoài viết “Họ buôn ghê lắm, thượng vàng hạ cám. Từ cái bát ăn đến sợi tơ bóng, tơ mờ của Nhật nhà cậu vẫn làm đấy…” (Mười năm) Vì sao buôn thượng vàng hạ cám được hiểu là buôn đủ mọi thứ?
Nghĩa của câu “Làm trai cho đáng nên trai // Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên” là “tài trai là đi tới nơi nào liền đưa lại yên bình cho nơi đó” Vì sao xuống Đông lên Đoài được hiểu là đi khắp nơi?
Vì sao “đầu đuôi câu chuyện” được hiểu là “toàn bộ câu chuyện”?
Và một bài thơ tứ tuyệt châm biếm:
“Khen ai khéo khéo tạc con voi
Có đủ cả đầu đủ cả đuôi
Chỉ có cái kia là chẳng thấy
Hay là thầy Lý bớt đi rồi?”
Vì sao chỉ cần “có đủ cả đầu đủ cả đuôi” là thành con voi? Thiếu những bộ phận khác chỉ là chuyện vặt, không ăn nhằm gì. Người ta nhắc tới “cái kia” cốt châm biếm thầy Lý hay bớt xén, ăn bẩn của dân. Vậy thôi.
Tục ngữ “Con vua vua dấu, con châu chấu châu chấu yêu” có nghĩa “Mọi sinh vật đều yêu con cái mình.” Vì sao cặp từ vua-châu chấu được hiểu là mọi sinh vật? Còn “Chuyện bậy bạ của quan chức X chỉ một hôm là trong Nam ngoài Bắc đều biết” có nghĩa “…chỉ một hôm cả nước đều biết.” Vì sao cặp từ Nam-Bắc lại là cả nước?
Chúng ta qui nạp: các cặp từ thượng - hạ, đầu - đuôi, Đông- Đoài, Nam – Bắc, vua – châu chấu, …giống nhau ở chỗ đều trỏ hai cực của một chỉnh thể và chung nghĩa “tất cả”. Vậy đã rõ: Người Việt có triết lí lấy hai cực để biểu trưng tổng thể và tạo ra nghĩa tất cả. Chúng ta nêu vài ví dụ:
Đất nước hình chữ S có hai cực Bắc – Nam, nên câu “Từ Bắc chí Nam người ta đều làm thế” có nghĩa “Cả nước đều làm thế”.
Theo chiều thẳng đứng có hai cực trên – dưới, nên câu “Trên dưới một lòng” được hiểu là “Mọi người đều một lòng”.
Theo phương mặt trời mọc lặn có hai cực Đông – Tây (Đoài là phương Tây), nên “chuyện Đông, chuyện Tây” là chuyện đủ mọi nơi trong thiên hạ. Còn “xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên” có nghĩa là “đi đến nơi nào là dẹp yên loạn lạc nơi đó”.
Theo trục thời gian có hai cực xưa – nay, trước – sau nên “Lệ làng này xưa nay là vậy” có nghĩa là “Mọi thời, lệ làng này là vậy”. Còn “Trước sau vẫn vậy” nghĩa là “luôn luôn vậy”.
Theo phương nhìn thẳng có hai cực trước – sau nên “Trước sau nào thấy bóng người” nghĩa là “không thấy một ai quanh ta”. Còn “Mắt trước mắt sau” là “để ý tới mọi phương” (và chuẩn bị chuồn).
Nghĩa của “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” được hình thành thế nào?
TN này có hai cặp từ (thượng, hạ) và (cẳng chân, cẳng tay). Cặp (thượng, hạ) trỏ tổng thể. Còn cẳng chân, cẳng tay là những bộ phận cơ bắp nên trỏ hành động đánh đập (giới ngôn ngữ học gọi là biểu trưng hành động đánh đập). Trong truyện ngắn Một bữa no đòn, Nguyễn Công Hoan đã viết
“Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng chân. Cẳng tay.”
Ghép hai phần nghĩa này lại, sẽ được nghĩa của TN trên: Về tổng thể là những hành động đánh đập vũ phu. Khi định nghĩa TN này nhiều người chua thêm đó thường là hành động của đàn ông đối với vợ con. Đáng buồn là tôi phải bỏ chi tiết này cho “phù hợp” với nạn bạo lực học đường, nhất là kiểu đánh hội đồng có nhiều nữ sinh cũng thượng cẳng chân hạ cẳng tay như ai, ngày càng phát triển ở ta hiện nay.

Nhiều TN có nghĩa được hình thành từ những cặp từ biểu trưng và chúng ta dễ dàng giải thích nghĩa của chúng. Ví dụ:
(Những mảnh ruộng, mảnh vải… ) đầu thừa đuôi thẹo. TN này có hai cặp (đầu, đuôi) và ( thừa, thẹo). Đầu đuôi trỏ tổng thể, còn ( thừa, thẹo) trỏ những thứ không ra gì. Vậy đó là “Những mảnh ruộng, mảnh vải… nhìn chung (về tổng thể) không ra gì” (Bọn) đầu trộm đuôi cướp. TN này có hai cặp (đầu, đuôi) và (trộm, cướp). Cặp (trộm, cướp) trỏ hạng lưu manh. Vậy “nhìn chung, đó là bọn lưu manh.”
(Họ buôn ghê lắm,) thượng vàng hạ cám. TN này có hai cặp đều trỏ hai cực: (thượng, hạ) và (vàng, cám). Trong các thứ đồ vật, của cải, vàng là thứ quí nhất xếp ở cực cao nhất, còn cám là thứ không ra gì (có câu có mà ăn cám! ) nên xếp ở cực cuối. Do vậy (vàng, cám) trỏ tổng thể các thứ đồ vật, của cải. Vậy là họ buôn đủ mọi thứ.
5. Trong nhiều ngôn ngữ khác, rất ít cách nói lấy hai cực trỏ tổng thể.
Cách nói từ đầu đến cuối cũng gặp trong tiếng Nga (s nachala do kontsa), tiếng Pháp (depuis le premier jusqu’au dernier) và phổ biến nhất là TN lấy chữ đầu và chữ cuối của bộ chữ cái La tinh hoặc Hy Lạp: (A) from A to Z; (P) depuis A jusqu’à Z; (N) ot al’fy do omeghi. Người Việt dễ dàng tiếp nhận TN “Từ A đến Z” để làm mới lạ thêm cách diễn đạt từ đầu đến cuối của mình.
Ki tô giáo lấy chữ đầu (A) và cuối (V) trong bộ chữ cái Hy Lạp và vẽ hai chữ này lồng lên nhau để tạo ra biểu trưng “tổng thể” về thế giới, về nhận thức, về thời gian, về không gian. Ta là Alpha và Oméga - đó là Chúa Ki Tô.
Trong bài viết ngắn này tôi cố gắng nói có đầu có đuôi để minh oanh cho một thành ngữ mà không ít người cho đến nay vẫn tưởng là vô lí, thiếu lô gích.
Tp HCM, 21.3.2010
dữ liệu: của ông Lê Công Lý

GS Trương Chính là người rất cẩn thận với chữ nghĩa. Khi dịch truyện ngắn Con Phốc con của nhà văn Ba Kim (Trung Quốc), GS có dùng câu “Ông không thừa nhận, nên bị đánh đập, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, rồi roi vọt, gậy gộc…” → "Thượng cẳng chân, hạ cẳng tay" đồng đẳng với “đánh đập” (động từ). Trong truyện ngắn Cái bướm tung tăng của Đoàn Ngọc Khánh: “Không thỏa dục thỏa ý là uất tức gây sự, là thượng cẳng chân, hạ cẳng tay liền” (ngữ động từ). Trong truyện ngắn Trẻ con không được ăn thịt chó của Nam Cao: “Nó cục như chó vậy. Ương với nó, nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay là thường” (ngữ động từ). Trong cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, GS Nguyễn Lân cũng xác định nghĩa của "thượng cẳng chân, hạ cẳng tay" là “đánh đập không thương xót” (ngữ động từ)..
(bài đăng trên tạp chí Ngôn Ngữ, số 6 năm 2010)

GS TS Nguyễn Đức Dân



Thứ Tư, 11 tháng 12, 2024

Tiểu thuyết Lá Ngọc Cành Vàng: Câu chuyện MÔN ĐĂNG HỘ ĐỐI ! | Nguyễn Công Hoan


Tiểu thuyết Lá Ngọc Cành Vàng: Câu chuyện MÔN ĐĂNG HỘ ĐỐI ! | Nguyễn Công Hoan

Anh Kiệt Đọc Sách



Nhà tưởng niệm Nhà văn Nguyễn Công Hoan - HienMB


Nhà tưởng niệm Nhà văn Nguyễn Công Hoan

HienMB



Thứ Ba, 10 tháng 12, 2024

Truyện ngắn “Kép tư bền” của Nguyễn Công Hoan


Truyện ngắn “Kép tư bền” của Nguyễn Công Hoan

Trần Đăng Suyền


Nhà văn bậc thầy Nguyễn Công Hoan viết thiên truyện ngắn xuất sắc “Kép Tư Bền” trong thời gian ông bị đau mắt.


Nhà văn Nguyễn Công Hoan


Trong Đời viết văn của tôi, nhà văn cho biết: “Có đề tài lúc chập tối, tôi bứt rứt, bực bội, đắn đo, không biết có nên thức mà viết hay không. Tôi mà liều, mắt bị sưng rất nặng. Nhưng chờ cho đến ngày khỏi mới viết, thì câu chuyện nó nguội, hóa thiu, hóa thối ra mất thôi. Thế là tôi quyết định viết” (Nguyễn Công Hoan, Đời viết văn của tôi, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1994, tr. 270).

Nguyễn Công Hoan đã lẳng lặng dậy và rón rén đến bên bàn viết. Dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu vặn nhỏ (vì phải giấu vợ), nhà văn vừa viết, vừa lau mắt. Ông đã đầy đọa đôi mắt ốm yếu của mình từ mười giờ tối đến năm giờ sáng ngày 27/3/1933 để viết cho bằng xong truyện Kép Tư Bền.

Nguyễn Công Hoan là nhà văn đặc biệt nhạy cảm trước những cảnh ngộ, tình huống có tính chất trào phúng. Trong thiên truyện Kép Tư Bền, ông đã phát hiện ra mâu thuẫn hết sức trớ trêu của anh Tư Bền: anh ta buộc phải cười (vì phải đóng vai hề) vào đúng cái lúc đáng ra anh phải khóc (người cha của anh sắp chết).

Kết cấu của truyện ngắn Kép Tư Bền được tổ chức theo trình tự thời gian. Nhà văn đã dẫn dắt câu chuyện theo chiều hướng mỗi lúc lại càng bộc lộ rõ hơn mâu thuẫn có tính chất trào phúng, thời gian càng kéo dài lại càng làm nổi bật hơn cảnh ngộ bi thảm của anh kép Tư Bền. Con mắt sắc sảo, thấm đượm nhân tình của ông đã nhìn thấy, đằng sau cái vở hài kịch vui vẻ, ồn ào đang diễn ra trên sân khấu, là cả một tấn bi kịch thê thảm thực sự của một con người. Ngòi bút truyện ngắn bậc thầy của ông đã làm hiện hiện lên trước mắt người đọc “sự tương phản gay gắt” giữa cảnh ngộ bi thảm, tâm trạng đau xót của kép Tư Bền với nội dung vui nhộn, bông lơn, cười cợt của cái vai hề mà anh cực chẳng đã phải biểu diễn trên sân khấu.

Cùng với thủ pháp tương phản, trong truyện ngắn Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan còn sử dụng thành công thủ pháp “tăng cấp”. Tăng cấp trong việc miêu tả nội dung vai diễn của của kép Tư Bền mỗi lúc lại càng rôm rả, “nhiều cái vui trò” hơn. Tăng cấp trong việc thể hiện sự cổ vũ, hoan nghênh, tán thưởng của khán giả càng lúc lại càng cuồng nhiệt hơn. Tăng cấp trong việc đưa tin bệnh tình người cha kép Tư Bền mỗi lúc một một nguy kịch hơn. Lúc kép Tư Bền từ nhà đi đến rạp Kịch trường thì cha anh “sắp chết”, “đã thấy nguy lắm rồi”.

Đến hồi thứ hai, khi Tư Bền đang phệnh phạo trên sân khấu thì cha anh đã “nguy hơn ban nãy. Đã cấm khẩu rồi!”. Hết hồi hai, lúc đang ngồi thừ người trong phòng trò thì Tư Bền lại nhận được tin “cha anh đã mê đặc, chân tay đã lạnh cả rồi”. Buổi biểu diễn vừa kết thúc, Tư Bền đang trong tâm trạng rối bời thì một bạn hát chạy đến nói: Cha anh đã “hỏng từ nãy mất rồi”. Mỗi một lời thông báo về bệnh tình của người cha kép Tư Bền lại thêm từ “rồi” ở cuối như những tín hiệu báo trước, trong cuộc chạy đua nước rút với tử thần, kép Tư Bền lúc nào cũng chậm hơn.

Để tô đậm tâm trạng nóng lòng, sốt ruột của kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan đã miêu tả dòng thời gian của vở diễn trôi chảy thật nặng nề, chậm chạp. Đó là dòng thời gian tâm trạng. Cảnh đầu diễn ra đối với anh Tư Bền, “sao mà lâu thế!”. Cảnh thứ hai, cũng “lâu như cảnh đầu, mãi mới hết”. Cái cảnh cuối cùng, “anh cho là lâu tới, thì khán giả cho là chóng quá”. Đến lúc sắp hạ màn, kép Tư Bền cúi chào, thì “cả rạp vỗ tay đôm đốp thật dài”.

Anh tưởng phen này đã “hết nợ”, có thể về để kịp nhìn mặt cha trước khi ông trút hơi thở cuối cùng, thì ở chỗ ghế hạng nhất, tiếng kêu “Bis! Bis!” lại nổi lên. Anh Tư Bền, cực chẳng đã, “lại phải giấu bộ mặt rầu rầu” để “vui vẻ diễn lại đoạn cuối một lần nữa”. Rồi đến khi bài kèn chào nổi lên, cái màn từ từ buông xuống, kép Tư Bền vẫn chưa được buông tha. Anh vẫn bị đầy đọa, hành hạ tiếp bằng những cái bắt tay, những lời khen ngợi, những bó hoa, làm cho anh “ruột càng như thiêu như đốt”.

Qua truyện ngắn Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan đã thể hiện sự cảm thông với nỗi niềm, tâm sự của một con người buộc phải làm trò cười trong hoàn cảnh đáng khóc. Nhà văn đã nhìn thấy những biểu hiện tinh tế trong tâm hồn kép Tư Bền và miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật “mỗi lúc một thêm rầu rĩ, xót xa, cay đắng”.

Ở nhà, cha kép Tư Bền “đương dở chứng khò khè, chỉ chờ từng phút để thở một hơi nữa là hết nợ” thì trong buồng trò, anh cũng “đương nẫu ruột nhầu gan”. Anh “ngồi ủ rũ trước cái gương, bụng thì rối beng, mặt thì nhăn nhó, nhưng tay vẫn phải sờ vào hộp phấn để đánh mặt, quệt vào đĩa mực để bôi nhọ cái mồm…”.

Trình diễn xong cảnh đầu, đến cảnh thứ hai, cái vẻ “lo âu” của kép Tư Bền “nó hiện ra ở trước mặt”. Đến khi nhận được tin cha đã mê đặc, kép Tư Bền “ứa hai hàng nước mắt”, không sao kìm nổi nỗi đau thương đã “khóc nức khóc nở”. Khi bị đẩy ra sân khấu tiếp tục làm trò, anh “vừa thắt dải áo, vừa sụt sịt mếu máo”.

Chứng kiến cảnh anh kép hát buộc phải diễn trò, người kể chuyện đưa ra nhận xét: “Cái cảnh thương tâm của anh Tư Bền đi đôi với cái bông lơn, cứ diễn ra mãi, mỗi chốc lại càng thương tâm hơn lên”. Thủ pháp tăng cấp vừa có tác dụng tô đậm thêm cảnh ngộ bi thảm của nhân vật, vừa tạo ra trong tác phẩm một không khí căng thẳng, hồi hội, đầy kịch tính. Tác phẩm được kết thúc vào đúng cái lúc tâm trạng của kép Tư Bền tột cũng bi thảm, đau đớn, tạo nên một dư vị thật ngậm ngùi, chua chát cho người đọc.

Trong truyện ngắn Kép Tư Bền, cũng nhờ thủ pháp tương phản mà Nguyễn Công Hoan đã lột trần cái mặt nạ giả nhân giả nghĩa của ông chủ rạp Kịch trường. Con mắt sắc sảo của nhà văn đã nhìn thấu tim đen của hắn. Để buộc kép Tư Bền phải nhận lời đóng vai chính cho vở Ông nghị ba phải, hắn đã dùng mọi mánh khóe, thủ đoạn, từ dọa nạt đến ân cần thăm hỏi người cha của anh, từ dỗ dành, phỉnh nịnh đến trói buộc anh bằng giấy giao kèo… Thật là nhẫn tâm khi hắn biết cha kép Tư Bền đang ốm sắp chết mà vẫn cố tình “đẩy anh ra sân khấu” để anh “lại phải hò, hét, ngâm, cười, múa, nhảy, để mua gượng lấy những tràng vỗ tay”.

Nguyễn Công Hoan đã bóc trần lớp sơn bên ngoài hào nhoáng của một bộ phận thuộc tầng lớp ông chủ, những kẻ giả nhân giả nghĩa, nhân danh nghệ thuật mà thực chất là lợi dụng nghệ thuật, chà đạp lên cả lương tâm, đạo lí, cả tình cảm thiêng liêng của con người, coi đồng tiền là trên hết. Qua Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc của mình trước tình cảnh một nghệ sĩ “tính thích tự do” nhưng vì nghèo túng mà phải bán rẻ tự do, trở thành kẻ lệ thuộc vào túi tiền của những ông chủ. Cảm hứng hài kịch ở đây đã nhường chỗ cho cảm hứng bi kịch, trào lên niềm xót thương chân thành của nhà văn trước tình cảnh thê thảm của người nghệ sĩ nghèo trong xã hội cũ.

Viết xong truyện ngắn Kép Tư Bền, mắt Nguyễn Công Hoan đau nặng thêm, nhưng nhà văn cảm thấy “rất khoan khoái, nhẹ nhõm”. Thiên truyện xuất sắc này cùng với 14 truyện ngắn khác được in trong tập truyện Kép Tư Bền (1935). Cuốn sách đã được 18 tờ báo lớn nhỏ khắp Trung, Nam, Bắc đăng bài khen ngợi. Nhà sách Hương Giang ở Huế đã mở một cuộc trưng cầu ý kiến các bạn đọc để xem cuốn sách nào được hoan nghênh. Kết quả là Kép Tư Bền được xếp lên đầu. Tập truyện ngắn đầu tay này của Nguyễn Công Hoan cũng là một trong những nhân tố làm bùng nổ cuộc tranh luận gay gắt giữa hai phái nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.


Trần Đăng Suyền

Tác phẩm "Kép Tư Bền"