Ads 468x60px

.

Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2023

Tìm hiểu “Nông dân” (Balzac) và “Bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan) dưới góc nhìn đối sánh


Tìm hiểu “Nông dân” (Balzac) và “Bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan) dưới góc nhìn đối sánh

Đoàn Thị Huệ
Trường Đại học Đồng Nai
Email: doanhuedhdn@yahoo.com


TÓM TẮT
Nếu Honore de Balzac là nhà văn hiện thực lớn của nước Pháp thế kỷ XIX thì Nguyễn Công Hoan cũng là một trong những nhà văn tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực Việt Nam những năm trước cách mạng tháng Tám. Sự nghiệp văn học phong phú, đồ sộ của hai nhà văn bậc thầy chủ nghĩa hiện thực, luôn nhận được sự yêu thích, ngưỡng mộ của bao thế hệ độc giả. Bài viết này là một hướng nghiên cứu của tác giả trong việc tìm hiểu hai tác phẩm “Nông dân” (Balzac) và “Bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan) dưới góc nhìn đối sánh, qua đó xác lập điểm gặp gỡ thú vị giữa hai nhà văn lớn cũng như chỉ ra những đặc sắc làm nên giá trị riêng của từng tác phẩm.
Từ khóa: Balzac, Nguyễn Công Hoan, Nông dân, Bước đường cùng, chủ nghĩa hiện thực, đối sánh



1. Mở đầu
Quan tâm đến Honore de Balzac và những đóng góp của nhà văn cho nền văn học nhân loại, Đỗ Đức Dục trong Hônôrê Đơ Banzăc – một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực đã viết: “Có thể nói Banzăc là người cách tân lớn nhất về thể loại tiểu thuyết của thời đại ông và chung cho cả châu Âu. (…) Không phải ngẫu nhiên mà Engel đã lấy Banzăc làm mẫu mực để đưa ra một công thức về chủ nghĩa hiện thực, làm kim chỉ nam cho chúng ta đánh giá một tác phẩm văn học hiện thực chân chính của quá khứ và cũng còn có giá trị cho cả ngày nay nữa” [1, tr. 122]. Cùng với đó thì trong hơn 50 năm cầm bút, Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ. Ông là nhà văn tiêu biểu của dòng văn học hiện thực Việt Nam.

Không chỉ là nhà văn lớn của Pháp, Balzac còn là bậc thầy về chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam. Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam những năm 1930 - 1945, do lệ thuộc Pháp về mặt chính trị, sớm tiếp thu và chịu ảnh hưởng văn chương Pháp nên một bộ phận lớn các nhà văn Việt Nam đã sử dụng thành thạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Pháp. Nhờ thế, họ đã tiếp xúc với nguyên tác các tác phẩm văn học nước ngoài, lắng đọng tiếng vọng của trái tim nhân loại, để đồng điệu và sáng tạo.
Trong đó, sự ảnh hưởng của các sáng tác theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa của Balzac đối với một bộ phận nhà văn Việt Nam lúc bấy giờ, trong đó có Nguyễn Công Hoan là điều khó tránh khỏi.

Hơn nữa, con người dù thuộc bất kỳ dân tộc nào nhưng khi đạt tới một trình độ văn minh nhất định, khi được trời phú cho một tâm hồn nhạy cảm, với khả năng phát hiện, phản ánh hiện thực theo cái nhìn, suy nghĩ, tưởng tượng, tình cảm riêng thì đều có thể tạo nên những tác phẩm văn học đặc sắc. Nếu cả hai nhà văn ngẫu nhiên có cùng một cơ cấu tâm hồn, một khả năng nghệ thuật tiêu biểu thì trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể gần giống, họ có thể có những tác phẩm tương đồng ở mức độ nhất định. Đây cũng là hiện tượng có thật, thường thấy, không phải là không lý giải được.

Với cách hiểu đó, có thể thấy sự gặp gỡ của hai tác phẩm Nông dân (Balzac) và Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) là một trong nhiều trường hợp cụ thể như vậy. Bài viết này là một hướng tiếp cận của tác giả đối với hai phẩm trên dưới góc nhìn đối sánh, hy vọng qua đó, có thể chỉ ra được điểm gặp gỡ thú vị giữa hai nhà văn lớn cũng như những đặc sắc làm nên giá trị riêng của từng tác phẩm.



2. Nội dung
2.1. Cơ sở của sự so sánh
Chọn Nông dân (Balzac) và Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) làm đối tượng so sánh vì chúng tôi tìm thấy ở đây có nhiều điểm tương đồng cơ bản giữa hai tác giả và hai tác phẩm.
Một là về nguyên tắc sáng tác, Balzac và Nguyễn Công Hoan thuộc hai dân tộc, ở vào hai giai đoạn văn học khác nhau, nhưng cả hai đều là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực, có những nguyên tắc sáng tác cơ bản giống nhau.
Một trong những nguyên tắc cơ bản đó, theo cách nói của Engel, là: “Theo ý tôi, chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi, ngoài những chi tiết chân thực là sự thể hiện chân thực những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình” [1, tr. 122].
Với bộ Tấn trò đời (nguyên văn tiếng Pháp là La Comédie humaine), Balzac đã trở thành một trong những đại diện xuất sắc nhất cho dòng văn học hiện thực chủ nghĩa Pháp thế kỷ XIX. Ngòi bút tả chân sắc sảo của ông đã đi sâu lật giở và phơi bày tất cả những gì là sự thật về đời sống xã hội. Đó là sự bóc lột của giai cấp tư sản đang lên, cuộc sống đói khổ của người dân lao động và cùng với đó là cuộc đấu tranh giai cấp làm nên những biến cố mang tính quy luật của xã hội đương thời. “Về nhân vật tiểu thuyết, Bandăc đã đạt tới tính cách hiển hình trong những hoàn cảnh điển hình” [1, tr. 133]. Tiểu thuyết Nông dân là một trong 137 tác phẩm trong bộ Tấn trò đời đồ sộ của Balzac. Tác phẩm này được viết vào giai đoạn cuối đời của Balzac, đánh dấu sự phát triển lên tầm cao mới về nhãn quan chính trị của nhà văn trước hiện thực xã hội tư sản Pháp, đồng thời góp phần xác tín một loại hình chủ nghĩa hiện thực Balzac vững chắc trong lòng bạn đọc.
Trong khi đó, trên diễn đàn văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, Nguyễn Công Hoan đã được đông đảo bạn đọc biết đến là một nhà tiểu thuyết tả chân bậc thầy. Với tập truyện Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan là một trong những người khởi xướng, đồng thời cũng là người dựng cờ chiến thắng cho khuynh hướng văn học hiện thực trong khu vực văn học hợp pháp đương thời.
Ở tác phẩm Nguyễn Công Hoan, tính chất khảo sát phong tục có trong một bộ phận các tác phẩm của Balzac, cũng được thể hiện. Đó là những tác phẩm làm nổi bật sự bất công có tính chất giai cấp trong xã hội, sự xung đột giữa giàu và nghèo, sự đụng chạm giữa xấu và ác, sự giằng co lựa chọn giữa vinh và nhục trên mỗi nẻo đường đời. Đó là những Tấm lòng vàng, Cô giáo Minh, Lá ngọc cành vàng, Thằng ăn cắp, Bữa no đòn, Răng con chó của nhà tư bản…
Hai là về hoàn cảnh sống cũng như bức tranh hiện thực được phản ánh trong sáng tác của hai nhà văn, người viết nhận thấy ở đây có nhiều điểm tương đồng.
Trong sáng tác của Balzac, người đọc dễ hình dung sắc nét bức tranh xã hội Pháp những năm tiền cách mạng tư sản Pháp, năm 1789. Tiểu thuyết Nông dân (Balzac) là khúc bi ca cuối cùng cho bản trường hận ca Tấn trò đời của nhà văn. Tác phẩm đã vạch trần hiện thực xã hội Pháp với khối mâu thuẫn không thể điều hòa giữa giai cấp bóc lột (tư sản, địa chủ) và giai cấp bị bóc lột (nông dân), đồng thời chỉ ra bước đường cùng cho những sụp đổ, tan rã không tránh khỏi của xã hội thượng lưu Pháp giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Tương tự, sáng tác của Nguyễn Công Hoan là sự phản ánh chân thực của nhà văn về đời sống xã hội Việt Nam những năm trước cách mạng tháng Tám, 1945. Tiểu thuyết Bước đường cùng đánh dấu sự phát triển đỉnh cao về tư tưởng của Nguyễn Công Hoan và là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam những năm trước Cách mạng. Nhìn chung, đó là hiện thực về một xã hội đang bước vào cuộc biến động dữ dội với sự trở mình mạnh mẽ của giai cấp tư sản đang lên và sự tích lũy năng lượng chuẩn bị cho một cuộc đại cách mạng sau này của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Không hẹn mà cùng, cả hai nhà văn đã sớm dự cảm được những biến động cách mạng rung chuyển thời đại tại xứ sở mình.
Ba là về đề tài mà cả hai tác phẩm cùng hướng đến. Đó là đề tài về người nông dân cùng khổ. Nhân vật trung tâm ở cả hai tác phẩm đều có thành phần xuất thân từ giai cấp nông dân lao động. Họ đều đã trải qua những năm tháng cơ hàn, chịu đủ mọi thiệt thòi từ giai cấp thống trị đương thời – quý tộc địa chủ và giai cấp tư sản đang lên. Đó là người nông dân sáng suốt như Fuốc-sông trong Nông dân của Balzac, là anh Pha trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan. Thông qua câu chuyện về cuộc đời cũng như con đường số phận của các nhân vật trung tâm ấy, Balzac và Nguyễn Công Hoan đã phản ánh chân thực số phận người nông dân cùng khổ, thấp cổ bé họng, chịu nhiều áp bức, thiệt thòi trước sự bóc lột, đè nén của giai cấp thống trị (quan lại, tay sai, tư sản, địa chủ…), bị đẩy vào “bước đường cùng”, không lối thoát.
Từ những cơ sở trên, người viết bước đầu tìm hiểu Nông dân của Balzac và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan dưới góc nhìn đối sánh, nhằm tìm ra phần giao thoa thú vị giữa hai tác phẩm cũng nét đặc sắc riêng của từng bậc thầy chủ nghĩa hiện thực.



2.2. “Nông dân” (Balzac) và “Bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan) dưới góc nhìn đối sánh
2.2.1. Về hoàn cảnh sáng tác
Nông dân (Balzac) được xuất bản năm 1845, trước Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), năm 1938, gần một thế kỷ. Nhưng ứng với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng môi trường xã hội mà nhà văn đang sống thì môi trường xã hội tổng thể mà cả hai tác phẩm đề cập đến có nhiều nét cơ bản giống nhau. Đó là xã hội nông thôn bắt đầu có sự phân hóa giai cấp, tiền đề cho những khối mâu thuẫn giai cấp phức tạp sau này. Giai cấp tư sản đang lên, bộc lộ dần những mánh khóe gian ngoa đối lập với lợi ích chính đáng của đại bộ phận nông dân nghèo khổ lúc bấy giờ.
Balzac đã vô cùng bức xúc trước hiện trạng trên. Nguyễn Công Hoan cũng đã không ngoại lệ.
Giới thiệu tác phẩm của mình, Balzac viết: “Tôi nghiên cứu bước đi của thời đại mình và cho xuất bản cuốn sách này”. Khi ấy, tác giả viết lời đề từ cho tác phẩm là “Ai có đất người đó có chiến tranh” [2, tr. 3].
Còn Nguyễn Công Hoan, ông có 16 ngày để hoàn thành Bước đường cùng.
Khi dạy học ở Nam Định, Nguyễn Công Hoan đã viết nhiều truyện ngắn hiện thực xuất sắc thể hiện quan điểm tiến bộ, đứng về phía người nghèo khổ và đã được các nhà phê bình Mác xít khen ngợi.
Khi ấy chính quyền thực dân nghi ngờ ông là phần tử cộng sản nguy hiểm. Nguyễn Công Hoan đã nghĩ: “Ừ, ông cộng sản đấy” và lao vào viết Bước đường cùng trước là để “trang trải món nợ lòng đối với anh em cộng sản ở Nam Định” và sau là để giải tỏa một tâm trạng phẫn uất, một tinh thần chiến đấu bằng ngòi bút của tác giả với chủ nghĩa thực dân lúc bấy giờ.
Có thể nói, hai tác phẩm Nông dân (Balzac) và Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) ra đời trong hai thời điểm khác nhau, ở hai đất nước khác nhau nhưng lại có sự tương đồng ở bối cảnh không - thời gian tác phẩm ra đời, cũng như ở mảng hiện thực mà cả hai tác phẩm cùng phản ánh. Đó là hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến, đầy bất công cám dỗ. Ở đó, thế lực kim tiền lên ngôi, đạo lý sống giữa người với người bị đánh mất, người nông dân chật vật với miếng ăn, thuế khóa, dịch bệnh hoành hành cùng âm mưu cướp đất ngày càng tinh vi của giai cấp tư sản, địa chủ tham lam, gian xảo.



2.2.2. Về phương diện ý nghĩa của tác phẩm
Nông dân (Balzac) và Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) thể hiện cái nhìn thấu đáo của nhà văn về sự thật hiện thực cuộc sống nông thôn trong tổng thể chung của xã hội đương thời. Lịch sử xã hội được nhà văn tái hiện trong tác phẩm không khác gì với những gì đã diễn ra trong bối cảnh xã hội Pháp và Việt Nam lúc đó. Ở đó, đang hiện tồn khối mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn giai cấp: quý tộc địa chủ, tư sản, nông dân.
Nông dân (Balzac) bắt đầu bởi sự kiện bá tước Đờ Mông-cor-nê, nguyên là tướng của Na-pô-lê-ôn, mua được tòa lâu đài và ấp lớn ở vùng E-gơ. Sự việc này đã gây nên sự bất mãn, cừu địch trong bọn tư sản địa phương (vốn muốn mua ấp để chia nhau) và nông dân trong vùng. Sau đó, nhóm tư sản này, do nắm phần lớn quyền hành tại địa phương, đã câu kết cùng Xibile (quản lý của trại ấp) bày mưu xúi giục nông dân phá hoại trại ấp bằng mọi cách. Frăng-xoa Tông-xa, người đứng đầu một nhóm nông dân, đã nghe theo lời bọn tư sản. Chúng lên kế hoạch giết chết Mi-sô, người thân tín nhất của bá tước Đờ Mông-cor-nê, buộc bá tước phải từ bỏ trại ấp và ra đi. Sau sự việc đó, cuộc sống của người nông dân ở trại ấp chẳng những không được cải thiện mà còn trở nên thảm hại hơn bởi sự bóc lột, thao túng của bọn tư sản, thị trưởng, sen đầm.
Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) là bức tranh rộng lớn về đời sống nông thôn Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả trực tiếp phản ánh chế độ thối nát chốn hương thôn và đời sống cực khổ của nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Bao tai nạn chồng chất đè nặng lên vai người nông dân ở một xứ thuộc địa. Đó là nạn Tây đoan bắt rượu lậu, nạn quan lại tham nhũng, nạn sưu cao thuế nặng, nạn cường hào ác bá, nạn phu phen tạp dịch, nạn lụt lội đói kém, tình trạng dốt nát, ăn ở mất vệ sinh cùng bao vấn đề phát sinh khác trong giai đoạn giao thời. Nổi bật hơn hết chính là mâu thuẫn không để điều hòa giữa hai giai cấp: địa chủ và nông dân.
Cốt truyện Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) xoay quanh việc địa chủ Nghị Lại dùng mọi thủ đoạn cướp kỳ được tám sào ruộng của anh Pha. Cùng với anh Pha, mà đúng ra là trước anh Pha, nhiều nông dân khác như Trương Thi, Sam, bác Ích, thị Ánh đều đã bị Nghị Lại lần hồi cướp hết ruộng đất.
Dưới ngòi bút Nguyễn Công Hoan, hình ảnh Nghị Lại hiện lên thật xấu xí và đáng khinh. Dục vọng làm giàu bất chính bộc lộ ra hết ở ngoại hình của hắn. Với “nước da xanh mét, môi thâm xịt, thêm hai nếp nhíu soạc hai bên mép” [3, tr. 25], hắn như muốn hù dọa mọi người. Còn về tính cách, hắn đúng thật là một địa chủ phong kiến già đời, khôn lõi và cực kỳ phản động. Hắn luôn thèm khát nhiều ruộng đất và mong muốn làm giàu bằng cách bóc lột địa tô. Sự thật là hắn đã giàu lên trên mồ hôi nước mắt của dân lành lương thiện.
Hắn thật ma quái với người nông dân nhưng lại tỏ ra ngoan ngoãn và trung thành rất mực với bọn chủ thực dân. Hắn có vẻ thành thạo trong việc xun xoe vồ vập Tây đoan, mời rượu sâm banh và bàn việc đổ tội cho người nông dân nghèo.
Bản chất chính trị phản động của hắn còn bộc lộ ở việc hắn vui vẻ dự một phần vào bộ máy chính quyền do bọn thực dân nặn ra. Hắn là Nghị viên của Viện dân biểu, từng được chính phủ thực dân cho hưởng nhiều phẩm tước, quyền lợi. Chính hắn đã vạch ra kế hoạch kết hợp với Tây đoan khám xét bắt rượu lậu, bắt người, lại bày trò dắt mối, đút lót quan xử án, dựa vào thế lực quan trên chi phối bọn hào lý địa phương. Tóm lại, hắn không từ một thủ đoạn nào để bóc lột nông dân.
Muốn cướp tám sào ruộng nhà anh Pha, Nghị Lại đã đe dọa: “Mày không nên ngu dại, nghe hoặc bắt chước những đứa vô luân thường đạo lý, những đứa ngông cuồng, những đứa cộng sản, làm sách viết báo để chúng nói xấu quan này, nói xấu quan kia. Người ta xấu, người ta cũng là ông quan cai trị mình” [3, tr. 117].
Gần như như vậy, trong Nông dân (Balzac), thay cho bọn Tây đoan và Nghị Lại là hình ảnh của hệ thống nhân vật như bá tước Đờ Mông-cor-nê, Gô-bec-tanh (nguyên là quản lý của trại ấp thời chủ trước, về sau trở thành thị trưởng kiêm tổng đại lý bán gỗ), Rigu (nguyên là thị trưởng bị cắt chức, sau trở thành tay cho vay nặng lãi có uy quyền ở địa phương, keo kiệt, thích đồ ăn ngon và gái đẹp), Xudry (đội trưởng sen đầm, lạnh lùng, tàn ác), Frăng-xoa Tông-xa (một tay sừng sỏ, quen nghề săn trộm, đốn rừng trái phép),…
Ứng với hoàn cảnh cụ thể của nước Pháp lúc bấy giờ thì Nông dân của Balzac được hiểu như một tấm gương soi, lần hồi soi tỏ sự xung đột ngấm ngầm và gay gắt giữa ba thế lực: quý tộc, tư sản và nông dân. Ở đó có tướng Đờ Mông-cor-nê, là bá tước đại diện cho quý tộc thời Đế chế Na-pô-lê-ôn, cùng vợ cũng thuộc dòng dõi quý tộc lâu đời và bạn là Emile Blondet. Họ đã không ngừng tích lũy tư bản thông qua việc mua thêm đất và lâu đài ở nông thôn. Tất cả bọn họ vừa gầm ghè nhau lại cấu kết với nhau, sử dụng cả những thủ đoạn hèn hạ và tàn nhẫn, để khai thác, bóc lột và chiếm đoạt dần ruộng đất ở nông thôn. Đến cuối tác phẩm, trước sự bất lực của chính quyền địa phương, bá tước Đờ Mông-cor-nê đành phải bán ấp lớn ở vùng E-gơ (xứ Buốc-gô-nhơ) và đất đai. Phần lớn đất ấy về sau đã thuộc về bộ ba bọn tư sản đểu cáng (Gô-bec-tanh, Rigu, Xudry), một số ít đất còn lại bị chia nhỏ ra và thuộc về nông dân.
Không bao lâu sau, xung quanh ngôi nhà cao lớn như tòa lâu đài của tên tư sản Gô-bec-tanh, những ngôi nhà tranh thảm hại, tồi tàn của nông dân đồng loạt mọc lên. Thế ra, thời của bá tước Đờ Mông-cor-nê hay thời của tư sản Gô-bec-tanh thì số phận của người nông dân giai đoạn tiền Cách mạng tư sản Pháp 1789 vẫn không có gì thay đổi. Đó vẫn là sự nghèo khổ, đói khát, quẩn quanh.
Có thể nói, trên trang viết của mình, qua những chi tiết chân thực, Balzac đã làm rõ được sự mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân nghèo lương thiện với một bộ phận quý tộc, tư sản giàu có và bất lương. Một bộ phận người nông dân đã bị đối xử như lớp người dưới đáy. Họ luôn sống trong tình trạng nghèo khổ, tối tăm thậm chí còn bị đày đọa, chèn ép một cách hung hãn. Vì một cành củi bị mất trộm trong rừng, gã gác rừng cho chủ đất có thể dồn đuổi một bà già như săn một con thú. Hơn nữa, thông qua kết cấu của truyện, kịch tính của Nông dân (Balzac) và Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) cũng được thể hiện rõ. Đó là sự xung đột ngấm ngầm mà gay gắt, khối mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa ba thế lực địa chủ, nông dân và giai cấp tư sản đang lên. Ở đó người nông dân luôn phải nhận hết mọi phần thiệt thòi.
Rõ ràng, khi chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa trong lòng xã hội tư bản, cả hai tác phẩm Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan và Nông dân của Balzac đều có được những ý nghĩa thực tiễn tiến bộ.
Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan chỉ ra một hướng đi tất yếu của người nông dân là đấu tranh, làm cách mạng. Người nông dân gần như bị bọn cường hào ác bá tìm mọi cách để dồn đuổi đến tận chân tường. Họ khổ cực đến mức không thể nhẫn nhịn, chịu nhục như trước được nữa mà đã manh nha hình thành ý thức phản kháng, đấu tranh đòi quyền sống cơ bản.
Tính cách nhân vật anh Pha, trong Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), là kết quả của quá trình phát triển về sự giác ngộ quyền lợi giai cấp và ý thức đấu tranh của người nông dân. Đến cuối tác phẩm, anh Pha từ chỗ khúm núm trước Nghị Lại giờ đã mạnh mẽ khi dùng chiếc đòn gánh phang ngay vào đầu hắn với tiếng hét: “Đồ ăn cướp!”. Đến khi bị trói khiêng đi, anh Pha tỏ ra thật căm hờn với suy nghĩ sẽ bỏ làng ra đi, sẽ ra mỏ với Hòa để thực hiện một dự định gì đó: “Trong đôi môi mím chặt thì biết rằng không phải là đau mà anh không nói, mà chính là anh muốn nuôi trong lòng một mối hận nghìn năm”, “Tôi không ở làng nữa. Tôi không còn gì ở làng nữa. Ngày này sang năm, các anh sẽ biết chuyện tôi” [3, tr. 239].
Như vậy, có thể nói Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) là cái nhìn dự báo của tác giả về hướng chuyển biến tích cực trong nét tính cách của người nông dân những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đây là hình tượng nhân vật duy nhất có ý thức đấu tranh trước kẻ thù giai cấp để đòi quyền sống. Ở nhân vật anh Pha có cái gì đó mới mẻ, tiến bộ tuy còn mang tính bộc phát, chưa được chuẩn bị trước. Điều này có thể được giải thích bằng ảnh hưởng của phong trào cách mạng thời kỳ Mặt trận dân chủ đối với tác giả Nguyễn Công Hoan.
Cùng với đó, đồng hành cùng Nông dân (Balzac), người đọc cũng dần hiểu được sự dự báo của tác giả về một kết thúc có tính chất tất yếu. Đó là tấn thảm kịch về quyền lợi sở hữu của giai cấp quý tộc, sự thắng thế không gì cưỡng nổi của giai cấp nông dân cũng như sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi của xã hội thượng lưu lúc bấy giờ. Người nông dân trong tác phẩm của Balzac có nhãn quan tiến bộ, có ý thức về giai cấp bóc lột và khả năng dự báo về tương lai. Lão nông dân sáng suốt Fuốc-sông đã nói: “Tôi đã thấy thời cũ và thời mới, kính thưa quý ông rất thông thái, cái biển hàng đã có đổi, nhưng cũng là một thứ rượu mà thôi (…). Các vị muốn làm ông chủ, chúng tôi chẳng có gì, các vị chẳng thể nào được chúng tôi quý mến (…). Sự nguyền rủa của người nghèo, thưa đức ông, cái đó sẽ lớn lên và nó sẽ lớn lên hơn tất cả những cây sồi cao to của quý vị và cây sồi này sẽ trở thành giá treo cổ… Chả một ai tại đây nói lên sự thật với các vị, ấy chính là sự thật đó!” [2, tr. 58]. Balzac ca ngợi vẻ đẹp tinh thần của người nông dân già Ni-zo-wrông, người đã từng tham gia cách mạng trước đây, từng là chủ tịch câu lạc bộ những người Jacobanh, thẩm phán tòa án cách mạng địa phương. Balzac tả cái nghèo của Ni-zo-wrông như là một phẩm hạnh chứ không phải “bước đường cùng”. Với cách mạng, Ni-zo-wrông là một người “cao quý, rắn như thép, tinh khiết như vàng”, “Ni-zo-wrông cho đứa con trai duy nhất của mình ra mặt trận… hiến dâng cả những tài sản riêng, xóa bỏ chút còn lại của chủ nghĩa cá nhân” [2, tr. 93].
Mặt khác, ở cả hai tác phẩm, Balzac và Nguyễn Công Hoan đều chỉ ra được một sự phân hóa khác ngay trong lòng giai cấp nông dân giai đoạn tiền cách mạng. Không phải hễ nông dân là hiền lành, lương thiện và khốn khổ. Như Nicola, con trai của chủ quán rượu Frăng-xoa lại là một tên nông dân hết sức lưu manh. Khi mùa gặt đến, hắn đấm bàn thét lên: “Mùa gặt đến rồi đây, đã vậy chưa nhóm lửa hút thuốc vào đống rơm của bọn chúng thì tao chưa đi khỏi nơi đây” [2, tr. 187]. Về điểm này, người đọc dễ hình dung đến nhân vật Trương Thi trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan.



2.2.3. Về phương diện hình thức nghệ thuật
Viết về đề tài người nông dân, cả Balzac và Nguyễn Công Hoan đều đã đạt được những thành công nhất định về phương diện ngôn ngữ diễn đạt. Đọc Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), người đọc dễ nhận ra chuỗi lời ăn tiếng nói vô cùng phong phú của người nông dân Việt Nam xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm. Còn Balzac, khi viết quyển tiểu thuyết Nông dân, ông cũng đã dùng rất nhiều từ ngữ của nông dân, đặc biệt là tiếng lóng của nông dân địa phương, để tạo nên cảm giác về sự thủ cựu, hoang dại của một bộ phận nông dân đương thời. Với hệ thống ngôn ngữ người nông dân được sử dụng phong phú, đa dạng trong Nông dân, Balzac đã “khiến cho kẻ đang câm lặng và đang lặng lẽ chiến đấu cất nên lời” [4, tr. 348].
Cùng với đó, cả hai nhà văn đều đã xây dựng câu chuyện theo trình tự thời gian hợp lý. Ở đó, cả Balzac và Nguyễn Công Hoan đều rất thành công khi xây dựng được những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Đó là những nét tính cách điển hình, diễn biến trong cả một quá trình, hoàn cảnh dựa trên những sự kiện chính của lịch sử xã hội. Đó là sự giải quyết mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh trên cơ sở tính đến một khối lượng lớn những chi tiết cụ thể của nông thôn Pháp và Việt Nam đương thời.
Nhìn chung thì Nông dân (Balzac) và Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) đều là hai quyển tiểu thuyết hiện thực tiêu biểu có những nét tương đồng về phương diện nội dung ý nghĩa và hình thức nghệ thuật. Cả hai tác phẩm đều thể hiện một cái nhìn sâu sắc của nhà văn về cuộc sống nông thôn trong bức tranh tổng thể là hiện thực xã hội Pháp trong thế kỷ XIX và hiện thực xã hội Việt Nam vào thế kỷ XX.
Tuy mức độ về sự phong phú và phức tạp ở mỗi tác phẩm có khác nhau nhưng cả hai tác phẩm đều có chung một điểm đến. Đó là làm nổi bật cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn, chỉ ra nguyên nhân xã hội khách quan đã tạo nên diễn biến và sự hình thành tính cách nhân vật hiện thực. Nguyên nhân xã hội được thể hiện qua các tình huống, hoàn cảnh cụ thể, chân thực. Từ đó, nhà văn lý giải được những dục vọng và đam mê của các nhân vật. Đó là sự ham muốn, đam mê tranh chấp của cải, giành giật ruộng đất và bóc lột nông dân ở nông thôn của giai cấp tư sản đang lên và một bộ phận của giai cấp địa chủ phong kiến thủ cựu. Vì thế mà nội dung truyện cũng có sự bứt phá khác hẳn so với những truyện đậm tính lãng mạn, thi vị hóa như các tác phẩm của George Sand ở Pháp và truyện ngắn của nhóm Tự lực văn đoàn ở Việt Nam. Đó chính là thành công của tác phẩm cũng như sự đóng góp đáng ghi nhận của hai nhà văn lớn đối với nền văn học dân tộc trong một giai đoạn văn học có tính lịch sử cụ thể.



3. Kết luận
Trong hoàn cảnh Việt Nam là thuộc địa của Pháp, Balzac lại là nhà văn hiện thực tiêu biểu của văn học Pháp đã xuất hiện và thành công trước Nguyễn Công Hoan gần một thế kỷ, rất có thể Nguyễn Công Hoan đã đọc và chịu ảnh hưởng từ những tác phẩm hiện thực của Balzac. Nếu có thì đây cũng là một lẽ bình thường, một biểu hiện cụ thể về sự ảnh hưởng của văn học Pháp đến một bộ phận nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Nên hiểu sự học tập và chịu ảnh hưởng này như thế nào để người nghiên cứu không mơ hồ giữa sự gặp gỡ ngẫu nhiên giữa các nhà văn lớn khi cùng quan tâm đến các vấn đề muôn thuở của nhân loại với những tác phẩm có tính chất phóng tác đơn thuần. Như hiện tượng tác phẩm Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh là kết quả được phóng tác từ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victor Hugo.
Văn học so sánh đã, đang và sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự thật của những chân giá trị đó.
Trong quá trình hội nhập, trong sự so sánh đối chiếu các thành tựu tiêu biểu của các nền văn học khác nhau,
văn học so sánh giúp mỗi dân tộc hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa của dân tộc mình, hiểu được những gì mà dân tộc mình cần học hỏi và phát huy. Đây cũng là tư tưởng chủ đạo của tiến trình hiện đại hóa xã hội Việt Nam, như cách nói của Huỳnh Như Phúc trong Tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: “Nhìn từ góc độ văn hóa, tiến trình hiện đại hóa xã hội Việt Nam chính là quá trình Việt Nam nỗ lực vượt thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa để tiếp cận với văn minh phương Tây” [5, tr. 606].
Chính nghĩa đi từ nước này sang nước khác không cần giấy thông hành, nghệ thuật chân chính thì không biên giới. Với thủ pháp so sánh khi tìm đọc Nông dân (Balzac) và Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), bài viết đã tìm được một minh chứng cụ thể cho chân lý trên, góp phần xác lập điểm gặp gỡ thú vị giữa hai nhà văn lớn cũng như chỉ ra được những đặc sắc làm nên giá trị riêng của từng tác phẩm.




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Đức Dục (2002), Hônôrê Đơ Banzăc – một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Hải Phòng, Hải phòng
2. Honere de Balzac (1981), Nông dân, (dịch giả Trọng Đức), Nxb Văn học, Hà Nội
3. Nguyễn Công Hoan (2014), Bước đường cùng, Nxb Văn học, Hà Nội
4. Nhiều tác giả (2001), Văn học phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội
5. Đoàn Lê Giang (chủ biên), (2011), Văn học cận đại Đông Á –từ góc nhìn so sánh, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh




THE FARMERS BY HONORE DE BALZAC AND THE DEAD END BY NGUYEN CONG HOAN: A COMPARATIVE ANALYSIS ABSTRACT
While Honore de Balzac was a great realist writer of France in the nineteenth century, Nguyen Cong Hoan was also one of the typical writers of the trend of Vietnamese realist literature in the years before the August revolution. The huge and voluminous literary career of the two masters of realism writers has always received the interest and admiration of many generations of readers. The following article is an author's research in analyzing the two works of “The Farmers” by Balzac and “The Dead End” by Nguyen Cong Hoan under a comparative perspective. Thereby establishing an interesting meeting point between two great writers as well as pointing out the characteristics that create the unique value of each work.
Keywords: Balzac, Nguyen Cong Hoan, The Farmers, The Dead End, Realism, Comparative
(Received: 14/9/2021, Revised: 27/11/2021, Accepted for publication: 17/12/2021)




Thứ Ba, 16 tháng 5, 2023

[Review] Bước đường cùng – Cuốn sách hiện thực hay nhất


[Review] Bước đường cùng –
Cuốn sách hiện thực hay nhất

An Hạ


Là người yêu sách văn học Việt Nam, chắc chắn bạn đã không khỏi chứng kiến biết bao nhiêu là tác phẩm truyện ngắn vô cùng đặc sắc. Những cây bút dũng cảm dám lên án tố cáo chế độ thực dân nửa phong kiến, bênh vực, tìm lại công bằng cho người nghèo. “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan cũng là một cái tên trong số đó. Ông đã đưa người đọc quay về quá khứ xưa cũ, vẽ nên những bức tranh của những kẻ tàn ác bóc lột. Nghe thôi thì cũng thấy xót xa đúng không nào, sau đây hãy cùng chúng tôi tìm hiểu chi tiết về tác phẩm này nhé.


NỘI DUNG
  1. Tác giả Nguyễn Công Hoan - chủ nhân tác phẩm Bước đường cùng
  2. Nội dung chính của tác phẩm Bước đường cùng
  3. Những hình ảnh đối lập trong Bước đường cùng
  4. Những lời nhận xét về tác phẩm Bước đường cùng


1. Tác giả Nguyễn Công Hoan - chủ nhân tác phẩm Bước đường cùng

Nguyễn Công Hoan vốn quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh nay thuộc tỉnh Hưng Yên Ông được sinh ra trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học nhưng lại bị thất thế. Chính vì thế mà từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã nghe và thuộc được rất nhiều câu đối câu thơ và những giai thoại có tính chất châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông khoảng thời gian sau này.
Năm 1926, ông đã được tốt nghiệp cao đẳng sư phạm và làm nghề dạy học ở nhiều tỉnh thành khác nhau như: Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,… cho đến thời điểm Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Năm 1920, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan của ông được ra đời là một đóng góp to lớn cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Trên đà phát triển, ông tiếp tục cho ra mắt tác phẩm “Bước đường cùng” chiếm được nhiều trái tim của độc giả. Năm 1977, ông mất đi tại Hà Nội để lại hơn 500 tác phẩm có giá trị cùng với sự nuối tiếc nơi người đọc.



2. Nội dung chính của tác phẩm Bước đường cùng

Trong tác phẩm “Bước đường cùng” Nguyễn Công Hoan đã xây dựng lên những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Phác họa nên một bức tranh chân thực với ánh nhìn đa chiều về sự bóc lột tàn nhẫn của địa chủ, sự bất công, áp bức của quan lại tham nhũng chốn hương thôn ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám… Tất cả đã đẩy người nông dân vào đường cùng, buộc họ phải vùng lên phản kháng.

Dự đoán được kết quả
Cho ra đời tác phẩm “Bước đường cùng”, Nguyễn Công Hoan cũng đã đoán trước được hậu quả mà nó mang lại. Thế nào sách cũng bị bọn nó cấm không cho dân ta đọc, và rất có thể chính ông còn bị truy tố nữa. Thế nhưng ông cũng chả sợ mà nghĩ rằng, kết tội ông nặng lắm cũng chỉ từ một đến năm năm là cùng. Rồi ông cũng lại về quê và viết tiếp, ông nào biết sợ. Phải nói đây là do ông bướng hay dòng máu Lạc Hồng khiến ông không kìm nổi được lòng mà phải lên án cho tất cả mọi người cùng biết, vạch trần bộ mặt xấu xa của chúng ra.
Và đúng như những gì ông dự đoán, sau khi sách ra mắt, phía Mặt trận Dân chủ ngợi ca ông bao nhiêu thì chính quyền thực dân lại tá hỏa bấy nhiêu. Nhưng ông cũng không để thua bọn nó, nắm trước được tình hình Nguyễn Công Hoan và nhà xuất bản đã tương kế tựu kế. Sách phải được bán đầu tiên ở Bắc, đến khi cấm ở Bắc thì cho vào Trung, Trung cũng cấm thì chuyển vào Nam.
Cuối cùng, ông cũng bán đi sạch hết năm nghìn cuốn “Bước đường cùng” làm cho bọn thực dân vô cùng nóng giận.

Phác họa đôi nét về hoàn cảnh anh Pha
Tác phẩm “Bước đường cùng” kể về một anh nông dân nghèo có tên Pha. Cuộc đời anh không có gì đau đớn hơn khi bị đẩy vào tuyệt lộ vì những thói hư tật xấu của bọn quan lại và đế quốc. Vợ chồng anh thất học nên không hiểu biết nhiều, bị địa chủ giở trò cướp hết đất đai, nhà cửa phải quay về với đôi bàn tay trắng. Tên địa chủ Nghị Lại đại gian ác đã gây ra thảm cảnh đó. Hắn bày ra hàng trăm mưu kế để vơ vét của cải, tiền bạc của dân lành. Gã dụ dân vay tiền lúc họ túng thiếu, nhưng nhất quyết không cho trả nợ sớm phải để lãi mẹ đẻ lãi con đến khi người dân không trả nổi thì thôi.
Quan lại thì cấu kết, móc nối với bọn thực dân để hành hạ dân đen thấp cổ bé họng. Từ quan to trên cao cho tới cai tù phía dưới, tên nào cũng giở trò để hiếp đáp những người dân nghèo bất hạnh. Lúc đầu, những người dân sống riêng lẻ cũng vì chưa hiểu rõ mà chỉ biết ghen ghét, kèn cựa lẫn nhau. Như vợ chồng Pha với Trương Thi đã cãi nhau vì chúng nó lấy tên bố của vợ chồng anh mà đặt cho con nó. Về sau, khi đã bị bọn địa chủ phong kiến, thú đội lốt người bóc lột đến cạn kiệt họ mới biết hợp sức để chống lại đế quốc.

Cuộc đấu tranh thất bại
Nhưng dù có hợp sức đến đâu có đông đủ cách mấy thì tiếng nói của người dân thấp cổ bé họng cũng chỉ là hạt muối bỏ vào bể nước bè phái của bọn địa chủ phong kiến. Khi nào đế quốc còn tồn tại, khi ấy cuộc đấu tranh của nông dân còn bị đàn áp, người dân vẫn phải chịu khổ đau, sống trong một cuộc sống không công bằng và thiếu đi công lý. Cuối truyện, nhân vật Pha đã vùng dậy phang vào đầu Nghị Lại với tất cả sự thù hận và uất ức. Pha bị trói lập tức, nghiến răng, nhắm chặt mắt mặc cho dòng lệ nóng tuôn trào. Đây cũng là cái kết dành cho những ai phản lại chúng nó, hoàn toàn đau đớn và uất nghẹn.



3. Những hình ảnh đối lập trong Bước đường cùng

Những mảng màu đối lập trong một bức tranh hiện thực là điểm thành công nhất của tác giả Nguyễn Công Hoan. Một mặt là đám đế quốc quan tham. Mang tiếng là lo lắng hết mực cho dân nhưng chúng chỉ biết tổ chức những cuộc ăn chơi thâu đêm, cờ bạc rượu chè, tổ chức những buổi lễ giỗ hay tiệc tùng vô cớ.
Chúng tống giam người dân vô tội rồi đánh đập vì không mang tiền đến lễ đúng hẹn. Mỗi lần thuế đến, người dân bắt đầu nơm nớp lo sợ. Bọn lính cơ về làng trói bắt, cùm kẹp người dân nếu ai không đủ tiền nộp thuế cho chúng. Những con người thấp bé trong xã hội chỉ biết câm lặng chẳng dám buông một lời than thở.



4. Những lời nhận xét về tác phẩm Bước đường cùng

Nhà văn Nguyễn Công Hoan chính là tay viết tài ba trong việc đẩy cảm xúc của người đọc lên đến đỉnh điểm. Đọc cuốn “Bước đường cùng”, cảm xúc mà người đọc đón nhận là không khỏi căm tức, sục sôi và thương cảm cho những số phận người dân nghèo khổ bị bọn quan tham đẩy vào bế tắc. Đoạn cuối tác giả còn nhấn sâu vào cảm xúc của Pha, cái thời đại mà họ không được ăn ngon, không được mặc đẹp, không được thấy ánh sáng của công bằng và công lý.
Tất cả chỉ là ánh mắt căm thù ngước nhìn và chịu đựng.

Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan là một tác phẩm kinh điển được đánh giá là tác phẩm truyện ngắn xuất sắc nhất Việt Nam. Ông đánh được vào tâm lý người đọc, ông biết được thời cuộc mà phác họa nó một cách chính xác nhất. Đông thời, không chỉ mình cây bút này yêu nước, mà ông còn lan tỏa nguồn năng lượng ấy cho chính độc giả của mình.

An Hạ







Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2023

Bước đường cùng - Chủ nghĩa hiện thực phê phán đặc sắc


Bước đường cùng -
Chủ nghĩa hiện thực phê phán đặc sắc

Thảo Nguyên


Nguyễn Công Hoan, nhà văn của chủ nghĩa hiện thực phê phán, tiếp cận đề tài này theo cách rất khác, đó là khía cạnh châm biếm, đả kích sâu sắc. “Bước đường cùng” là một tác phẩm mà khi nó ra đời, đã tạo nên sức ảnh hưởng vô cùng lớn mà chính thực dân Pháp coi là một mối hại lớn. Tác phẩm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phản ánh hiện thực, phê phán đả kích mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến

Hoàn cảnh điển hình
Viết đối với Nguyễn Công Hoan trước hết là sự trang trải với cuộc đời và số phận của những con người mà trái tim nhạy cảm của ông, tấm lòng nhân ái, biết đau đời của ông, tình yêu thương đồng loại sâu xa nơi ông, đã khiến ông phải vì nó mà đa mang. Viết với ông, như là một phương cách, để ông gửi gắm những tình cảm yêu thương hay căm giận, bênh vực, bảo vệ hay phê phán, đả phá, chở che, san sẻ hay bóc trần, tố cáo. Nhà văn ám ảnh rất nhiều bởi hiện thực cuộc sống nơi ông trưởng thành. Đó là một xã hội Việt Nam tù túng chật hẹp. Người với người chán ghét lẫn nhau. Nông dân oằn mình chống trả những đòn đánh của chế độ thực dân - phong kiến, thoi thóp sống như những con cá mắc lưới. Quan lại địa chỉ ra sức bóc lột nhân dân. Trong “Bước đường cùng”, Nguyễn Công Hoan đã phán ánh rất rõ tính chất tham lam vô độ và xảo quyệt của tầng lớp địa chủ, điển hình ở đây là Nghị Lại. Tên địa chủ cực kì gian ác, hưởng hạnh phúc giàu sang trên chính máu của đồng loại. Cái hiện thực ấy, nó lột trần bộ mặt tởm hợm thối nát của chính quyền thực dân nửa phong kiến và bọn địa chủ ăn trên ngồi trốc.

Khác với những nhà văn hiện thực cùng thời như Nam Cao, hay Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan đem đến những thước phim về hiện thực hoàn toàn khác biệt khi xây dựng bi kịch của người dân bắt nguồn một phần từ chính sự giốt nát, kém hiểu biết của họ. Trong “Bước đường cùng”, Nguyễn Công Hoan cũng đã để cho Pha và bác Tân trai nhận ra một sự thực xót xa rằng:
“Rút cục chỉ dân chết, chết vì nạn nhà giàu, chết vì nạn quan. Dân quê còn chết về nhiều cái nạn khác nữa, nạn ăn ở bẩn thỉu, dại dột, sưu cao thuế nặng, nạn lụt, nạn đại hạn, nạn hủ lậu, rút cục nạn gì cũng do cái dốt nát nó đẻ ra cả.”
Biết là cái dốt nát nó đẻ ra những ngọn những nguồn, nhưng đến khi vợ con chết cả và gặp lại anh trai Hòa thì Pha mới khát khao cái sự học, mới khát khao tìm cách để biết, để khôn, để không ai có thể bắt nạt nổi, như Dự, như Hòa. Chính bởi sự kém hiểu biết, Pha và Thi mới bị lợi dụng. Nghị Lại xúi Trương Thi kiện Pha, rồi lại xúi Pha kiện Trương Thi, hứa cho cả hai người vay tiền lo kiện và nói lót với quan cho cả hai! Pha lên huyện hầu kiện, bị lính lệ hạch sách, đánh đấm, cướp giật, lại bị quan ra lệnh tống giam vì không mang tiền “lễ”. Đến khi vợ đem tiền đến, anh mới được tha về. Nghị Lại đến dụ dỗ, Pha lại phải vay thêm lão hai chục để “tạ quan”! Bá Tân, người anh vợ có chữ nghĩa của Pha, bàn với Pha tìm cách trả kỳ được món nợ của Nghị Lại. Nhưng lão đã có chủ ý, nhất định chưa nhận. Vì vậy sự dốt nhát trong quần chúng là kẻ thù cần tiêu diệt đầu tiên. Đây chính là hoàn cảnh điển hình trong những tác phẩm thời kì này.

Nhân vật điển hình
Nhân vật chính trong tác phẩm này là Pha, điển hình cho những người nông dân lúc bấy giờ. Là đại diện cho tầng lớp bị bóc lột, nằm ở tận cùng của xã hội, chịu sự đàn áp mạnh mẽ của những tầng lớp trên. Anh Pha là điển hình cho hiện thực đất nước một cổ hai tròng, đã mất đi sự tự do độc lập, trở thành kiếp trâu ngựa cho chủ nghĩa thực dân:
“Pha giơ hai cánh tay bị trói lên trời, nắm chặt bàn tay run run vào ngực để tỏ nỗi căm hờn, nghiến răng, rồi nhắm nghiền mắt lại, kệ cho hai dòng lệ nó tuôn ra, và kệ cho ba anh em theo mình, không biết đến đâu mới trở lại...”
Cuộc đời của anh là cuộc đời của hàng ngàn con người khác trong xã hôi thời bấy giờ, hoặc không nhà không cửa, hoặc bị tước đoạt đi cuộc sống của chính mình.

Pha đại diện cho người nông dân, về cả hoàn cảnh, ý chí sức mạnh của họ song cũng cả phần u mê của những người dân bị chính sách của Pháp tác động. Người nông dân sống riêng lẻ lại hay vì những quyền lợi nhỏ nhặt mà thù hằn nhau, như vợ chồng Pha và nhà Trương Thi ghét nhau, chỉ vì chỗ hàng xóm với nhau mà nó đi lấy tên bố mình đặt cho con nó thì tội gì mình không báo thù.

Cái hận thù nhỏ bé vô tình giết chết cuộc cách mạng lớn, ngáng đường dành độc lập tự do của dân tộc.

Con đường hiếm hoi được khai sáng cho những người nông dân
Tất cả các tác phẩm hiện thực phê phán những năm 1945 đều đi vào bế tắc, các nhân vật chết trong tức tưởi, hoặc sống kiếp đời thừa. “Bước đường cùng” cũng không ngoại lệ khi kết thúc, Pha bị bắt cũng với nỗi uất nghẹn dâng trào. Song khác với các tác phẩm khác, tác phẩm có mầm mống của sự đấu tranh. Đó là hình ảnh Pha đứng dậy chống lại Nghị Lại, báo hiệu cho cuộc nổi dậy ắt hẳn sẽ đến của những người nông dân đã không còn chịu đựng.

Tác phẩm kêu gọi những người nông dân đoàn kết và học hỏi, biết cùng nhau đứng lên đấu tranh giải phóng cho chính bản thân mình. Đó là lý do vì sao, khi “Bước đường cùng” ra đời, thực dân Pháp đã e sợ. Quan điểm của nhà văn chưa rõ ràng, mạnh mẽ nhưng đã manh nha phát triển. Họp nhau mà gặt, họp nhau mà đánh, họp nhau mà lý luận… Nguyễn Công Hoan đã mở cho người nông dân những cánh cửa về việc ý thức được cái dốt để mà ra sức mở mang tri thức, về việc ý thức được sức mạnh của đoàn kết để mà biết hợp tác với nhau chống lại giai cấp cai trị bóc lột.

“Bước đường cùng” xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện thực phê phán thời kì trước 1945. Cái sâu cay, cái đau đớn được lột tả xuất sắc, đem lại những thước phim chân thực nhất.

Thảo Nguyên




Thứ Tư, 3 tháng 5, 2023

Bước Đường Cùng – Con giun xéo mãi cũng quằn!


Bước Đường Cùng – Con giun xéo mãi cũng quằn!

Duyên Bùi


Nguyễn Công Hoan đã xây dựng được những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình, vẽ nên một bức tranh chân thực đa chiều về những sự bóc lột của địa chủ tàn nhẫn, những nỗi áp bức của quan lại tham nhũng, những cái bất công của chế độ thối nát chốn hương thôn ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám… đã đẩy người nông dân vào tuyệt lộ, buộc họ phải vùng lên phản kháng. “Bước đường cùng” ra đời năm 1938, đã gây tiếng vang lớn trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ và khiến cho chính quyền thực dân một phen nháo nhào.


Nói về truyện dài “Bước đường cùng” Nguyễn Công Hoan cho hay:
“Cuốn ấy tôi viết ngày, viết đêm; viết cho chóng xong để còn đi chơi nhiều nơi, trước khi phải ra “an trí” tại Trà Cổ. Vừa nghĩ, vừa viết, vừa sửa; tôi đã hoàn thành cuốn truyện trong 16 hôm, từ 1 đến 16/7/1938.” – Trích hồi ký “Đời viết văn của tôi”, 1971.
Nếu không đọc hồi ký của nhà văn, sẽ chẳng ai biết được, để có một thiên tiểu thuyết hiện thực phê phán “Bước đường cùng” – tác phẩm được ví như phát súng bắn vào đầu bọn gian ác, bọn tham ô tham nhũng, vạch trần lũ sâu dân mọt nước… Tác giả đã liên tục ngồi trước cái bàn cao quá tầm tay liền trong nửa tháng để viết, nên phải dùng nhiều gân sức, ông đã bị sái bả vai bên phải đến ba năm. Những năm về già, vì tuổi cao, sức yếu, đến mùa rét, hoặc gặp thời tiết ẩm thấp, bệnh ấy lại trở thành tật.

“Ông mà về, thì ông lại viết, ông cóc sợ”.
Viết “Bước đường cùng”, Nguyễn Công Hoan đã đoán trước hậu quả, là thế nào sách cũng bị cấm, và rất có thể tác giả còn bị truy tố nữa. Thế mà ông cũng chả sợ, lại nghĩ, có bị kết nặng lắm cũng chỉ từ một đến năm năm là cùng.
“Rồi cũng về. Ông mà về, thì ông lại viết, ông cóc sợ.” – Nguyễn Công Hoan.
Nhà giáo, nhà văn gì đâu mà bướng, bướng đến thấy thương.
Đúng như điều nhà văn tiên lượng, sau khi sách ra mắt, bên Mặt trận Dân chủ ngợi ca bao nhiêu thì chính quyền thực dân tá hỏa bấy nhiêu. Nhưng vì đoán trước được tình huống và nắm bắt được quy luật cấm sách theo từng xứ, nên Nguyễn Công Hoan và nhà xuất bản đã tương kế tựu kế. Sách bán đầu tiên ở Bắc, cấm ở Bắc thì gửi vào Trung, khi Trung cấm thì chuyển vào Nam. Rút cục, năm nghìn cuốn “Bước đường cùng” tiêu thụ hết nhẵn.

Con giun xéo mãi cũng quằn!
“Bước đường cùng” viết về anh nông dân tên Pha rơi vào cảnh tối tăm phá sản vì nạn địa chủ ngoặc với quan lại và đế quốc. Hoàn cảnh điển hình trong “Bước đường cùng” đã phản ánh được những mâu thuẫn cơ bản của xã hội bấy giờ.
Vợ chồng Pha thất học nên u mê, bị địa chủ dùng thủ đoạn để cướp nhà, cướp ruộng. Phường địa chủ đại gian đại ác, điển hình là Nghị Lại, đằng này ngọt xớt dụ dỗ cho người nông dân vay, đằng khác lại không chịu nhận tiền trả nợ sớm mà để cho nó đẻ lãi mẹ lãi con ra rồi mới đi đòi. Chúng lại thêm mánh lới đứng phía sau mành thúc giục dân đen đi kiện, đẩy dân tới trước mặt quan để bọn tham quan kiếm chác. Địa chủ nào cũng mượn thế quan, thế Tây để làm càn, để bóc lột nông dân. Mà đám quan lại thì từ trên xuống dưới, từ quan huyện cho đến lính canh cổng hay tên cai tù, chức nào cũng giở trò sư tử ngoạm mà ra sức trấn lột tiền tài, lại còn hạch sách, đánh đấm người nông dân vô tội vạ.
Ban đầu, người nông dân sống riêng lẻ lại hay vì những quyền lợi nhỏ nhặt mà thù hằn nhau, như vợ chồng Pha và nhà Trương Thi ghét nhau, chỉ vì chỗ hàng xóm với nhau mà nó đi lấy tên bố mình đặt cho con nó thì tội gì mình không báo thù. Về sau khi đã bị bọn tham quan địa chủ bóc lột đến mức không còn gì để mất, người nông dân mới biết hợp sức lại đoàn kết với nhau. Song, một ngày còn đế quốc thống trị, thì cuộc đấu tranh của nông dân còn bị đàn áp!
Con giun xéo mãi cũng quằn, truyện kết lại bằng một lần vùng dậy của Pha, một cú phang vào đầu Nghị Lại với tất cả lòng hận thù, hình ảnh cuối cùng là Pha bị trói, nghiến răng nhắm nghiền mắt, mặc cho dòng lệ nóng tuôn trào.

Một cuốn phong tục tiểu thuyết khiến chính quyền thực dân kinh sợ.
Viết “Bước đường cùng”, Nguyễn Công Hoan bày tỏ bản thân là một người viết tiểu thuyết, lại tự nhận thấy mình hiểu biết nhiều phong tục của nông thôn, nên ông viết một cuốn phong tục tiểu thuyết. Điều này độc giả có thể thấy rõ khi đọc tác phẩm, nhà văn đã bỏ ra cả chục trang chỉ để nhẩn nha kể về một ca đỡ đẻ, hay tỉ mẩn ghi lại một bài chửi dài lê thê ngoa ngoắt của mụ nhà quê bị mất gà mất qué.
Nhưng không phải lúc nào phong tục cũng là điều hay ho, cũng như mỗi nhà văn lại có đôi mắt khác nhau về lập trường và suy nghĩ khi cùng nhìn nhận một sự việc. Nếu những nhà văn khác viết về phong tục đáng quý hay sự bình yên chốn nông thôn, thì Nguyễn Công Hoan nhìn vào con người.
Nhà văn quan sát con người, nhìn con người trong mối quan hệ với con người, dưới bối cảnh những phong tục chốn hương quê, dưới chế độ nửa thuộc địa nửa phong kiến để viết nên “Bước đường cùng”. Ông viết cảnh lên quan, cảnh thu thuế, đốc thuế, cảnh vay nợ, cảnh ăn khao, cảnh mê tín dị đoan… Và những cái cảnh mà ông cho là phong tục ấy, nó phản ánh hiện thực.
Ông dùng ngòi bút châm chích, giễu cợt đám quan lại, đôi khi buông lời bỡn cợt những người dân quê. Giống như Vũ Trọng Phụng hay Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan tả chân, tả thực, và cái hiện thực ấy khiến người đọc phải xót xa.
Cái hiện thực ấy, nó lột trần bộ mặt tởm hợm thối nát của chính quyền thực dân nửa phong kiến và bọn địa chủ ăn trên ngồi trốc. Và sự vùng dậy của anh Pha giáng một đòn vào đầu Nghị Lại cũng giống như một cái tát vang dội vào cái mặt núng nính thịt của bọn cai trị, khiến chúng giật mình thon thót phải ban lệnh cấm sách.

Ý thức về thứ “giặc dốt” và bài học về sức mạnh đoàn kết.
Năm 1924, trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Hồ Chí Minh có viết:
“Nhân dân Đông Dương khẩn khoản đòi mở trường học vì trường học thiếu một cách nghiêm trọng… Hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường… Chính phủ thuộc địa tìm đủ mọi cách để ngăn cản không cho thanh niên An Nam sang du học bên Pháp,… Làm cho ngu dân để dễ cai trị đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”.
Ngu dân là một trong những chính sách tàn độc về văn hóa giáo dục của thực dân Pháp đối với nhân dân Đông Dương. Trong chương trình giáo dục, bọn thực dân đã loại trừ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thay vào đó là chương trình truyền bá “văn minh đại Pháp” nhằm đào tạo một thế hệ người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần yêu nước và ý thức về số phận của người dân mất nước, để từ đó phục vụ đắc lực cho công cuộc thống trị của thực dân. Hơn nữa, những người được đến trường đa số là con cái nhà giàu có và quan lại, còn con em nông dân phần lớn là thất học.
Trong “Bước đường cùng”, Nguyễn Công Hoan cũng đã để cho Pha và bác Tân trai nhận ra một sự thực xót xa rằng:
“Rút cục chỉ dân chết, chết vì nạn nhà giàu, chết vì nạn quan. Dân quê còn chết về nhiều cái nạn khác nữa, nạn ăn ở bẩn thỉu, dại dột, sưu cao thuế nặng, nạn lụt, nạn đại hạn, nạn hủ lậu, rút cục nạn gì cũng do cái dốt nát nó đẻ ra cả”.
Biết là cái dốt nát nó đẻ ra những ngọn những nguồn, nhưng đến khi vợ con chết cả và gặp lại anh trai Hòa thì Pha mới khát khao cái sự học, mới khát khao tìm cách để biết, để khôn, để không ai có thể bắt nạt nổi, như Dự, như Hòa.

Hòa cũng khai sáng cho Pha về sự đoàn kết hợp tác. Khi mà dân cày rời rạc nhau quá, thì dễ bị áp chế tàn nhẫn. Đôi cánh tay dân cày quý giá biết bao, nó đã có sức làm giàu cho người làm mình nghèo, thì phải họp tất cả những cánh tay ấy lại cho mạnh, thì chả phải sợ ai.

Họp nhau mà gặt, họp nhau mà đánh, họp nhau mà lý luận… Nguyễn Công Hoan đã mở cho người nông dân những cánh cửa về việc ý thức được cái dốt để mà ra sức mở mang tri thức, về việc ý thức được sức mạnh của đoàn kết để mà biết hợp tác với nhau chống lại giai cấp cai trị bóc lột.

Mặc dù con đường mà Nguyễn Công Hoan vẽ ra cho người nông dân chưa thực sự rõ ràng, bởi chính bản thân tác giả lúc ấy cũng chưa đi theo cách mạng, nhưng những gì mà “Bước đường cùng” đã đóng góp tiếng nói vào làng văn, vào đời sống nhân dân thời bấy giờ là hết sức đáng trân quý.


Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977): Nhà văn chân thật đến đáng yêu!
Có rất nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học nhận xét về “Bước đường cùng” – có khen có chê, có nêu ưu điểm cũng đề ra những khuyết điểm – nhưng có vẻ như người khắt khe với “Bước đường cùng” nhất lại chính là tác giả. Và lẽ dĩ nhiên, viết về thiếu sót về nội dung, nghệ thuật và tư tưởng, không nhà phê bình văn học nào có thể nói chính xác như ông, bởi chẳng ai hiểu được đường hướng suy tư làm nguồn cơn của tác phẩm bằng chính bản thân tác giả cả.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977)


Trong tập hồi ký “Đời viết văn của tôi”, Nguyễn Công Hoan chỉ ra cái chưa được nhất của “Bước đường cùng” là không đả động gì đến địa tô – vốn là thủ đoạn nền tảng của địa chủ vẫn dùng để bóc lột nông dân đến xương tủy. Nhà văn tự nhận là do “hiểu biết nông cạn” về chế độ phong kiến, tưởng quan hệ giữa giai cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột ở nông thôn chỉ là những món tiền cho vay nặng lãi.

Còn một điều thú vị nữa là nhà văn sẵn sàng bác bỏ cả những phân tích tốt về tác phẩm chỉ bởi vì nhận định đó không đúng với những gì mà ông đã nghĩ, mặc dầu những gì nằm trong bộ óc ấy nếu ông không nói ra thì cũng chẳng ai biết! Bởi vậy mới phải khẳng định lại một lần nữa, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn chân thật đến đáng yêu!

Điển hình như, để hồi đáp lại cơn mưa lời khen về mặt tư tưởng trong tác phẩm “Bước đường cùng” của bạn văn và đồng nghiệp trong làng văn từ Mặt trận Dân chủ, cũng trong tập hồi ký “Đời viết văn của tôi”, Nguyễn Công Hoan thật thà cho biết, khi viết “Bước đường cùng”, không phải ông đã có “ý thức tố cáo tội ác của bọn phong kiến đế quốc đâu”, vì
“Nếu ngày ấy mà tôi đã có ý thức ấy, thì tôi đã tìm Đảng Cộng sản để xin gia nhập”.

Nhà văn thẳng thắn gửi gắm đến các bậc phê bình văn học, rằng
“nghiên cứu về nhà văn lớp trước, tôi xin anh em chớ gán cho chúng tôi những ưu điểm mà chúng tôi không có, làm chúng tôi phát ngượng”.

Trong thời kỳ Mặt trận Bình dân ở Pháp lên nắm chính quyền, thì ở Đông Dương, một số chính trị phạm được ra khỏi các nhà lao. Anh em về địa phương để hoạt động. Nguyễn Công Hoan hồi đó mặc dù làm nghề dạy học dưới chính quyền Pháp, nhưng không ngại ngần giao thiệp gần gũi với anh em. Nhà văn bắt đầu thâu nhận ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương từ đây. Bởi vậy, nói Nguyễn Công Hoan viết “Bước đường cùng” do ảnh hưởng của cộng sản thời bấy giờ là nhận định chính xác. Sau Cách mạng Tháng Tám, nhà văn gia nhập Vệ quốc quân, sau đó trở thành Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948.

Tóm lại, tuy rằng lúc sáng tác “Bước đường cùng”, Nguyễn Công Hoan chưa có ý thức cách mạng rõ ràng, và dẫu đã cắt nghĩa là một cuốn phong tục tiểu thuyết nhưng tác giả không giấu giếm cái ý đồ của một tác phẩm mang luận đề xã hội dưới ngòi bút mang thái độ tố cáo. “Bước đường cùng” đã vẽ lại một bức tranh chân thực đa chiều về những sự bóc lột của địa chủ tàn nhẫn, những nỗi áp bức của quan lại tham nhũng, những cái bất công của chế độ thối nát chốn hương thôn ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám; nã những phát súng vào đầu bọn thực dân gian ác, bọn tham ô tham nhũng, vạch trần lũ sâu dân mọt nước; đánh dấu cột mốc quan trọng trong sự nghiệp văn chương của một ngòi bút hiện thực dồi dào sức sống mang tên Nguyễn Công Hoan.


Duyên Bùi
https://reviewsach.net
A lonely genius said to me:
“You know the way.
And your curiosity is what sets you apart from the rest.
Use your thoughts your hands your hunger for knowledge.
Because these things are yours and yours alone.”
That’s the reason why I love reading books.
Tôi là Duyên, yêu văn học và lịch sử, thích Vũ Trọng Phụng.





Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2023

Nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977)


Nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977)

Bảo tàng Văn học Việt Nam


1. TIỂU SỬ

Nhà văn Nguyễn Công Hoan sinh ngày 06 tháng 03 1903 ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên).
Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội.



2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC

Nhà văn Nguyễn Công Hoan xuất thân trong một gia đình quan lại nho học. Lúc nhỏ, ông học ở trường Bưởi, nay là trường Chu Văn An, Hà Nội. Năm 1922, ông học trường sư phạm. Cũng từ năm ấy, Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan viết văn từ rất sớm. Truyện ngắn đầu tiên “Quyết chí phiêu lưu” ông viết năm 17 tuổi, Tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Từ năm 1930, ông thường xuyên có bài trên mục Xã hội ba đào ký của báo An Nam tạp chí, hầu hết là những truyện ngắn trào lộng, phê phán xã hội. Tiểu thuyết “Những cảnh khốn nạn” tập I, xuất bản năm 1934, viết trong thời gian ông dạy học ở Lào Cai, đã báo hiệu con đường văn chương độc đáo của riêng ông. Năm 1935, tập truyện ngắn Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan được xuất bản gây một tiếng vang lớn và đưa ông lên vị trí hàng đầu những nhà văn hiện thực xuất sắc lúc bấy giờ. Cho đến trước 1945, nhà văn đã viết hàng trăm truyện ngắn và hàng chục cuốn tiểu thuyết vừa hiện thực vừa lãng mạn.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông làm Giám đốc báo chí Hà Nội rồi Phó giám đốc Sở tuyên truyền Bắc Bộ.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nhà văn gia nhập bộ đội, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân (báo Quân đội Nhân dân ngày nay), Giám đốc Trường Văn hóa Lý Thường Kiệt, Chủ nhiệm tờ Quân nhân học báo. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ.

Hòa bình lập lại 1954, ông trở lại nghề văn. Từ sau năm 1954, nhà văn công tác ở Hội văn học nghệ thuật Việt Nam với cương vị Ủy viên. Khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, Ông được bầu làm Chủ tịch Hội (khóa đầu tiên 1957 – 1958), kiêm Chủ nhiệm Tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ) và là Ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học & nghệ thuật Việt Nam. Ông tiếp tục viết truyện ngắn, tiểu thuyết và nhiều bài về kinh nghiệm sáng tác, nghiên cứu bình luận văn chương. Ông mất ngày 6.6.1977 tại Hà Nội và để lại một di sản văn học khá đồ sộ: 200 truyện ngắn, 30 truyện dài, và hàng trăm bài viết về kinh nghiệm sáng tác, phê bình và nghiên cứu văn học. Tên Ông hiện được đặt cho một đường phố ở quận Ba Đình, Hà Nội. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình có con đường mang tên ông. Vào năm 2009 tên ông đã được đặt cho trường Trung học phổ thông Nguyễn Công Hoan tại Xã Mễ Sở, Huyện Văn Giang, Tỉnh Hưng Yên.



3. TÁC PHẨM
  • Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923)
  • Răng con chó của nhà tư sản (truyện ngắn, 1929; đăng Annam tạp chí số 23 năm 1931 với nhan đề Răng con vật nhà tư bản)
  • Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1930)
  • Thật là phúc (truyện ngắn, 1931)
  • Người ngựa, ngựa người (truyện ngắn, 1931)
  • Thế là mợ nó đi tây (truyện ngắn, 1932)
  • Xin chữ cụ nghè (truyện ngắn, 1932)
  • Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933). Năm 1936, truyện dài Tác phảm Tắt lửa lòng của ông đã được soạn giả Trần Hữu Trang chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng “Lan và Điệp”.
  • Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934)
  • Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935)
  • Đồng hào có ma (truyện ngắn)
  • Mất cái ví (truyện ngắn)
  • Đào kép mới (truyện ngắn)
  • Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn)
  • Xuất giá tòng phu (truyện ngắn)
  • Một tin buồn (truyện ngắn)
  • Nỗi lòng ai tỏ (truyện ngắn)
  • Tôi cũng không hiểu tại làm sao? (truyện ngắn)
  • Chiếc quan tài (truyện ngắn)
  • Sáu mạng Người (truyện ngắn)
  • Thịt người chết (truyện ngắn)
  • Sáng, chị phu mỏ (truyện ngắn)
  • Ông chủ (truyện dài)
  • Bà chủ (truyện dài)
  • Thanh đạm (truyện dài)
  • Cô giáo Minh (Truyện dài)
  • Cô làm công (tiểu thuyết, 1936)
  • Oẳn tà roằn (truyện ngắn, 1937)
  • Vợ (truyện ngắn, 1937)
  • Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938)
  • Tinh thần thể dục (truyện ngắn, 1939)
  • Phành phạch (truyện ngắn, 1939)
  • Cái thủ lợn (tiểu thuyết, 1939)
  • Nông dân và địa chủ (tập truyện ngắn, 1955)
  • Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956)
  • Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960)
  • Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961)
  • Đống rác cũ (tiểu thuyết, 1963)
  • Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971)
  • Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1983 – 1986)



4. GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC

– Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.





Thứ Tư, 19 tháng 4, 2023

Nguyễn Công Hoan - Bậc thầy về truyện ngắn châm biếm


Nguyễn Công Hoan -
Bậc thầy về truyện ngắn châm biếm

TTXVN
Là tác giả của trên 200 truyện ngắn và gần 30 truyện dài, truyện vừa với nghệ thuật đặc sắc và độc đáo, Nguyễn Công Hoan là một trong những ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Qua hơn 50 năm cầm bút, sự nghiệp văn học của ông khá đồ sộ. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm với hàng trăm truyện ngắn, truyện dài và nhiều tiểu thuyết, bút ký, tiểu luận về ngôn ngữ văn học. Ông sinh ngày 6/3/1903, cách đây 120 năm.




Bậc thầy về truyện ngắn châm biếm –
Nguyễn Công Hoan

Theo: Thanh Hoa (TTXVN)



Là tác giả của trên 200 truyện ngắn và gần 30 truyện dài, truyện vừa với nghệ thuật đặc sắc và độc đáo, Nguyễn Công Hoan là một trong những ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945.

Một bậc thầy về truyện ngắn và nghệ thuật trào phúng
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6/3/1903, quê ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông được sinh ra và trưởng thành trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và học thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối, những giai thoại mang tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích bọn tầng lớp quan lại tham lam, địa chủ cường hào, ác bá. Chính những thơ ca và giai thoại này đã làm ảnh hưởng sâu sắc tới lối viết của ông sau này.

Nguyễn Công Hoan viết văn từ rất sớm, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường và ngay từ những ngày đầu cầm bút, ông đã xác định được hướng đi và phong cách viết. Ông có biệt tài về truyện ngắn trào phúng, ông giỏi phát hiện những tình huống mâu thuẫn đáng cười và có cách kể chuyện thật tự nhiên, có duyên, hấp dẫn với một ngôn ngữ sinh động.

Nếu như Nam Cao nhìn thấy cuộc đời của con người chỉ là đang sống mòn, đang chết dần đi hoặc bị tha hóa; với Vũ Trọng Phụng, cuộc đời chỉ toàn sự vô nghĩa lý, thì đối với Nguyễn Công Hoan, đời là một sân khấu hài kịch. Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn của mọi thứ lố lăng, kệch cỡm, nhìn vào đâu cũng thấy sự giả dối, lừa bịp, những cái đáng cười, đáng chế giễu, thậm chí cười ra nước mắt…

Trong hồi ký của mình, nhà văn Lê Minh, con gái Nguyễn Công Hoan đã chia sẻ: “Thời của ông, trong lúc một số nhà văn đang say sưa với chủ nghĩa lãng mạn, với những hư hư thực thực kiểu “Hồn bướm mơ tiên” thì ông lại dứt khoát lựa chọn một đường đi khác cho riêng mình”.

Còn GS.TS văn học người Nga Niculin đã gọi ông là “bậc thầy về truyện ngắn châm biếm”. Với hàng trăm truyện ngắn trào phúng, mỗi câu chuyện là một cảnh đời, một số phận, ông đã vẽ lên bức tranh sinh động về xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, đầy rẫy bất công, giả dối.

Ông đả kích không thương tiếc bọn quan lại tham lam, bỉ ổi, chức cao nhưng ít tài đức, bọn địa chủ cường hào keo bẩn, ngu dốt, bọn tư sản vô lương tâm chỉ biết chạy theo đồng tiền và lối sống tư sản lố lăng, đồi bại… bằng một bút pháp trào lộng, khiến bạn đọc không thể không cười ra nước mắt. Nhưng ở chỗ sâu thẳm trái tim ông là lòng xót xa, thương cảm đối với những người dân nghèo bị cho là thấp cổ bé họng..

Thế giới nhân vật trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan vô cùng đông đúc. Đó là những phu phen, thợ thuyền, dân quê, những địa chủ, lý dịch, cường hào; những nghị viên, dân biểu, quan lại; những con buôn, tư sản, chủ thầu; những giáo chức, nghệ nhân, viết văn, làm báo; những me tây, cô đầu, kép hát; những gái điếm, con sen, thằng nhỏ, lính cơ, thầy quyền, những bồi bếp, tây trắng, tây đen…

Ông đã dày công khắc họa thế giới nhân vật đông đúc, đa dạng ấy khiến cho họ trở nên đặc sắc, sinh động, đầy sức sống. Sau mỗi một hành động của nhân vật, tiếng cười bật lên với nhiều cung bậc khác nhau. Đó là tiếng cười khoái trá, sảng khoái. Đó cũng là tiếng cười mỉa mai, châm biếm, đả kích, đầy chua xót.

Đó còn là tiếng cười căm phẫn xã hội đồng tiền đưa đẩy con người vào những hoàn cảnh trớ trêu mà cái bi, cái hài xen lẫn hòa trộn.

Danh tiếng của ông thật sự nổi bật trên văn đàn Việt Nam là một bậc thầy về truyện ngắn và nghệ thuật trào phúng khi tập truyện ngắn “Kép Tư Bền” ra đời. Tác phẩm đã gây một tiếng vang lớn và tên tuổi của ông nổi tiếng khắp Bắc Trung Nam, có 18 tờ báo đăng bài khen ngợi…

Nguyễn Công Hoan viết nhiều trong những năm 1920 đến 1945, truyện của ông chiếm khối lượng lớn. “Bước đường cùng” là tác phẩm tiêu biểu nhất, có giá trị cao nhất của Nguyễn Công Hoan. Với “Bước đường cùng” lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một tác phẩm nói đến đời sống nông thôn Việt Nam một cách sâu sắc, vạch trần được một trong hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội nước ta dưới thời thuộc Pháp là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến.

Người nông dân trong “Bước đường cùng” không còn thụ động như người nông dân trong văn học Việt Nam ngày trước nữa. Đó là một hiện tượng rất mới trong văn học nước ta hồi bấy giờ. Chính quyền thực dân đã phải ra lệnh cấm lưu hành.

Cùng thời điểm này ông cũng có nhiều các tác phẩm khác tiêu biểu như: “Cô làm công” (tiểu thuyết, 1936), “Lá ngọc cành vàng” (tiểu thuyết, 1934), “Cái thủ lợn” (tiểu thuyết, 1939), “Phành phạch” (truyện ngắn, 1939)… Từ sau năm 1954, ông cũng có nhiều truyện ngắn viết về cải cách ruộng đất và chiến sĩ cách mạng.

Một thế đứng vững vàng trong văn mạch dân tộc

Sau ngày hòa bình lập lại, Nguyễn Công Hoan công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm cán bộ Nhà xuất bản văn nghệ. Khi Hội Nhà văn thành lập (1957), ông được bầu làm Chủ tịch Hội khóa đầu tiên và ủy viên Ban Thường vụ trong các khóa tiếp sau đó; đồng thời là ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.

Năm 1977, Nguyễn Công Hoan qua đời tại Hà Nội, ông thọ 75 tuổi. Qua hơn 50 năm cầm bút, sự nghiệp văn học của ông khá đồ sộ. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm với hàng trăm truyện ngắn, truyện dài và nhiều tiểu thuyết, bút ký, tiểu luận về ngôn ngữ văn học. Các tác phẩm của ông đã được tái bản nhiều lần và hiện được chọn lại trong bộ tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, nhà xuất bản Văn học 1983-1986).

Với tài năng và những cống hiến của mình cho văn học nước nhà, Nguyễn Công Hoan có một vị trí sang trọng trong lịch sử văn học Việt Nam; một thế đứng vững vàng trong văn mạch dân tộc. Tên tuổi của ông còn được ghi trong “Từ điển bách khoa toàn thư” của Liên Xô những năm 60…

Đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về ông (kể cả của những người nước ngoài), khai thác, tìm hiểu nhiều góc cạnh, nhiều tầng vỉa trong khối di sản lớn mà ông để lại. Năm 1996, cùng với 14 nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, ông đã vinh dự được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật.


Theo: Thanh Hoa (TTXVN)



Thứ Bảy, 11 tháng 3, 2023

Người cứu tiểu thuyết "Đống rác cũ"


Người cứu tiểu thuyết "Đống rác cũ"

Nguyễn Việt Chiến


Ngày 27.8, Hội Nhà văn VN tổ chức hội thảo nhằm làm rõ sự đóng góp của nhà văn Lê Minh (85 tuổi) đối với nền văn học cách mạng, kháng chiến và đề tài công nhân.

Tại hội thảo, bài phát biểu của nhà văn Xuân Cang đã cung cấp nhiều thông tin mới về Lê Minh. Năm 1956, truyện ngắn Nhật ký một người mẹ của bà bị lên án trong vụ Nhân văn giai phẩm và Lê Minh cùng một nhóm văn nghệ sĩ phải đi “cải tạo lao động” ở Nam Định, Thái Nguyên. Năm 1982, trên cương vị Trưởng ban VHVN Báo Nhân dân, Lê Minh đã thẳng thắn phản đối bài phê bình có tính “chụp mũ” đối với tiểu thuyết Búp sen xanh của Sơn Tùng. Vào năm nhà văn Nguyễn Công Hoan gặp nạn vì tiểu thuyết Đống rác cũ tập 1 in ở NXB Văn học bị cấm, Lê Minh đã thực sự hành động để cứu tác phẩm của cha.
Một mặt, bà an ủi chăm sóc sức khỏe của cha, một mặt thu giấu, giữ gìn bản thảo, mặt khác ngăn chặn những tin đồn thổi. Sau đó, Lê Minh đã sắp xếp rất kỹ với NXB Thanh Niên một kế hoạch thật kín kẽ để xuất bản được toàn tập Đống rác cũ cùng một thời điểm.

Nhà văn Lê Minh sinh năm 1928, là con gái của nhà văn lỗi lạc Nguyễn Công Hoan. Đến nay, bà đã in 35 tập truyện ngắn, truyện dài, ký và tiểu thuyết, từng đoạt 2 giải nhất thi ký và truyện ngắn của Hội Nhà văn năm 1962 và năm 1969, 2 giải nhất về văn học đề tài công nhân của Hội Nhà văn từ 1980-1995.

Nguyễn Việt Chiến




Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2023

Trách nhiệm của một quan Công sứ Pháp


Trách nhiệm của một quan Công sứ Pháp

Q. A. (st)


talawas – Đoạn tin sau đây đăng ở mục Bạn đọc & Toà soạn của tạp chí Xưa & Nay số 343 (11/2009) tr. 41-42. Tìm kiếm thông tin trên mạng về nhân vật Công sứ Thái Bình tên Perret, chúng tôi chỉ được xác nhận gián tiếp qua truyện ngắn “Tôi tự tử” (1938) của Nguyễn Công Hoan:
“Một ông Công sứ Thái Bình, vì để đê vỡ, lo phải cách, nên tự tử bằng súng lục.”
Mong được cung cấp thêm thông tin từ quý vị và các bạn.


Perret là một quan cai trị hạng ba, tốt nghiệp trường Hành chính Thuộc địa Paris (Pháp), được bổ nhiệm làm Công sứ Thái Bình từ 2-4-1913 đến 17-8-1913. Khi mới nhậm chức đi kinh lý được ba phủ huyện, chưa kịp khám đến đê điều, thì đột nhiên huyện Thư Trì báo vỡ đê Phú Chử. Perret, tuần phủ Phạm Văn Thụ và lục lộ đến thì chỗ vỡ đã to lắm rồi. Chỉ trong một ngày đã huy động được 10 vạn dân phu toàn tỉnh và điện lên Thống sứ Bắc Kỳ xin trợ cấp tiền gạo để hàn đê. Cách mấy hôm sau, nước lên mạnh quá, không thể đắp theo được nữa, mới chịu rút phu về đắp giữ quanh vòng thành phố. Tuần phủ kể lại trong tập Đàn Viên ký ức lục: “Quan Sứ thường ở các tỉnh thượng du, chưa từng thấy cảnh lụt lội. Lòng thương dân quá. Cứ kêu: Không biết dân họ ăn ở thế nào cho sống được.”

Đêm rằm tháng 7-1913, Perret tự bắn vào thái dương. Bác sĩ Caseaux lập biên bản, nói: Quan Sứ vì thương dân quá. Ba ngày đêm không ăn không ngủ, phát chứng điên, tự bắn mình chết.

Người bồi nói với Phạm Văn Thụ: Quan Sứ tiếp cơm quan Thống, xin các khoản điều tễ được cả. Duy khoản giảm thuế thì quan Thống không ưng. Xem ý quan Sứ lấy làm buồn. Nằm không yên. Gần sáng truyền đốt nến, viết bức thư để bàn quan Thống. Rồi lại đi nằm. Một lúc thì nghe tiếng súng nổ.

Nội dung bức thư ấy viết: “Tôi phụng mệnh về đây, cốt khai hóa cho tỉnh Thái Bình. Không giữ được đê Phú Chử, di hại cho dân. Xin chết thay cho dân Thái Bình.”

Hết thảy xa gần, nghe nói đều thương tiếc. Nhân dân Thái Bình đã xây miếu thờ ông ở thị xã Thái Bình và trên đê Phú Chử. Nay miếu không còn, nên lập bia tưởng niệm.


Q. A. (st)



Nguồn:
Tạp chí Xưa & Nay số 343 (11/2009).
Xem bản PDF tại Thư viện tài liệu miễn phí
.



Mời đọc thêm:
1. Ngài Công sứTruyện ngắn. Đức Hậu
- Tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên điện tử, 15 September, 2016.
2. Viên công sứ Pháp quyên sinh vì dân bị lụt ở Thái Bình - Giao Blog, 20/06/2013.

Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2023

Để có tiếng cười...


Để có tiếng cười...

Nguyễn Thanh Tú


Nói đến cái hài là nói đến tiếng cười nhưng không phải là một, đúng hơn, chúng thống nhất nhưng không đồng nhất. Tiếng cười luôn có mặt trong cái hài, trong mối quan hệ chủ thể khách thể của quan hệ thẩm mỹ, cái hài là khách quan thì tiếng cười gắn liền với chủ thể.
Hề chèo - Tranh Bùi Xuân Phái.


Là kết quả của cái hài, tiếng cười bao giờ cũng vang lên từ một chủ thể nào đó hướng về phía khách quan là cái xấu, cái đáng chê. Thế nên mỹ học rất đề cao tiếng cười, coi đó là một dấu hiệu rõ nhất của tính người, "là vũ khí của người mạnh". Là mỹ học của cái hài, nhưng tiếng cười còn là mỹ học của cái đẹp, vì cười cái xấu để con người tránh xa nó để hướng đến cái đẹp, cái tốt, cái tích cực. Đào hố chôn cái xấu là một bước chuẩn bị cho cái đẹp sinh thành. Tiếng cười là mỹ học lưỡng tính hay mỹ học phổ quát, ngày nay gọi là "mỹ học nhân bản" là như vậy. Một nền văn học thiếu vắng tiếng cười là nền văn học thiếu sinh khí!

Cái hài là cơ sở tạo nên tiếng cười nên tìm hiểu, nghiên cứu hay kiến tạo tiếng cười thường trước hết phải chú ý đến đối tượng gây cười mang tính hài. Đó là những khuyết tật xấu xí, hèn kém, dối trá, ác độc, tham lam... Không phải cái xấu nào cũng đều tạo nên tiếng cười, mà chỉ có cái xấu về mặt xã hội mới tạo ra tiếng cười.

Cười một người không may bị ngã, thì là cái cười vô duyên, phản cảm. Nếu cố tạo nên tiếng cười từ sự khuyết tật bẩm sinh thì là biểu hiện của sự kém hiểu biết về mỹ học, không có sự đồng cảm, là sự nhạo báng vô đạo đức vì là cười trên sự đau khổ của người khác. Nếu khoét vào những cái vặt vãnh, đời thường, vào cái thông tục, cái không bản chất sẽ chỉ cho tiếng cười rẻ tiền…

Nhưng cũng nhìn rộng rãi hơn thì tiếng cười có ngay trong cái mới, tiến bộ khi nó tự mang trong mình cái cũ chưa gột bỏ hết, còn những cái chưa hoàn thiện. Trường hợp này tạo ra tiếng cười hài hước, đáng yêu như em bé vụng về mà hồn nhiên bắt chước người lớn hay nhà bác học đãng trí có vẻ ngoài ngô nghê…

Bản thân những cái xấu vẫn chưa phải cái hài. Xấu nhưng không đành phận xấu, lại đội lốt cái đẹp, tự cho mình là đẹp thì mới là cái hài. Phải có tiếng cười của nhà trào phúng lột, rồi giật phăng cái mặt nạ giả dối để làm trơ ra sự thật thảm hại của cái xấu ấy. Vì thế bản chất cái hài là sự mâu thuẫn giữa các mặt đối lập, giữa nội dung và hình thức, giữa đạo đức và phi đạo đức, giữa hèn kém và cao thượng, giữa dốt nát ngu đần và trí tuệ hiền minh…

Những mâu thuẫn này càng căng thẳng càng tạo ra sự bất ngờ (kịch tính) thì càng tạo nên cường độ mạnh mẽ của tiếng cười. Điều này lại dẫn đến vai trò quyết định của chủ thể cười, tức nhà trào phúng, phải trí tuệ để nhìn thấy những mâu thuẫn hài; phải có sự phẫn nộ của lý trí muốn đòi lại lẽ phải, sự công bằng; phải có trái tim đầy yêu thương con người, căm thù cái xấu bênh vực cái tốt; phải có năng khiếu trời phú, có tài năng mỹ học về cái hài biết đẩy mâu thuẫn đến cái đích bất ngờ;…

Vì vậy cảm xúc hài kịch là cảm xúc thiên về trí tuệ. Tiếng cười bật ra từ cái hài luôn là một thái độ nhận thức, phê phán, phản biện hiện thực, tức tiếng cười phủ định cái tiêu cực. Nhưng cũng có tiếng cười khẳng định, đấy là tiếng cười tự trào, cười mình để khẳng định mình, thường chỉ có ở những nhà văn lớn.

Trên cơ sở những lý thuyết cơ bản này ứng vào thực tế sẽ thấy ngay cái yếu của văn học tiếng cười hôm nay ở cả ba vấn đề cơ bản là xây dựng tình huống trào phúng, nhân vật trào phúng và lời văn trào phúng.

Tài năng của nhà trào phúng trước hết là nhìn ra những mâu thuẫn mang tính ngược đời. Cuộc đời vốn đầy mâu thuẫn nhưng phải là mâu thuẫn nghịch lý, ngược đời, trớ trêu, oái oăm, ngẫu nhiên,... mới là tiền đề cho tiếng cười xuất hiện. Đám ma thông thường là buồn thương, nhớ tiếc nhưng chỉ Vũ Trọng Phụng mới nhìn thấy đó là một đám ma "hạnh phúc". Cả gia đình ai cũng mong người được coi là đáng kính, là trụ cột, là điểm tựa... chết để làm "tang gia" vì có thế mọi người mới có điều kiện thể hiện hoặc có cơ hội làm giàu... Đó là tình huống hội tụ những mâu thuẫn ngược đời.

Tình huống này vừa mang tính truyền thống vừa nhại truyền thống. Nhại ở chỗ cũng là đám ma cổ điển ở bề ngoài nhưng bên trong lại ngược hẳn để nhằm mục đích mỉa mai, để chế giễu cái nhố nhăng kệch cỡm "tân thời" lại gắn với truyền thống thì càng đáng cười hơn. Đấy là mâu thuẫn mang tính thời đại.
"Số đỏ" là tác phẩm bất hủ vì nó giễu nhại cả một xã hội văn minh rởm dở ta dở Tây! Điều này hoàn toàn đúng với truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan. Ngoài một tài năng kiến tạo các tình huống trào phúng, nhân vật của Nguyễn Công Hoan đậm tính hài, tính bi của thời cuộc. Giết mẹ là đại bất hiếu. Giết mẹ rồi làm đám ma cực to, khóc lóc cực kỳ thảm thiết thì không còn là con người mà ngược trở về loài quỷ dữ. Con người là kết quả của môi trường. Thì ra trong môi trường phi nhân tính sẽ đẻ ra những phi nhân tính! Cái ý nghĩa phổ quát bật ra thật dữ dội, lớn lao: phải thay đổi môi trường ấy để con người được có nhân tính!

Lời văn là da thịt của cơ thể tác phẩm. Lời văn tiếng cười cũng phải đầy mâu thuẫn, nghịch lý, oái oăm, đầy những tiếng nhại, tiếng mỉa... Thể hiện trước hết ở cách đặt tên truyện, tên chương, tên nhân vật. Chỉ có cái tên ẩn dụ không thể thay thế "Ngựa người và người ngựa" mới làm toát ra được cái ý kiếp người sao mà khổ thế, làm kiếp phu xe (người ngựa) cũng chẳng hơn gì kiếp gái điếm (ngựa người). Thế mà họ lại gặp nhau. Ngẫu nhiên mà hợp lý. Vì trong không gian ấy, hoàn cảnh ấy, họ còn gặp được ai...

Tiếng cười trên sân khấu hài hôm nay yếu do kịch bản chưa tạo ra những mâu thuẫn đích đáng, thiếu tính nổi bật của đời sống xã hội. Trong khi nhận thức của khán/độc giả ngày một cao thì nhiều vở chỉ là cười để mà cười, thiếu tính tư tưởng. Mới chỉ mang tính chọc cười bông lơn vui vẻ, cười xong rồi thôi hơn là sự gây cười trí tuệ sâu sắc, càng ngẫm càng thấy thấm thía, sâu lắng. Xã hội đang rất cần những Tào Mạt, Lộng Chương, Lưu Quang Vũ… những nhà trào phúng lớn!

Chất muối hài mặn mòi luôn là sự kết tinh của những mâu thuẫn đời sống được khúc xạ qua cái nhìn nghệ thuật tiến bộ, nhân văn, được cấu trúc lại thành các tình huống giàu kịch tính trớ trêu, nhầm lẫn, éo le... Kịch bản đuối tay thường dông dài, không tiêu biểu nên thường phải viện nhờ đến yếu tố cái tục.

Phải tìm ra những câu chuyện thật sự đáng cười để kể lại, dựng lại nhằm mục đích phê phán chế giễu từ đó làm bật ra ý nghĩa tích cực làm lành mạnh, trong sạch hóa cuộc sống. Từ xa xưa người ta coi sân khấu có tác dụng "thanh lọc" là theo ý nghĩa đó. Do vậy, kịch bản luôn là khâu quyết định. Tác giả kịch bản phải thực sự tài năng cùng một sự hóa thân vào cuộc đời để nắm bắt những mâu thuẫn bản chất, có "bịa" cũng phải "bịa như thật" tức phải dựa trên lôgic thực tại của cuộc sống. Về hình thức, kịch bản hài phải cô đọng, ngắn gọn, phải có tình tiết, chi tiết hài được giấu kín để làm sao khi "mở nút" bật ra thật bất ngờ kéo theo tiếng cười ngạc nhiên, thích thú, sảng khoái của người xem. Sự dài dòng sẽ làm giảm sự chú ý của khán giả, sân khấu chỉ còn là sự "độn" cảnh, "độn" lời thoại của sự pha trò vặt...

Cái hài luôn mang ý nghĩa xã hội tích cực, có thể tích truyện của ngày hôm qua nhưng tiếng cười phải hướng đến hôm nay để giúp đời tốt hơn, lạc quan, đáng sống hơn... Vì thế diễn xuất phải làm sống động hóa kịch bản, diễn viên phải hiểu thấu ý nghĩa chủ đề, có hiểu đời mới đau đời. Nhân vật Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan càng đau bên trong (vì cha ở nhà đang hấp hối) nên càng diễn xuất sinh động (trên sân khấu) mà hấp dẫn khán giả!

Không phải cứ có tiếng cười là cần đến cái tục, vì cái tục chỉ là một trong nhiều phương tiện, phương thức gây cười. Ngay ở truyện tiếu lâm hay ca dao trào phúng cái tục cũng chỉ xuất hiện khi cần đến sự vạch trần, đả kích, châm biếm đích đáng đối tượng. Sự có mặt của nó còn tùy thuộc chủ đề, hoàn cảnh không gian, nội dung kịch bản, tùy thuộc đối tượng tiếp nhận. "Đônkihôtê" của Xécvantec có cái tục đâu mà sao tiếng cười triết lý, chua chát như thế. Ở ta, tiếng cười của mỹ học Nho gia Nguyễn Khuyến, trước đó là Hồ Xuân Hương rất ít cái tục nhưng sao mà đau đớn đắng đót và tinh tế sâu sắc... Lạm dụng cái tục là hạ thấp và coi thường độc giả!



Nguyễn Thanh Tú






Tranh minh họa hai "thầy trò" Đôngkisốt.

https://hanghieugiatot.com/vai-tro-cua-cai-hai-trong-my-hoc

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2023

Phê bình văn học “cũng lắm công phu”...


Phê bình văn học “cũng lắm công phu”...

Hồng Diệu


Thế đấy! Đụng đến lý luận là mệt lắm! Trích nữa thì còn dài, nhưng cũng không cần thiết, vì tưởng đã quá đủ! Nói phương pháp luận chỉ là “công việc của triết học”, ít nhất cũng chứng tỏ người nói vừa lơ mơ về triết học, vừa lơ mơ về nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, lại còn khá... liều nữa!

Hội nghị lí luận, phê bình văn học lần thứ 4.


1. Nếu chỉ với một “nghề chơi” thôi, mà cụ Nguyễn Du đã viết trong “Truyện Kiều”:

Nghề chơi cũng lắm công phu thì dễ ngẫm ra rằng nghề nào cũng cần “lắm công phu” cả, huống chi là chuyện phê bình văn học. Đã phê bình văn học, nhất thiết phải bỏ “lắm công phu” vào đấy.

Vấn đề là, có một số cây bút không chuyên về phê bình trong làng văn của ta, kể cả những vị được coi như “cây đa cây đề”, đôi khi vì những lý do khác nhau, đã quên mất điều này, nghĩa là họ chả cần công phu, hay để rất ít công phu vào chuyện phê bình của mình mà vẫn cứ tưởng rằng mình đúng, mình hay! Vì vậy, mới... có chuyện!

2. Ta biết, niêm luật của thơ lục bát thể hiện sự phối thanh của thể thơ này, đã được giới nghiên cứu xác nhận bằng công thức dưới đây:

Câu lục: O B O T O B
Câu bát: O B O T O B O B

Trong đó B là thanh bằng, T là thanh trắc, O có thể thanh bằng, có thể thanh trắc. Xét theo chiều ngang (của từng câu) thì bằng hay trắc thể hiện luật thơ. Xét theo chiều dọc, thì các tiếng ở vị trí 2, 4, 6 của câu lục phải lần lượt “niêm” (dính) với các tiếng ở vị trí 2, 4, 6 của câu bát (bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc).

Các câu lục bát không giữ niêm và luật đã nói thì gọi là lục bát biến thể, hay câu thơ thất niêm, phá niêm.

Đọc hai câu thơ này của Xuân Diệu, có thể thấy cụ thể một phần công thức trên:

Tôi cầm mùi dạ lan hương
Trong tay, đi đến người thương cách trùng

(Tuy nhiên, muốn thấy hết công thức ấy, còn phải so hai câu này với các câu lục bát khác nữa).

Kể ra, chuyện niêm luật của thơ lục bát còn những chỗ tỉ mẩn, lôi thôi, rắc rối. Nhưng hãy dừng lại ở đây, vì vấn đề mà ta sẽ bàn không nằm ngoài mấy điều vừa nói.

Tôi đọc thấy mấy lần nhà thơ Xuân Diệu nói về niêm luật trong thơ lục bát (khi phê phán thơ của mấy nhà thơ trẻ) mà lúc thì bất nhất, khi thì không chính xác. Trong quyển “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam” tập I, Nhà xuất bản Văn học, 1981, Xuân Diệu viết về câu: Trên án sẵn có con dao:

“Đó là câu phá niêm duy nhất trong “Truyện Kiều””.

Đến quyển “Công việc làm thơ”, Nhà xuất bản Văn học, 1984, nhà thơ lại quên điều mình đã viết ấy mà lại viết:

“Trong hơn ba ngàn câu thơ Kiều, Nguyễn Du không lần nào dùng điệu lục bát biến thể”!

Không! “Truyện Kiều” đã có những lần “dùng điệu lúc bát biến thể” và cũng không chỉ có câu “phá niêm duy nhất” như nhà thơ Xuân Diệu nói. Tôi còn thấy ít nhất là ba câu nữa:

- Sao chẳng biết ý tứ gì?
- Đau đớn thay phận đàn bà!
- Tưởng bây giờ là bao giờ

(Xin đối chiếu với công thức đã dẫn).

Thiết tưởng, chỉ cần dụng công một chút thôi, chắc chắn nhà thơ đã không truyền đi cái sai về niêm luật ở trên, mà nhìn ra, đâu có khó!

3. Ít người biết rằng nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903-1977) còn làm thơ. Có điều, thơ ông chỉ làm để tặng bạn bè. Nó cũng mang đặc điểm phong cách ở văn xuôi của ông: Hóm hỉnh, dí dỏm, và... hay. Đại loại như những câu này, trong bài “Năm Dần mừng Tú Mỡ”, viết ngày 15-2-1974:

Năm nọ, anh đi ra nước ngoài,
Về nhà, anh đi ngoài ra nước.
Chẳng hay xúp xiệc xơi thế nào,
Anh phải chữa mãi mới khỏi được.

... Thế rồi Quảng Bá lại Quảng Bá
Thì thọt vào, ra, vào, ra, vào
Tôi đi nghỉ rét lo cho anh.
Chẳng biết ra vào vì thế nào.

Thế nào? Thể lực thoái hay tiến?
Không khéo Bành Tổ phát đơn kiện
Truất chức Thường vụ Hội Nhà văn
Bắt đưa ra Hội Nhà văn... Điển...

Nhà văn Nguyễn Công Hoan lại có những lúc bình luận, tranh luận về thơ nữa. Có điều, ở lĩnh vực này cũng thấy ông đôi ba lúc... sơ hở, như trường hợp này. Bài thơ “Năm mới chúc nhau” (hay là “Chúc Tết”) của Tú Xương có năm khổ thơ, mỗi khổ bốn câu. Bốn khổ trên, các câu đầu thứ tự như sau:

- Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
- Nó lại mừng nhau cái sự giàu
- Nó lại mừng nhau cái sự sang
- Nó lại mừng nhau đẻ lắm con

Và khổ cuối của bài thơ là:

Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người!

Khác với nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn Nguyễn Công Hoan cho khổ thơ cuối của bài thơ không phải của Tú Xương, mà viết:

“Đọc bốn câu này, ta phải tự hỏi: Tú Xương làm bài thơ chúc Tết này sau ai, mà lại nói là bắt chước”? (Xem: Trần Tế Xương - Về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, trang 511).

Thật ra, cũng không khó gì mà thấy ở bốn khổ trên, Tú Xương “mời” mọi người “Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau”... Đến khổ cuối, Tú Xương “bắt chước ai”, nghĩa là bắt chước “nó”, những người vừa chúc ở bốn khổ trên, để chúc (theo cách của mình), chả có gì vô lý để phải “tự hỏi” như trên! Nhà văn mới đọc lướt qua, không để thêm công phu mà đọc và nghĩ nữa, mới hỏi một câu... không cần hỏi, như thế!

4. Trường hợp sau đây thì thuộc về một nhà thơ cũng rất quen biết, đang đồng hành với giới văn chương của ta, cho tôi được không nói tên.

Có một cuộc tranh luận nho nhỏ mà khá sôi nổi và bất phân thắng bại về thơ chưa lâu lắm. Do khuôn khổ các tờ báo, thời gian tranh luận không được dài, một số vấn đề khơi ra hồi ấy chưa được bàn, có cả vấn đề rất sơ đẳng.

Tôi lưu ý đến chuyện này: Khi một nhà phê bình... phê một nhà thơ là đã “sai từ một vấn đề có tính chất phương pháp luận nghiên cứu”, thì một nhà thơ khác, chắc là để bênh vực bạn mình, lập tức có một kết luận tưởng chắc như đinh đóng cột rằng, nhà phê bình “đã nhầm giữa phương pháp nghiên cứu văn học với phương pháp luận, là công việc của triết học” (Báo Văn nghệ, số 42, 16-10-1999). Cũng có nghĩa nhà thơ ta muốn nói: Phương pháp luận không phải “công việc” của văn chương, không phải “công việc” của thơ, mà là công việc của triết học (!)

Vậy, ta thử xem, trước hết, các nhà triết học nói gì về vấn đề này.

Trong quyển “Từ điển triết học” do Nhà Xuất bản Sự Thật (Hà Nội) in lần đầu năm 1958, về sau tái bản nhiều lần, trong bản in lần thứ ba (1976) ở trang 753, các nhà triết học giải thích:

“Phương pháp luận:

a) Khoa học về phương pháp, về những phương pháp nghiên cứu; b) Tổng hợp những cách, những phương pháp tìm tòi trong một ngành khoa học nào đó”.

Thế là rõ. Phương pháp luận đụng đến “một ngành khoa học nào đó” nghĩa là không chỉ đụng đến riêng một ngành triết học.

Để thấy rõ hơn nữa, có thể xem quyển “Thuật ngữ nghiên cứu văn học” của Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Vinh, in năm 1974. Các tác giả định nghĩa: “Phương pháp luận nghiên cứu văn học” là:

“Bộ môn nghiên cứu những phương pháp và những nguyên tắc chỉ đạo sự nghiên cứu văn học. Do sự phát triển của nghiên cứu văn học càng ngày càng tự giác về mặt phương pháp, phương pháp luận nghiên cứu văn học cần được xác lập - và thực tế đã xác lập - thành một bộ môn riêng.

“Phương pháp luận nghiên cứu văn học có quan hệ mật thiết với lý luận văn học. Mỗi quan niệm về lý thuyết văn học đều có tiềm lực phương pháp luận. Mỗi quan niệm lý thuyết được vận dụng vào sự phân tích văn học đều có giá trị phương pháp luận...

“Thuật ngữ này còn được dùng để chỉ toàn bộ những phương pháp cần thiết cho nghiên cứu văn học...” (trang 188)

Lại thấy, sau cuộc tranh luận không lâu, gần như đồng thời xuất hiện hai quyển sách mang cùng một tên: “Phương pháp luận nghiên cứu văn học”; một của Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Văn Dân (2004), một của Giáo sư - Tiến sĩ Phương Lựu (2005).

Ta thử đọc vài dòng ở quyển sách của Nguyễn Văn Dân, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội (2004):

“Bất cứ một ngành hay một bộ môn khoa học nào cũng đều không thể không có phương pháp luận của riêng mình. Và mọi người đều biết rằng, sự phát triển của một ngành khoa học phụ thuộc một phần quan trọng vào sự đóng góp của phương pháp luận nghiên cứu khoa học nói chung và của phương pháp luận nghiên cứu của ngành khoa học đó nói riêng” (trang 9).

“Phương pháp luận nghiên cứu văn học là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu một cách hệ thống các nguyên tắc chỉ đạo việc thực hành nghiên cứu văn học cũng như nghiên cứu các phương pháp nghiên cứu văn học, phục vụ cho lý luận, lịch sử và phê bình văn học” (trang 42).

Thế đấy! Đụng đến lý luận là mệt lắm! Trích nữa thì còn dài, nhưng cũng không cần thiết, vì tưởng đã quá đủ! Nói phương pháp luận chỉ là “công việc của triết học”, ít nhất cũng chứng tỏ người nói vừa lơ mơ về triết học, vừa lơ mơ về nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, lại còn khá... liều nữa!

Hồng Diệu