2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
4. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
1. Kênh Cô Vân (Trọn bộ) | 2-24. Kênh Cô Vân (Chương 1-23)| 25-47. Thái Hoàng Phi (Chương 1-23)
Mời đọc Bản đánh máy
Cô giáo Minh
Để đọc, xin nhấp chuột vào chương muốn xem.
Diễn đọc: 1. Cô Vân | 2. Thái Hoàng Phi
Mấy hôm nay, bệnh bà cụ lại cùng nguy kịch hơn nhiều, nhất là hôm trời trở rét. những cơn gió bấc đã làm bà cụ khàn đặc cả tiếng. Thỉnh thoảng cơn suyển nổi lên, bà cụ nhăn mặt, ôm ngực thở khò khè, tường như cứ thế, thì đến tắt hơi dần mà Iịm đi mất.
Có khi đang làm việc trong lớp, Minh chợt nghĩ đến lúc mẹ nằm đờ người, há hốc mồm mà líu lưỡi lẩm bẩm khấn Phật Trời phù hộ cho chóng được về với ông bà ông vải, thì Minh nóng ruột, sôi gan, những mong hết giờ để được loanh quanh bên giường bệnh.
Minh khẽ mở màn ra. Bà cụ gà gà ngủ. Nàng yên tâm, lắng tai nghe, thấy mẹ thở lúc to lúc nhỏ không đều, như rên rỉ mệt nhọc lắm. Nhìn mấy hòn than ở hỏa lò đun thuốc đã vạc, bỗng nàng thở dài. Nhưng một luồng hơi lạnh, thoảng vào mặt, làm cho bà cụ tỉnh giấc, mở choàng mắt ra.
Bạ cụ uể oải nhìn Minh, Minh đặt tay lên trán mẹ rồi dịu dàng, hỏi:
- Mẹ ngủ có lâu không?
Bà cụ vừa cố lắc đầu, vừa cố nói:
- Nào có ngủ được.
Minh đặt chồng sách đang cầm ở tay lên mặt bàn, rồi vén áo, trèo lên giường, ngồi ở phía trong. Mẹ Minh đưa mắt trông theo con, rồi cất giọng nhọc nhằn, hỏi:
- Không dạy võ?
Minh thò tay vào chăn, sờ nắm lấy cổ tay mẹ, rồi tủm tỉm đáp:
- Không, con xin phép về sớm.
Bà cụ lắc đầu, có ý không bằng lòng:
- Chớ thế nữa, cứ làm cho hết việc đã.
Minh cảm động, hỏi:
- Mẹ thấy thế nào?
Bà cụ lắc đầu, rồi nhìn Minh một lúc chòng chọc, như trong bụng còn điều gì muốn nói vậy. Một lát, bà cựa nghiêng, và bảo Minh:
- Này chị Giáo, ghé xuống mẹ nói chuyện.
Minh cúi gần mẹ, cố lấy vẻ mặt ngoan ngoãn để giấu sự bực mình, vì nàng đoán ra cả những lời mẹ sắp nói.
Bà cụ kéo mẩu chăn để đệm lưng, rồi thở hổn hển. Lúc bấy giờ cơn ho lại nổi lên. Bà cụ súng sắng ho, giật cả lưng lẫn tay để hắt ra những tiếng đau đớn như rút gan, rút ruột. Minh vội vàng ôm lấy mẹ, vuốt ngực mẹ, mà nước mắt chạy quanh.
Trận ho dữ dội vừa qua, bà cụ nằm lả trên tay Minh, lim dim, há miệng, nhăn mặt thở dốc ra và ú ớ kêu trời.
Một lát, bà cụ mở mắt nhìn con, lắc đầu nói:
- Chết mất! Con ạ.
Không thể đau thay mẹ được, Minh nhăn nhó:
- Khổ quá! Mẹ ơi!
Minh khẽ đặt mẹ xuống giường, đắp lại chăn. Bà cụ nói:
- Con ạ, đằng bà Tuần lại vừa cho người đến nói đấy.
Minh cau mặt, tức tối đáp:
- Họ ác quá, họ cứ bắt tội mẹ phải nghĩ ngợi.
Bà cụ đặt ngửa bàn tay răn reo vào lòng Minh:
- Thế thì con bằng lòng đi cho mẹ yên tâm.
Minh không đáp, nhưng lẩm bẩm:
- Họ lợi dụng cả lúc người ta ốm. Sao mà ích kỷ lắm thế!
- Cứ những cơn như vừa rồi thì mẹ tưởng chết ngay. Hay Trời Phật cho mẹ sống thêm ít nữa để liệu định cho con xong bổn phận của mẹ đã.
Minh rưng rưng nước mắt, nghẹn ngào:
- Mẹ yếu, con còn bụng nào nghĩ đến việc ấy nữa! Bận sau, mẹ nên làm cho người ta hết hy vọng để mẹ khỏi bị quấy rầy.
Bà cụ cựa tay, lắc đầu:
- Con lầm, mẹ hy vọng chứ không phải người ta hy vọng. Mẹ nói nhiều mệt lắm. Con nên vâng lời mẹ. Mẹ biết mình mẹ chẳng sông được mấy ngày nữa. Định liệu được cho con, thì mẹ chết mới yên tâm.
Thấy hai dòng lệ từ từ ứa ra mắt mẹ, và chảy từng nấc xuống thái dương gồ ghề, Minh sụt sịt khóc. Bà cụ nói tiếp:
- Người ta thuỷ chung, giữ lời ông Tuần giao ước với thầy nhà ngày xưa. Giá người khác, thì cứ như ông Tuần với thầy mất đi rồi, không bao giờ người ta nhắc nhỏm để thông gia với một nhà tầm thường như nhà ta nữa. Từ ngày thấy mẹ yếu, bà Tuần thỉnh thoảng đến chơi, lại hay biếu xén, thật là tử tế, quý hóa.
Rồi lả cổ tay, bà cụ lim dim mắt, thở hổn hển và nói rời rạc:
- Thế nào? Con có cho mẹ được hả không?
Minh cảm động quá, không biết đáp thế nào được. Nhưng nhanh trí, nàng vờ nhìn ra siêu thuốc.. rồi vội vàng nói lảng:
-Kià không khéo thì cạn hết.
Minh nhanh nhảu mở màn, xuống đất, đến ngồi cạnh hỏa lò, kênh nắp ấm và thổi lửa. Vẻ mặt trầm ngâm, trong khoảng khắc nàng vụt nghĩ lan man biết bao hiêu việc.
Nàng không muốn trả lời trước mặt mẹ nàng rằng không thuận lấy Sanh, một người nàng chưa thuộc tính nết, và nàng chưa biết mặt. Nàng không tò mò muốn biết mặt Sanh, vì nàng không bao giờ để ý đến Sanh dù nàng đã thấy nhiều lần, bên bà Tuần cho người sang nói chuyện.
Lời giao ước gả con cho nhau, theo ý nàng, chỉ là câu gắn bó cho thêm thân của hai người bạn thân nhau ngày xưa trong khi vui chuyện. Nhưng thời buổi mổi lúc một khác. Ngày nay, người ta trọng tự do, và cần tự do, nhất là trong việc hôn nhân, có quan hệ đến hạnh phúc một đời. Những cái các cụ ưa, không phải rồi con cháu cũng phải ưa. Nàng có học, lại biết nghĩ. Vả việc nhân duyên của nàng, quyền nàng được có người mà yêu mà quý để vợ chồng nương tựa lẫn nhau. Vậy chồng nàng phải là người của nàng. Thế thì khi con đã khôn lớn, bậc cha mẹ chỉ nên tự nhận là những người cố vấn mà thôi.
Rồi Minh so sánh các bạn, Mai thì được cha mẹ cho tùy tâm, nên đã vì ái tình mà kết hôn với một người trong ý tưởng. Loan thì vì sự gả bán ép nài, đến nỗi vợ chồng không hợp tính nhau, rồi bị mẹ chồng và chế độ gia đình cũ áp chế, nay hai người ly dị, suốt đời Loan tai tiếng hoặc lẻ loi.
Sở dĩ ít lâu nay, Minh không muốn nghe mẹ nói đến việc trăm năm của nàng, vì Minh đã yêu Nhã, là anh họ Xuân, một người bạn gái.
Đã ba năm nay, Minh và Nhã quen biết nhau, rồi yêu nhau. Cuộc quen biết gây nên đầu tiên vì những bài Nhã đăng báo. Minh phục Nhã là người có quan niệm mới về gia đình. Rồi những buổi gặp gỡ chuyện trò trong nhà Xuân, làm cho hai người hiểu nhau hơn. Minh ước ao được Nhã làm chồng, hay ít ra cũng được người chồng như Nhã. Nàng xem ra, Nhã cũng chỉ muốn có nàng làm vợ. Nhiều lần Xuân đã nói với Minh lòng ước ao của Nhã. Song, những cuộc gắn bó ngấm ngầm ấy chưa lúc nào lộ ra lời nói với nhau, chắc rằng tại một đôi khi, Minh có tỏ cho Nhã biết nàng chưa thể nghĩ đến chuyện thành gia thất, vì nàng cần phải gây dựng cho em trai nàng hiện đang đi học. Vả về phần Nhã, Nhã cũng vừa phải chịu tang cha chưa được một năm.
Từ khi mẹ nàng bị bệnh một ngày một tăng, thuốc thang đã thay đổi lắm thầy mà bà cụ chắc tránh chẳng khỏi số, thì mỗi khi nàng thấy bà mối của Sanh đến thúc giục tán tỉnh khéo léo với mẹ, nàng lại buồn. Nàng có kể tâm sự cho Xuân nghe, để câu chuyện đến tai Nhã. Song nàng tin rằng nàng không phải lấy Sanh, vì nàng không thể lấy Sanh, cho nên nàng không tuyệt vọng hẳn. Nàng có ngờ đâu phải nghe những lời nằn nì tha thiết quá của mẹ khi nãy đầu.
Bỗng nghe thấy tiếng phều phào của mẹ gọi, Minh giật mình. Nàng thưa, rồi vội vàng đứng dậy, trong bụng rối beng. Trước khi đến cạnh giường, nàng phải tự ra một câu hỏi:
- Có nên làm trái ý mình để yên lòng mẹ trong những giờ cuối cùng không?
Mở màn ra, Minh thấy mẹ ngơ ngác nhìn phía cửa, lắng tai nghe, rồi hỏi:
- Hình như có ai gọi?
Có tiếng gõ cửa thật. Bà cụ nhăn hàm răng ra cười khó khăn, nói:
- Mẹ còn sáng tai, có lẽ đêm nay chưa việc gì.
- Con đi mở cửa nhé.
Minh ra nhà ngoài, đắn đo lấy một tiếng trả lời dứt khoát của câu hỏi vừa rồi. Nhưng không thể được.
Nàng thờ thẫn và như cái máy, nàng vặn then cửa. Thì bỗng nàng rủn người sợ hết vía: Người đến chơi đó là bà cả Tài.
Bà cả Tài nhăn nhở cười, nói toang toang như quên là đến nhà người ốm vậy:
- Chào cô Giáo, cụ còn sốt không? Gớm ban nãy cụ ly bì lệt bệt, tôi sợ quá.
Minh chán nản, trả lời khẽ:
- Cảm ơn bà, mẹ tôi đang chợp mắt, mà tôi thì bận quá.
Minh không muốn tiếp bà cả Tài, nên nói thế. Vả nàng nhất định không mời. Nhưng bà cố đến đây có việc hệ trọng nên đi thẳng vào nhà trong. Minh giận đầy ruột, ngăn lại nói:
- Bà Cả! mẹ tôi ngủ. Bà vào thăm mẹ tôi, tôi cảm ơn bà, mời bà ở ngoài này nói chuyện cũng được.
Tài vừa đi vừa quay lại, ha hả cười:
- Bà cụ có ngủ được đâu. Tôi biết mà!
Minh bất đắc dĩ đi theo, rất bực mình. Chẳng phải Minh bực mình về cách khiếm nhã của Tài nhưng chính vì Tài là bà mối của Sanh.
Tài tay xách ghế mây đặt mạnh sát đầu giường người ốm, vừa ngồi, vừa vén màn, hỏi:
- Thế nào, cụ thấy sao?
Mẹ Minh giật mình choàng dậy, thấy Tài thì gật đầu, cười. Tài nhìn Minh, lắc đầu, nói thầm:
- Khó lắm.
Rồi nói to gọi Minh:
- Cô Giáo bắc ghế lại đây nói chuyện! Gớm! Tôi cũng là cái thân tội. Các ông các bà cứ làm rầy rà tôi mãi.
Nói đoạn trơ tráo, Tài cười một nhịp rất to và rất vô duyên. Minh bẽn lẽn đừng bên cạnh bà, quờ quạng cái tráp trầu. Tài lại gọi:
- Cô Giáo ngồi đây. Độ này cô hồng hào lắm nhỉ! Đừng quên tôi nhé.
Thấy Minh không đáp và cúi đầu, Tài hất hàm, liếc mắt hỏi ý bà cụ. Bà cụ lắc đầu. Tài biến sắc, rồi nghiêm nghị, nói:
- Này cô Giáo ạ, sao cô nỡ để cụ nói mãi về chuyện ấy thế? Còn đám nào hơn nữa mà cô phải đắn đo?
Minh nghẹn ngào không đáp. Tài lại nói:
- Ban nãy cụ lớn tôi bắt tôi đến đây nói chuyện nhưng cụ nhà vẫn chưa trả lời dứt khoát. Phải, Trời sinh ra thế, đằng nào cũng tùy ở cô. Này cô ạ, tội gì, bên ấy người ta mặn đáo để.
Thấy Minh thờ ơ quay mặt vào tường, Tài chép môi thì thầm với bà cụ, rồi nói to:
- Thật, tôi tưởng cậu Sanh làm rể cụ thì đáng lắm. Tuy người ta không làm gì, nhưng người ta con quan. Con quan mà chẳng danh giá như ông Tham, ông Đốc à? Thôi, cô làm dâu nhà ấy, thật là sung sướng. Cậu ấy thì hiền lành, ngoan ngoãn. Cụ lớn tôi thì phúc hậu chiều chuộng các con. Cô về đây, rồi muốn đi làm nữa cũng được, bằng muốn an nhàn, thì cứ xin thôi, người ta thiếu gì của chìm của nổi. Mấy cái nhà trên hàng Đường, cho thuê cũng thừa ăn thừa tiêu. Các cụ ngày xưa chọn con dâu ngay từ lúc bé mà khéo lạ! Cô Giáo nhà với cậu Sanh thật là tốt đôi!
Thấy ngứa tai, Minh đáp:
- Thưa bà, chẳng hay cụ lớn nhà có kham nổi hai hàm răng trắng của tôi không ạ?
Tài cười:
- Người ta cũng ưa tân thời đáo để đấy, cô ạ. Cụ lớn tôi thì kỹ tính cẩn thận, nhưng đến cái trung hậu, thương người thì không ai bằng.
Mẹ Minh gắt:
- Sao con nói càng làm vậy. Con không nghĩ đến mẹ một tí nào hay sao?
Nói đoạn, ôm ngực, ho. Minh vội vàng đỡ mẹ. Bà cụ lử người, thở dốc một hồi. Minh đau xót, lườm Tài, rất ác cảm. Một lát bà cụ gật đầu, gọi Minh, Minh cúi xuống nghe:
- Mẹ đã nói nhiều lần, vậy con hiểu bụng mẹ. Mẹ không còn sống được mấy nữa, mà con thì đã lớn. Giá con và em con thành gia thất cả rồi, thì mẹ thật yên tâm. Thế này thì thành ra mẹ chưa được việc gì đối với gia đình mà mẹ đã vội bỏ hai con bơ vơ, mẹ đành tâm thế nào được?
Minh ngậm ngùi, chùi nước mắt, không đáp.
- Mẹ còn ngoắc ngoải là để nghe ý định của con. Sống thêm ngày nào mẹ đau đớn thêm ngày ấy, con ạ.
Minh cảm động quá, sụt sịt khóc.
- Mẹ ơi!
Tài giục:
- Thế thì cô cứ ừ xem nó ra làm sao nào! Còn gì dễ cho bằng tiếng ừ nữa. Đứa trẻ mới học nó cũng biết ừ. Nào ừ đi chóng ngoan nào!
Rồi cho là câu pha trò đậm, Tài cười ngặt nghẹo.
Bỗng ở ngoài đường, một người âu phục lạ mặt thập thò dòm vào, và gõ cửa cạch cạch. Minh ngạc nhiên, những bỗng một tia hy vọng nảy ra trong óc nàng:
“Hay là người của Nhã?”
Nàng chạy ra cửa, vui vẻ như đón một vị ân nhân.
Thấy Minh nhìn, người âu phục cúi chào rất lễ phép:
- Thưa bà, chúng tôi hỏi thăm, đây có phải nhà bà giáo Minh?
Càng ngạc nhiên, Minh càng mừng thầm.
- Vâng, thưa ngài hỏi gì?
Vẫn lễ phép, người khách nói:
- Thưa bà, chúng tôi muốn giáp cụ để được hầu chuyện.
Minh khấp khởi:
- Thưa ngài, ngài cho chúng tôi biết ngài định hỏi mẹ tôi gì, để tôi vào nói trước, vì mẹ tôi yếu.
Người khách mỉm cười gật đầu:
- Thưa bà, cụ yếu, chúng tôi đã biết, xin bà tha thứ cho tôi sự đường đột này.
Lửa hy vọng ngùn ngụt trong lòng Minh:
- Không hề gì, mời ngài vào chơi.
Trong khi theo Minh, vị khách quý xưng danh và nghề nghiệp, thì ra ngài là chủ xe và đoàn đám ma...
- Tôi cứ liều như thế đấy, chị ạ. Bên ấy họ hứa rằng lương của tôi, họ không tơ hào một xu nhỏ, nghĩa là tôi có thể cứ nuôi em Lãng đi học như bây giờ. Nhưng tôi chắc lời hứa ấy là lời hứa nghị viên. Thôi, lấy Sanh thì tôi khổ một đời. Nhưng làm thế nào được?
Xuân cười thương hại:
- Làm con gái, sống vào cái xã hội nửa mới nửa cũ, thật là một cái tội!
- Thì chị tính một đằng mẹ tôi vừa nói dỗi vừa nằn nì, một đằng thằng chủ xe đám ma nó đến xin việc thì có họa là cục đất cũng phải động lòng, nữa là mình. Lúc ấy trong bụng tôi cứ thế nào ấy, tôi gục đầu vào gối, bất giác khóc. Nhắm mắt lại, tự nhiên chả nghĩ, tôi lại cứ nghĩ dại. Tôi tưởng tượng đến nét mặt nhăn nhó của mẹ tôi, có lẽ nếu mẹ tôi không được hài lòng về tôi, thì dễ bà cụ cứ nhăn nhó mãi. Như thế cho đến lúc tắt nghỉ.
Xuân khoanh tay trước ngực, gục đầu, cảm động:
- Thế là chị nhận lời?
Minh thở dài, khẽ gật đầu.
- Gia đình nhà ấy cổ hết chỗ nói, tôi chắc họ không chịu được tôi, mà tôi cũng không chịu được họ đâu. Nhưng mà, chị ạ...
Xuân ngẩng mặt. Minh tiếp:
- Có thể cứ nhận liều lúc này, rồi sau không giữ lời hứa không nhỉ?
Xuân lắc đầu:
- Không được.
- Thì này nhé, nếu nhờ trời mẹ tôi lại bình phục, thì tôi sẽ lựa lời nói với bà cụ sau. Trong lúc này mẹ tôi yếu nặng, tất đằng ấy họ không nỡ xin cưới ngay. Mà chẳng may, nói dại, mẹ tôi có mệnh hệ nào, thì một mình tôi, tôi càng dễ xử. Miễn là tôi ừ hữ cho bà cụ yên tâm lúc này, và cho con nặc nô khỏi đến làm như khách nợ.
Xuân thở dài:
- Thấy cảnh chị mà tôi đâm chán đời. Ra mình không có cả từ cái quyền tự do để sống cho mình nữa!
- Mẹ tôi chỉ nằm một chỗ để nghe cả họ nói tốt cho Sanh. Mẹ cả Tài nó khôn khéo, nó dắt Sanh đến nhà cô tôi và mợ tôi, thành ra các bà tán thành mãi.
- Thế thật chị không biết mặt Sanh?
- Không. Hắn có đến đây một lượt, nhưng tôi không có nhà. ấy thế mà nực cười, mẹ cả Tài thì đoán sao tôi cũng đã dò la Sanh, mà cam đoan là tôi biết thấu Sanh hơn! Vì họ tưởng mình chú ý đến anh chàng mình vàng mình bạc ấy lắm.
Xuân chán nản, nói:
- Thôi được, thế cũng là xong một việc.
Minh bĩu môi:
- Chắc có xong không!... Này chị...
Xuân hất hàm, Minh hỏi:
- Chẳng hay anh Nhã có biết tôi đau đớn không nhỉ?
Rồi hai mắt lờ đờ nhìn lên, nàng man mác nghĩ ngợi.
- Lúc chị cho đem thư đến đằng nhà bảo tôi lại chơi, thì anh Nhã cũng có đấy. Thấy chị nói việc cần, Nhã cười, và nói quả quyết:
- Tất là một việc thất vọng của tôi.
Minh chòng chọc nhìn Xuân, hỏi dồn:
- Anh ấy bảo thế? Anh ấy bảo thế à? Sao anh ấy đón ra nhỉ? Trời ơi! Thế thì khổ quá, chị ạ.
Nói xong, Minh gụt đầu vào bàn. Xuân thở dài, đứng dậy, đến ngồi cạnh hỏa lò, xếp lại mấy hòn than, rồi lẳng lặng lại cạnh giường mẹ bạn, lắng tai nghe. Bà cụ nằm im, nhưng tiếng thở vẫn khò khè đứt quãng.
Một lát, Minh đến gần Xuân, kéo tay bạn và cau mặt:
- Chị tệ lắm. Sao chị thấy tôi đau đớn lại thờ ơ làm vậy?
Xuân ngạc nhiên, hỏi:
- Chị định nói gì?
- Hay là chị sung sướng vì thấy xã hội đỡ được một người con trai chưa vợ mà tư cách tầm thường. Sao chị không trách tôi nỡ hững hờ với Nhã? Chị không yêu tôi nữa hay sao?
Xuân nắm tay Minh, ngậm ngùi đáp:
- Tôi thương chị lắm, không ai có thể thấu nỗi lòng chị bằng tôi đây. Mấy câu chị trách tôi vừa rồi thật là những nét bút tô vào nỗi lòng của chị đối với tôi cho thêm đậm! Chị ơi! Nhã đau đớn ngần nào, chị đau đớn ngần ấy. Sở dĩ đứng trước việc quan trọng này của chị mà tôi ít lời bàn tán, vì tôi không muốn làm rối thêm sợi tơ vò đã nhầu. Tôi không muốn ích kỷ mà nhạo báng cuộc nhân duyên của chị với Sanh, vì Nhã là anh họ tôi. Chị không hiểu cho tôi như thế à?
Nói đoạn, hai chị em âu yếm dắt tay nhau ra sân đứng chơi.
Trên trời màu tro, mấy ngôi sao lẻ loi, xanh lợt như ngọn đèn sắp tắt. Ngước mắt lên, thấy cảnh lặng lẽ, mù khơi, Minh thở dài:
- Chắc bây giờ bên nhà bà Tuần vui vẻ lắm nhỉ. Phải, họ vui vẻ từ chiều, vì họ đã giết chết hai cái đời đương nồng nàn yêu nhau.
Xuân mỉm cười, không đáp. Minh lại tiếp:
- Chẳng hay anh Nhã bây giờ đang nghĩ gì nhỉ? Anh ấy có thương tôi không chị?
Xuân lắc đầu:
- Chị nhu nhược lắm. Chị nên can đảm mà chịu lấy cái đau khổ, rồi đành lòng mà quên đi. Không nên mong những sự an ủi ở ngoài. Nhất là không nên so sánh cảnh nọ với cảnh kia, vì so sánh thì bao giờ ta cũng thấy chán nản cái đời hiện tại.
- Chị chỉ hay triết lý hão huyền, chị có ở trong địa vị tôi đâu mà chị biết. Chị ạ, hẳn bên bà Tuần họ tưởng rằng tôi hiện đương sung sướng lắm đấy nhỉ.
Xuân gắt:
- Thôi, tôi đi về đây. Chị muốn tôi ngủ với chị đêm nay ở đây, thì tôi cấm chị không được nhắc đến chuyện ấy nữa.
- Chị cho tôi than thở cho hả, chị bắt tôi câm mà uất lên nữa hay sao?
Xuân vờ lắng tai:
- Hình như bà gọi chị.
Minh và Xuân rón rén chạy vào. Mẹ Minh cũng vừa sực thức.
Rồi một trận ho, một cơn suyễn, bà cụ nằm gục trên tay Minh. Mấy chị em và người nhà, đầy tớ cuống quýt nhìn nhau, sợ xanh mặt.
Suốt đêm hôm đó, bệnh bà cụ trở lắm chứng kinh hồn. Mười hai giờ đêm, một ông lang đến, rồi lắc đầu đi ra. Hai giờ sáng, một ông lang đến, cũng lắc đầu đi ra. Minh trông thấy mẹ chỉ còn hơi sức tàn mà phải cố quằn quại với con ma bệnh khốc liệt, nàng xót xa, ti tỉ khóc. Lại còn bao nỗi niềm chua xót, cũng khiến nàng nghĩ ngợi dãi dầu, đến nỗi sáng hôm sau, soi gương nàng thấy mắt thâm quầng, da xanh lợt.
Minh làm giấy xin phép một hôm, nhờ Xuân đưa đi hộ, nhưng phải nói dối mẹ là được nghỉ lễ.
Vào khoảng tám giờ, Minh lại thấy bà cả Tài đến. Lần này thì Tài vênh váo như ông tướng vừa thắng trận. Tài vui vẻ hỏi thăm, nhưng khi nghe nói bà cụ không còn hy vọng lấy một phần, thì vội vàng về báo tin cho bà Tuần biết.
Thấy mẹ như hòn than mỗi lúc một vạc dần, Minh mê lên. Họ hàng bà con buồn bã, ai cũng đều sụt sịt, và bàn bạc việc ma chay.
Giữa lúc rộn rịp ấy, Tài lại đến, đi với một bà nữa.
Hai người khoan thai, đến tận giường bệnh, mở màn ra, lễ phép gọi:
- Thưa cụ! Chúng tôi chào cụ.
Minh lãnh đạm nhìn, nhưng Tài cứ yên tâm nói:
- Thưa cụ! Chúng tôi chào cụ.
Minh cáu tiết, không hiểu họ đến gây cảm tình hay ác cảm, mà lại vụng dại đến như thế!
Mẹ Minh nghe tiếng, vẫn nhắm mắt, ú ớ nói:
- Không dám! Tôi chết mất.
Minh cố nói cho ngọt ngào:
- Mời hai bà ra chơi nhà ngoài. Mẹ tôi mệt quá, không thể tiếp chuyện được, xin hai bà miễn trách.
Tài thò tay vào chăn, sờ chân bà cụ, rồi nhìn bà kia, hớt hải:
- Hỏng, không khéo thì không kịp.
Đoạn, nói với bà cụ:
- Thưa cụ, bên cụ lớn tôi cho bà Phán tôi đây là em cụ lớn ông tôi đến để xin với cụ cho phép cụ lớn tôi đón cô Giáo tôi về, vì hôm nay là ngày lành tháng tốt.
Minh choáng người như bị sét đánh, nàng trừng mắt. Thấy mẹ không trả lời, nàng cáu tiết nói:
- Thưa hai bà, xin hai bà về bẩm với cụ lớn hộ rằng việc ấy cụ lớn hãy để cho thong thả, vì hiện nay mẹ tôi không được tỉnh táo.
Rồi nàng lẩm bẩm một mình:
- Mẹ người ta sắp chết mà cũng đến xin cưới! Đi đâu mà vội thế.
Bà Phán làm như không nghe tiếng, nói to:
- Thưa cụ, chị chúng tôi nhân hôm nay ngày lành tháng tốt, cho chúng tôi đến để xin phép cụ cho chị tôi lo việc cho cháu.
Bà cụ ú ớ, nói không rõ. Họ hàng quay xúm lại, im phăng phắc.
- Thưa cụ, chị chúng tôi vẫn định thế nào cũng lo cho cháu vào năm nay, vì cứ tuổi hai cháu thì cưới năm nay tốt lắm. Chị chúng tôi toan đến tháng chạp này cho thong thả, nhưng vì thấy cụ yếu nặng, nên muốn xin cụ ngay hôm nay để cháu Cả có được mừng tuổi cụ.
Ngồi nghe, Minh nao nao cả lòng. Thấy cô, dì, chú, bác đứng đông, xì xào, bàn tán, nàng không dám nói chọc tức nữa, nhưng nàng nhìn mọi người bằng đôi con mắt nằn nì, giọt lệ chạy quanh.
Bỗng bà cụ mở mắt ra nhìn mọi người, rồi đáp:
- Xin vâng.
Minh lạnh toát người, run rẩy. Nàng bèn xuống đất, rồi vào nhà trong rưng rức khóc. Nàng như thấy cái giờ chết đã đến. Nàng tiếc đời.
Ngoài nhà, bà Phán vui vẻ, nói:
- Chị chúng tôi định đến giờ Ngọ thì xin rước dâu. Và cụ dạy cho những gì chị chúng tôi xin có đủ chu tất.
Bà cụ đáp rời rạc:
- Vâng, mời hai bà ra ngoài bàn việc.
Nói xong, bà cụ khò khè lên cơn suyễn, trợn lòng trắng mắt lên để thở. Ai nấy cuống cuồng lay gọi.
Bà Phán cười lạt, nói một mình:
- Ấy thì cũng phải nói qua loa những điều cần để cụ nghe, cho được việc đã, chứ chả dám dùng lời đưa đẩy văn hoa gì.
Rồi ngoái cổ vào trong:
- Cô Giáo làm giấy xin phép nghỉ nửa tháng nhé.
Mọi người xúm cả ra nhà ngoài. Minh cố gượng sức để ra ngồi cạnh mẹ. Nàng nhất định không thèm để tai vào một lời nào ở ngoài kia. Cô nàng, thím nàng, thỉng thoảng chạy vào để hỏi xem ý nàng thích thứ gì để sắm sửa, nhưng nàng gắt:
- Thế không ai thương mẹ cháu hay sao? Cả họ định giết cháu hay sao?
Nhất định, nàng không đáp lời nào cả. Ruột nàng rối như mớ bòng bong.
Thì giờ vẫn trôi. Tiếng quả lắc đồng hồ chạy rất mau và rất to. Mười lăm phút, nửa giờ, qua rất chóng. Bà cụ lạnh hết chân tay, rồi đến bụng. Mười một giờ. Bà cụ đã đâm mê, không nuốt được thuốc nữa.
Cả nhà cố tìm cách để cầm bà cụ cho qua được lúc mười hai giờ. Người thì tính tiêm thuốc. Người thì kiếm quế tốt.
Minh như cái xác không hồn, chỉ biết ôm lấy mẹ vào lòng, và mỗi chốc lại quệt nước mắt, thất vọng.
Bà cụ không nói được nữa. Ngực lạnh. Mười một giờ rưỡi, mắt đã trợn lòng trắng. Mười một giờ băm nhăm, hai nút bông lỗ mũi phập phồng yếu hơn. Mười một giờ bốn mươi, đầu mũi lạnh. Mười một giờ bốn nhăm, bà cụ giật mạnh chân tay, rồi lịm đi. Minh đặt mẹ xuống giường, tru lăn tréo lộn. Minh vật vã như điên như cuồng. Chấp tay vái cuống quít, rồi gọi vang:
- Tôi lạy cả nhà, cho ai đến bảo đằng bà Tuần hoãn đám cưới lại cho tôi.
Tiếng bàn tán lại xôn xao. Minh ôm mẹ, khóc lóc. Cả nhà sụt sịt. Bỗng có tiếng bảo:
- Họ nhà trai đã đến!
Cả nhà chạy cuống cuồng, xếp dọn chỗ ngồi.
Minh càng tru tréo, vật mình vật mẩy. Mấy người phải ghì lại, và khênh nàng lên gác. Minh nằm dườn như chết.
Lúc ấy, văng vẳng, Minh nghe thấy cô dỗ dành:
- Chị cứ chịu khó dậy, rồi trang điểm và mặc quần áo, rồi đi cho xong lễ.
Minh quật mạnh tay xuống giường. Thét to:
- Trời!
Rồi lăn lộn, mếu máo:
- Họ bắt cóc tôi!
Cô Minh bịt mồm:
- Ấy chết, chớ nói càng, chị Giáo! Trong nhà chưa phát tang, cưới còn được. Vả mẹ mất rồi lấy lại sao được nữa! Chị cứ nghe tôi, làm như mẹ chưa việc gì, rồi trang điểm và mặc quần áo. Rồi đến chiều các lễ xong, thì lại xin về ngay mà!
Minh mệt, nằm lả, vừa thở vừa nói lảm nhảm
Bà cô lay vai, luống cuống, khuyên:
- Thôi, thôi mà! Khách ngồi đầy cả dưới nhà rồi. Dậy!
Nói đoạn, bà lôi Minh xềnh xệch như lôi một người tù nhát gan lên đoạn đầu đài.
Thật là một cái tội!
Lúc ấy, người ở các nhà gần đó, toàn là những mặt quen cả, xúm lại quanh Minh, chỉ trỏ, ngắm nghía, dòm vào tận mặt nàng, như họ xem một vật mới lạ.
Mùi hoa thơm thoang thoảng nhẹ đưa vào mũi, Minh nhìn hai bên, chợt soi thấy bóng mình thấp thoáng ở mặt kính, cũng trát phấn, cũng bôi son, cũng gọn gàng khăn áo. Nàng lạnh lùng, mỉm cười đau đớn, hỏi Xuân đi phù dâu:
- Dễ thường cổ lai không có ai lấy chồng như tôi đấy nhỉ?
Xuân nhănmặt, không bằng lòng, rồi nói lảng chuyện.
Một đoàn mười chiếc xe hòm, nối đuôi nhau, thong thả, đi từ cuối hàng Bông, quặt sang ngỏ Trạm, đến hàng Vải thâm, rồi rẽ về hàng Giấy, theo hàng Đường, hàng Ngang, hàng Đào, rồi lại về hàng Gai.
Minh cảm tưởng như tên tù ngồi trong củi bị người ta giải đi đày, nàng khoanh tay, thần người, không nghe, mà cũng không nói.
Đoàn xe rước dâu đỗ. Tiếng pháo nổ, khói ngùn ngụt bay lên. Những mảnh giấy màu cánh sen, lăn tăn rắc thành một tầng giấy trên vỉa hè. Tiếng lẹt đẹt liền nhau, luôn trong ngót nửa giờ mới dứt.
- Thôi, mời chị dừng đây.
Thấy Xuân nhắc, Minh ù tai, tê tái, uể oải, đứng lên, thở dài:
- Nào! Thì đứng.
Xuân khuyến khích:
- Lấy chồng là bước sang thế giới mới, sung sướng thay.
Minh cười:
- Phải, sang Tân thế giới!
Nàng đi giữa mọi người, bước theo vào trong làn khói mù mịt, bâng khuâng như sa vào hang chuột bị hun. Lúc ấy, mùi thuốc pháo làm nàng khó thở, thành ra mắt nàng không trông rõ gì, tai nàng không nghe rõ gì, nhưng cũng đoán ra đông người xem nàng lắm. Bất giác nàng thấy thẹn thò e lệ, bèn cúi mặt nhìn xuống, khoan thai vào trong buồng.
Ở trong buồn, cái gì cũng mới mẻ và rực rỡ. Nàng nhờ Xuân khép cửa lại, rồi ngắm. Nàng cảm động nhất khi trông thấy cái giường trải chiếu hoa đỏ cạp điều, mé giáp tường một cái chăn hoa đào xếp gọn ghẽ trên đặt đôi gối xa tanh tiết dê. Gần trần nhà, thì cái màn the màu phớt hồng căng phẳng phiu ở bốn cái lao đầu bịt giấy đỏ.
Nàng đau đớn nghĩ đến mẹ nằm chết trong cái buồng tạnh ngắt, chờ khi đám cưới xong xuôi mới được người ta mó tay đến khâm liệm; càng thấy người ta cười nói nồng nàn, nàng càng thấy trong mình tâm hồn lạnh lẽo.
Một lát, cô Minh và bà cả Tài vào:
- Nào, cô Giáo ra đi lễ.
Minh đứng dậy, theo mọi người, và ngượng nghịu vẫn không dám nhìn ai.
Nàng cứ đến một chiếc chiếu, là ngồi thụp xuống cuống quít vớ tà áo. Hễ người ta ấn đầu xuống là nàng uốn lưng để lễ. Thật ra, nàng chẳng biết lễ những chỗ nào.
Khi trở về buồng, Minh thấy Xuân hằm hằm sa sá mắng:
- Thế mà cũng chịu. Sao chị không biết giữ nhân cách?
Minh ngạc nhiên:
- Làm sao chị?
- Chị chịu lễ mừng tuổi cả chồng chị à? Làm chúng tôi đứng ngoài mà nhục thay!
Minh trợn mắt lên, hoảng hồn.
- Thế à? Khổ quá! Nào tôi có biết gì đâu. Tôi chỉ thấy hai bên chiếu rặt những chân người đứng xem. Thôi chết rồi! Thảo nào, hình như có một người đàn ông ngồi trước mặt tôi, vì tôi nhận ra ở đôi giầy ban, cái ông quần là, và cái vạt cả của hai chiếc áo gấm. Thì ra đó chính là Sanh. Khốn nạn, tôi có để ý gì vào sự lễ bái đâu!
- Phải, mà nét mặt thì vênh váo.
- Sao chị không bảo tôi?
- Thôi, việc qua rồi, không nói đến nữa, thêm bực mình.
- Thế tôi lễ những đâu?
- Trước tiên, thì lễ ở chỗ thờ, sau đến lễ tơ hồng, rồi ra mừng tuổi bà Tuần rồi đến đức lang quân.
Rồi ngẫm nghĩ một lát, Xuân nói tiếp:
- Thế này thì ra lễ nghi lại trái ngược hẳn với lẽ phải. Đáng lẽ đôi trẻ chào nhau trước, rồi tế tơ hồng, đoạn mới chào cha mẹ, và cáo gia tiên sau mới phải chứ nhỉ!
Xuân hỏi Minh:
- Đã hai năm rõ mười đức anh chường chưa? Không đến nỗi đâu, chị ạ.
Minh lắc đầu, chống tay ngơ ngẩn.
Họ nhà gái sau khi uống nước và dùng rượu cùng bánh ngọt, thì cáo từ ra về.
Thím và cô Minh chạy vào buồng dặn Minh:
- Thôi, chị Giáo ở lại, thím và cô về đây.
Minh rộn rạo, ngậm ngùi, rưng rưng khóc:
- Thế thím và cô không xin cho cháu về bây giờ à?
- Ai lại thế. Chúng tôi đưa chị về nhà chồng. Bây giờ là họ nhà gái lại nhà, thì chị về theo sao được.
- Nhưng thím và cô có nói trước với bà Tuần cho cháu không?
- Có. Bà bảo được. Rồi chốc nữa, chị cứ ra mà xin lại nhé. Cả hai vợ chồng cùng về nhé. Ở nhà ta chắc bận lắm, nhưng chị cứ yên tâm.
Minh buồn bã, chào thím, cô và họ hàng bạn hữu, rồi ngồi lại một mình thở dài.
Đồng hồ điểm ba tiếng.
Minh trơ trọi ở trong buồng, buồn quá, mà ruột thì nóng như thiêu đốt. Minh chờ Sanh vào, để bảo xin phép mẹ cho nàng về, nhưng mãi không thấy. Lắng tai nghe nhà ngoài, nàng biết rằng khách đến mỗi lúc một đông. Tiếng nói cười vui vẻ ồ ạt, không nghe rõ gì cả. Thỉnh thoảng, trước cửa buồng nàng, một cái bóng người vụt qua, ra dáng vội vàng, bận rộn.
Chờ mãi hết cả hy vọng, nàng nghĩ:
“Hay là họ sung sướng quá mà quên đứt mất người chịu đau đớn này chăng?”.
Minh mạnh dạn đứng dậy, ra mở cửa chờ. Thấy con Vú sắp đi qua, Minh gọi lại:
- Vú! tôi hỏi.
- Dạ, thưa mợ hỏi gì?
- Cậu cả đâu?
Con Vú nhìn Minh, tủm tỉm cười:
- Thưa mợ, con không biết.
- Vú tìm cậu, nói với cậu vào tôi hỏi nhé.
Con Vú không đáp, nó phì cười một cách ranh mãnh, cắm cố chạy, rồi đến bếp, nó nói:
- Gớm! Mợ bạo quá!
Minh bực mình, bèn liều ra nhà ngoài. Nhưng nàng chẳng rõ mẹ chồng mặt mũi thế nào, thì biết ai mà hỏi.
Thấy cô dâu đến, hàng trăm con mắt ngạc nhiên đổ dồn cả lại mà nhìn. Minh ngượng hết sức. Nhưng Tài đã chạy đến, vui vẻ nói:
- Phải, mợ ra ngoài này ngồi chơi cho vui.
Minh đáp:
- Tôi muốn bẩm với cụ lớn.
Tài đùa:
- Mẹ tôi, chứ lại cụ lớn!
Minh thẹn:
- Mẹ tôi ngồi đầu thế, bà?
- Cụ lớn ở trên gác. Mợ đi với tôi.
Minh theo Tài. Bọn đầy tớ ở dưới bếp trông lên bưng mồm, cười rúc rích. Tài đưa Minh vào tới gác trong, rồi nói to:
- Bẩm cụ, cô dâu muốn hầu cụ ạ.
Một giọng ngọt ngào ở trong đưa ra, khàn khàn như bị vướng màng mỡ:
- À, mợ Cả vào đây mẹ hỏi chuyện. Muốn chừng hai vợ chồng đã khéo dặn nhau cùng đến một lúc hay sao!
Rồi bà Tuần nấc lên cười. Minh tự nhiên thấy hởi dạ. Nàng rón rén, hồi hộp bước vào. Nàng được dịp may, vừa rõ mặt cả mẹ chồng lẫn chồng một lúc.
Bà Tuần là một bà mệnh phụ làm cho nhiều người phải giật mình. Nếu người ta bảo sự béo tốt là cái dấu riêng của những người được sung sướng, thì bà Tuần hẳn là sung sướng có thừa, vì không kể các đồ phụ tùng, bà nặng tám mươi tư cân rưỡi. Bà đồ sộ ngồi xếp bằng tròn ở sập gụ, trên trải chiếc đệm gấm cũ, có nhiều chỗ lõm méo, in hình hai quả dưa hấu to. Cái chân sập khổng lồ với cái đùi bà không phải cãi nhau lâu về sự to bé. Cằm, bà không có, vì bà không cần chỗ để mọc râu, nên nó đã khôn ngoan, lẩn tịt vào với cái cổ rụt. Tuy vậy, người ta vẫn nom rõ hai cái cằm đại biểu ở dưới má bà. Mắt bà không thể liếc nhìn được xuống chân, vì nó vướng bộ ngực kiên cố như bức thành xi măng cốt sắt lúc nào cũng canh gác bằng hai ngọn súng thần công.
Cậu cả Sanh, so với mẹ, thì là cái thái cực. Toàn thể người cậu là bộ Vong quốc sử chép rất công phu, bởi vì nó bi quá. Từ trán, mắt, má, mũi, miệng, cằm, tai, cho đến mình, chân, tay, chỗ nào cũng là một hồi ghi sự thua trận. Cái gì cũng lủn củn, khẳng khiu, ươn hèn yếu ớt. Lúc nào cậu cũng có thể gợi tình cảm bằng bộ mặt buồn rời rợi của thánh Găng-đi, nhưng là thánh Găng-đi chưa hề nhịn đói. Thầy tướng thì bảo cậu hình con mộc, mà sung sướng ở bộ tóc. Chỉ vì bộ tóc mà đi đâu cậu cũng được người ta nhìn. Bộ tóc đặc biệt ấy, nó loăn xoăn, nó lồng bồng, nó ríu món nọ với món kia, kết cao lên thành một cái bẫy ruồi rất nhạy.
Thoạt thấy chồng, Minh sực nhớ ngay ra là người ít lâu nay vẫn ngó ở cửa trường lúc giờ học trò tập võ và nhiều lần lại nhìn Minh làm Minh khó chịu.
Thấy vợ vào, Sanh đứng dậy, yểu điệu tránh rén sang bên tường, nhưng hai mắt dán lên để nhìn chòng chọc.
Bà Tuần giương mục kính, nghếch mắt nhìn con dâu. Rồi ngay lúc ấy, các bắp thịt ở mũi ở má ở cằm đồng thời làm một việc là có đôi môi bà loe ra thành một nụ cười dậm dọa. Bà tươi tỉnh trỏ cái ghế:
- Mợ ngồi đây. Đây mợ nhìn cậu nó xem. Rõ khổ chửa. Nhà ta nào thiếu cao lương “ngũ” vị để tẩm bổ mà người vẫn như cái tăm. Tôi không dám cho cậu nó học nhiều nữa.
Rồi bà ngoác mồm thật to để thả rông một nhịp cười, hình như cốt làm người nghe phải loạn cả trí xét đoán.
Minh cúi đầu chắp tay, không lẽ đứng yên, nên:
- Dạ.
Bà Tuần chép miệng, lên giọng thiết tha:
- Giá còn thày, thì có phải đám cưới cậu mợ hôm nay linh đình bao nhiêu không. Mà con em Oanh nó cũng không phải vất vả lắm.
Chẳng muốn để mẹ chồng tranh lời mãi, Minh vội nói:
- Bẩm mẹ, con xin phép mẹ cho con về.
Bà cụ cau mặt, ngạc nhiên, hỏi ngọt ngào:
- Ô hay! về làm gì thế con?
- Bẩm mẹ, mẹ con đằng nhà mới...
Bà Tuần nhớ sực ra, nhìn con trai, há hốc mồm nói:
- À! ừ nhỉ! Ra mẹ quên mất đấy.
- Bẩm mẹ, con xin phép mẹ cho con về, kẻo ở nhà đợi con.
Vẫn ngọt ngào, bà Tuần nói:
- Mợ về sao được! Ai lại dở hơi thế!
Minh lạnh toát người:
- Bẩm mẹ, từ lúc mẹ con mất, con chưa được khóc mẹ con một tiếng nào.
- Thôi, đừng về, mợ ạ.
Minh run lên, nghẹn ngào:
- Bẩm mẹ...
- Không, mợ cứ nghe mẹ. Một đời mới có một năm, một năm mới có một tháng, một tháng mới có một ngày. Hôm nay ngày lành tháng tốt, mẹ đã chọn kĩ, thì con phải ở lại, sáng “mơi” hãy về.
Minh rưng rưng nước mắt:
- Bẩm mẹ, nhà con nhiều việc, con cần phải về ngay, đến mai thì muộn quá.
Bà Tuần trợn mắt, sợ hãi nói:
- Chết, đừng nói tiếng ấy, tên thày, con phải gọi là “mơi”. Mà tên mợ cũng trùng với tên bà ngoại đây. Phải đổi là “Miêng” nhé.
Rồi bà bảo con trai:
- Cậu phải dặn mợ ấy những tiếng phải kiêng nhé.
Minh bực mình, nhăn nhó:
- Bẩm mẹ, con xin phép mẹ cho con về, kẻo ở nhà chờ con.
Bà Tuần dỗ dành:
- Thì tôi đã bảo thế kia mà. Mợ về, bà cụ có sống lại được đâu. Cứ tối nay, là mợ không thể vắng nhà này được. Nó sái đi, mợ hiểu chưa?
Minh thất vọng, sụt sịt khóc. Biết không thể rửa được óc cổ hủ của bà Tuần, nàng bèn xuống nhà dưới, vào buồng nằm.
Nước mắt nàng từ đồ cứ tuôn ra như suối. Nàng thổn thức khóc một mình. Nàng giận hết cả mọi người đã nói dối nàng. Rồi nghĩ vơ vẩn, và vì đã phải thức ròng rã mấy đêm, nên nàng mệt ngủ thiếp lúc nào không biết.
Nhưng được một lúc lâu, tiếng cười nói xôn xao ở ngoài làm nàng sực tỉnh. Lúc ấy khách khứa đang uống rượu. Người ta chúc chú rể và cô dâu. Người ta pha trò để cười. Người ta vặn kèn hát. Người ta đốt pháo. Người ta làm ồn ào như cái chợ. Minh như bị xé ruột gan.
Nàng thở dài, ngồi dậy vấn đầu. Nàng băn khoăn không rõ hiện bây giờ ai chủ trương trông nom việc mẹ. Hay ở nhà cứ lóng ngóng chờ nàng. Nàng chỉ muốn thét lên một tiếng thật to cho đỡ uất ức.
Nàng tưởng tượng đến nét mặt khô đét xanh xao của mẹ. Nàng nghĩ lại đám cưới của nàng ban trưa. Nàng cảm thương nàng phải giam hãm đêm nay. Nàng không thể cầm được nước mắt để khóc cái tình cảnh của nàng bị đày sang Tân thế giới. Rồi nàng khóc ti tỉ ra tiếng. Rồi nàng khóc to hơn. Rồi không ngăn được, nàng tru lên những tiêng não nùng lanh lảnh:
- Ơi mẹ ơi!
Nhà ngoài đương ồn ào, bỗng im phăng phắc.
Rồi cánh cửa buồng mở toang ra, bà Tuần lạch bạch chạy vào, nén sự tức giận, ngọt ngào vỗ vai nàng, gọi:
- Mợ Cả! Không được. Mơi hãy khóc. Mợ phải tươi vui lên mới được chứ!
Minh vẫn gào thảm thiết:
- Mẹ ơi!
Bà Tuần đỏ mặt, trợn mắt, cuống quít nói:
- Dại nào! Mơi về nhà mới được khóc. Mợ không được khóc ở đây. Mẹ không bằng lòng tí nào. Mợ nghĩ kĩ lại xem. Ở nhà đang có việc vui mừng, như thế thì còn ra thể thống gì nữa.
Minh lau nước mắt, nhưng vẫn thổn thức:
- Thế này thì tôi chết mất. Trời ơi!
Bà Tuần giận quá, gọi:
- Cậu Cả đâu rồi! Cậu phải cấm mợ ấy, không có phép khóc như thế.
Nói đoạn, bà khuỳnh tay hầm hầm đi ra. Minh nghe thấy tiếng một người con gái nói giọng mát mẻ:
- Vô ý vô tứ quá, đem mà khóc mẹ ở nhà có đám cưới, làm mất cả cuộc vui của người ta!
Minh mở cửa, ra sân lấy nước rửa mặt, rồi đội khăn, mặc áo sẵn sàng.
Nhưng bà Tuần chưa dậy, vì hôm trước bà mệt thức khuya để đánh tổ tôm. Vả ngày thường, bà cũng vẫn ngủ muộn.
Minh bảo chồng lên gác đánh thức mẹ, nhưng Sanh rụt rè mãi. Song, vì thương và chiều vợ, nên Sanh đùn cho Oanh đến chỗ mẹ ngủ, vờ vẩn đi mạnh và nói to.
Quả nhiên bà Tuần mất giấc ngủ. Bà cựa, vươn vai, oằn oài một lúc, rồi tung chăn ra, ngồi nhổm dậy. Bà cau có, uể oải, lại cho hai chân vào chăn, vớ lấy cái áo lót lông cừu khoác lên lưng. Và chống tay xuống giường, ngồi ngẩn mặt.
Minh rón rén, bước vào, nói:
- Bẩm mẹ, con xin phép mẹ cho con về.
Bà gật đầu, rồi trỏ tay xuống chân giường. Minh không hiểu chi cả, bụng bảo dạ hay mẹ chồng lại sắp ra một lệnh oái oăm nữa hay sao? Bà vẫn trỏ mà không nói. Thấy Minh ngơ ngác, bà ngửa cổ lên, bảo:
- Ống nhổ.
Minh nhịn cười, nhanh nhảu chạy cầm ống nhổ đặt lên giường. Bà lê cả khối thịt phệnh đường lại gần cúi đầu, thả ra một bãi nước bọt phong phú, đoạn bà vừa ngáp và nói:
- Ừ, con về nhé. Đạo làm con, nên giữ chữ hiếu làm đầu, mà nghĩa tử là nghĩa tận, con nên làm cho thế gian người ta trông vào nhé. Mẹ ái ngại cho con lắm. Thôi, nó cũng là cái số, bà cụ như thế, con không nên buồn, nghe chưa?
Không muốn đứng lâu để phải nghe những lời nói vớt đuôi suông lạt, Minh vâng, nhìn ra cửa.
Bà Tuần giơ tay:
- Khoan! Thế cậu nó đã sắm sửa xong chưa?
Sanh chạy vào, nói:
- Bẩm xong ạ.
- Ừ, mẹ cho hai vợ chồng con đi nhé. Rồi mấy giờ đưa bà cụ, thì con cho người về báo cho mẹ biết, để mẹ cho người đến phúng, nhân tiện mẹ đi một thể nhé.
Rồi bà nhìn Minh, ái ngại Minh thưa:
- Bẩm mẹ, chắc nhà con bề bộn công việc, mà họ hàng con thì tùy con chủ trương, con xin phép mẹ ở lại đằng nhà đến sáng mai.
Vừa nói đến đó, Minh nhận thấy sáu con mắt nghiêm trang đổ dồn cả lại mình, như sáu khẩu súng chĩa ra sắp bắn. Oanh hỏi:
- Chị xin phép mẹ đến bao giờ thì về nhỉ?
Thấy em chồng có ý hoạnh, Minh bực mình biết rằng sắp phải nghe một câu trả lời trái ý, nhưng nàng cố tươi cười.
- Mai, cô ạ.
Bà Tuần nghiêng đầu, ghé tai, nheo một bên mắt để nghe:
- Mợ xin đến bao giờ?
- Bẩm mẹ mai...
Nhưng sực nhớ ra, nàng chữa:
- À quên, mơi ạ.
Ngay lúc ấy, sáu khẩu súng mắt đồng thời hạ cả xuống. Bà Tuần ôn tồn đáp:
- Được, mợ cứ về.
Minh vái chào, toan ra, thì bà gọi giật lại:
- Này mợ cả, thế cậu nó không dặn gì mợ à?
Minh ngạc nhiên:
- Bẩm không.
- À, hèn nào, mợ ăn mặc lôi thôi thế. Mợ ạ, đã đành rằng vợ chồng con về vì việc bà cụ, nhưng mẹ không muốn để người ngoài biết thế. Vậy thì hôm nay cậu mợ đi, là đi nhị hỷ. Vậy mợ cần phải khăn áo chỉnh tề như hôm qua, kẻo phố phường người ta nói, nghe chưa?
Minh thấy mẹ chồng gàn dở, thưa:
- Bẩm mẹ, con tưởng mẹ con bên nhà mất, giá mẹ cho phép con về ngay hôm qua, người ta cũng không thể nói vào đâu được.
Bà Tuần nhăn mặt, lắc đầu:
- Không phải. Hôm qua mẹ giữ mợ là tại mẹ không muốn cho mợ về như thế, sợ nó sái. Nhưng hôm nay là ngày nhị hỷ thì phải cho ra nhị hỷ không có người ta lại bảo đám cưới thiếu nhị hỷ thì còn ra thế nào.
- Bẩm mẹ, con tưởng chỉ có bên nhà với nhà con là có quyền trong đám cưới này. Hiện bên nhà con tang tóc, còn ai nghĩ đến việc vui, mừng nữa.
- Không, mợ không biết, mợ còn trẻ người non dạ lắm. Mẹ lại chẳng muốn tỉnh giảm các công việc hay sao, nhưng ở chỗ phố phường, mình cần phải giữ cho người ta khỏi nói. Mà người nói thì nói mẹ, chứ các con có phải để vào tai đâu. Thế thì cậu mợ cứ nghe mẹ. Nhất là nhà ta lại là nhà quan, thì càng nên “kiển” thận.
Biết rằng nói nữa chỉ mất thì giờ vô ích. Minh hặm hực xuống nhà thay áo. Rồi hết đứng lại ngồi, thở dài, nàng chờ đến mãi tám giờ, Oanh mới sửa soạn xong lễ vật lại mặt.
Một chiếc ô tô hòm kín đưa bà Phán và cô dâu chú rể mặc toàn áo gấm rực rỡ, đi loanh quanh một vài phố đông đúc rồi mới đến nhà Minh.
Vừa bước chân xuống đường, Minh thấy trong nhà câu đối, khăn, áo, trắng lôm lốp, tiếng khóc ồn ào, nàng hoa mắt lên, ôm mặt, chạy thẳng vào phía màn thờ đèn thắp sáng trưng, lăn lộn khóc rầm rĩ. Họ hàng, bạn hữu ai nấy ái ngại. Cô Minh đập vào lưng nàng và trách:
- Chị mãi thú vui, chẳng nghĩ gì đến mẹ, đến cửa nhà cả. Bây giờ mới khóc! Thôi, hãy vào thay khăn áo đi, con hay khách mà ăn mặc thế kia, người ta cười cho đấy!
Nàng cực lắm, khóc to hơn, rồi thấy em Lãng lôi thôi cái áo xô, mũ chuối gậy vông, nàng âu yếm, nỉ non, kể lể:
- Chị khổ lắm, em ơi!
Lãng nhìn Minh, ái ngại, song chẳng hiểu cái gì cả. Minh sụt sịt nhìn vào cái xô sổ gấu, khăn ngang của nàng. Nàng biết rằng mặc những thứ này vào, rồi về nhà chồng sao cũng có chuyện; song nàng bực dọc, nói với Lãng:
- Hôm nay, chị không là còn mẹ nữa hay sao?
Khăn áo xong, nàng gật đầu sụt sịt, lễ ở bàn thờ hai lễ. Rồi nàng đứng dậy vào trong nhà, chỗ giường mẹ, để nhìn mặt mẹ một lần cuối cùng. Song than ôi cái giường người ta đã khênh đi, để chỗ đặt cái quan tài mà nàng thấy Nhã đương lúi húi quệt hồ, phất giấy đỏ.
Cảnh không ngờ ấy làm cho nàng đứt gan đứt ruột. Nàng đứng lặng một giây đồng hồ, trợn mắt nhìn, rồi chạy mau gần chỗ có hai linh hồn thân yêu, nàng ôm chầm lấy quan tài, cất lên tiếng khóc lanh lảnh.
Tiếng bi thảm ở tận đáy lòng mà ra, mới thiết tha não nùng làm sao. Nhã đứng yên cúi đầu, tâm hồn man mác, lạnh lùng, chàng nhắm mắt, thở dài.
Lăn lộn một lúc, Minh mệt, bèn lên gác nằm nghỉ. Họ hàng, bạn hữu xúm lại hỏi chuyện và nói chuyện. Minh biết rằng mọi công việc đã sắp đặt xong xuôi, và đến mười giờ thì đám tang khởi hành. Nàng lại rất cảm động vì thấy các bạn, nhất là Nhã đã tất lực giúp đỡ các việc như người nhà. Nàng than với Xuân:
- Nào ngờ đâu Nhã không là rể, mà hết lòng như con.
Rồi liếc mắt, nhìn xuống nhà ngoài, Minh thấy Sanh mặc áo thụng trắng phủ áo gấm, ngồi vắt chân chữ ngũ, run đùi và uống chè tàu vặt.
Tự nhiên nàng ngượng hộ chồng lạ lùng, trơ trẽn, bẽn lẽn; rồi chẳng muốn mình cũng đóng vai thừa trong gia đình, Minh gượng dậy, xuống nhà trông nom gióng giả các công việc.
Gần mười giờ, có tin báo xe tang đã tới. Người chủ xe trịnh trọng vào nói với Minh xin để dùng xe bốn ngựa, vì bà cụ mất thế là hợp cảnh lắm.
Cả nhà không bằng lòng, nhất định không trả tiền thêm, vì trước kia chỉ mặc cả có hai ngựa, nhưng vừa lúc ấy thì bà Tuần vào.
Bà Tuần ở trên xe bước xuống đất. Cố nhiên là đôi díp xe được vuổn vai. Bà kệ nệ vào trong, chào mọi người, rồi chép miệng phàn nàn:
- Khốn nạn, tôi không ngờ bà cụ trở bệnh chóng thế.
Đồ lễ bày lên án, bà thong thả đặt cái thân lềnh kềnh xuống chiếu, xếp gọn các vạt áo, rồi vừa lễ vừa nói rất thân mật với linh hồn dâu gia:
- Bà mẹ vợ khôn thiêng, phù hộ cho con rể nhé.
Rồi rán sức đứng dậy, bà nhìn Lãng đáp lễ. Bà giúm cả mắt lẫn môi lại để nở ra một nụ cười hổ phù, rồi nói với mọi người:
- Gớm! thương hại bà cụ quá! Giá khỏe mạnh mà sống lấy ít ngày nữa, có phải hai nhà đi lại thân thiết sầm uất không nhỉ! Thế quan tài kê đâu?
- Thôi ạ, xin cụ lớn chước cho, rước cụ lớn ngồi chơi ạ.
Bà vẫn cười:
- Ừ, hỏi cho biết thế thôi. À, mợ cả đâu nhỉ?
Minh tiến lên, thưa:
- Dạ.
Bà lại gần con dâu, nghểnh lên, ghé vào tai, thì thào dặn dò, ra dáng rất thân mật:
- Kinh tế này, không nên bày vẽ xa xỉ, nghe chưa con! Gọi là đủ lễ thì thôi, chứ ma chê cưới trách, biết thế nào cho phải được. À, mẹ có đem phúng một cân chè, bốn chai rượu, vàng hương và mười đồng bạc, nó đã nói với mợ chưa nhỉ?
- Bẩm đã.
- Này, chè tốt đáo để, những ba đồng tám một cân đấy. Có khách hãy pha, chứ đừng làm phí làm hoài đi nhé.
Một lát đồng hồ điểm mười tiếng. Giờ đã đến. Ở trong buồng, tiếng khóc nổi lên như ri. Bọn phu vào chuyển cữu.
Bà Tuần đang ngồi nhai trầu phóm phém, thấy cái quan tài đỏ lù lù tiến đến gần, vội vã đứng dậy, hớt hơ hớt hải, cắp ô, lạch bạch ra cửa, đứng tận hè phố bên kia.
Sanh chấp tay đi theo cữu. Nhã tới tấp, hết ra lại vào, dặn dò các người.
Đám tang cử hành. Người đưa đám rất đông. Ai nấy im phăng phắc. Không có một tiếng khóc. Không có một tiếng nói.
Người hai bên phố, đứng cả lên bục hàng, hoặc châu đầu trong cửa chấn song sắt, có vẻ chuồng gấu. Họ chỉ trỏ nói:
- Kia kìa, cái người tóc xoắn tít đây.
Bà Tuần phải một mình tự khênh lấy cả tám mươi tư cân rưỡi của mình nên không biết kêu ai được. Bà nực lắm, quệt mồ hôi, phùng mồm ra, thở phù phù. Bà vừa đi, vừa mặc cả rau. Đám ma đi gần hết hàng Gai bà bước thong thả dần. Rồi đám ma đi quá nhà bà, bà che ô lắp mặt, vờ vịt đứng lại, rồi đánh tháo, yên trí rằng không ai trông thấy.
Trời có nắng đâu. Mùa thu ảm đạm đã nhuộm cảnh vật bằng một màu ảm đạm. Suốt từ sáng, vùng trời trắng đục. Ngọn gió may thỉnh thoảng làm xào xạc mấy chiếc lá vàng rơi giạt lênh đênh trên mặt hồ xanh.
Minh lặng lẽ, cúi đầu, trầm ngâm. Nàng đưa mắt nhìn lên, thấy Nhã nghiêm trang, rắn rỏi, trong bộ quần áo nát nhầu. Chồng nàng thì vẫn để tay bưng miệng đi sát gần bọn Xuân và các bạn gái.
Vì lúc hạ huyệt, Minh kêu gào vật vã, lăn lộn quá nên thành ra khan tiếng, về đến nhà, nàng nằm vật trên giường. Và cũng vì ít lâu nay lao tâm lao lực nhiều, nàng thấy gây gấy sốt.
Vào khoảng sáu giờ chiều, Lãng đến gần nàng nói:
- Chị ơi, anh cả bảo chị đi về đấy.
Giận đầy hơi đến cổ, Minh bảo em:
- Em nói với anh về trước, chị sẽ xin phép cụ Tuần ở nhà tối hôm nay rồi. Anh có biết rằng chị sốt không?
- Có.
Cô Minh chạy lên, hỏi:
- Thế nào? Lại phải về ngay thế à?
- Thưa cô, mẹ cháu đã cho phép rồi. Đó là nhà cháu không biết đấy ạ.
- Ừ, có thế chứ! Công việc bề bề thế này, chứ có phải ở lại chơi đâu. Vả lại đầu nóng hôi hổi thì đi thế nào được. Cô tưởng bà ấy không cho, thì bà ấy nghiệt quá.
Minh nghe tiếng nghiệt, động lòng, thở dài.
Xuân vào thăm Minh. Minh kể lể tình cảnh cho bạn nghe, rồi nói:
- Nhờ chị cảm ơn anh Nhã hộ tôi nhé.
- À, này, anh Nhã và anh Sanh khi nãy nói chuyện với nhau mãi. Nghe chừng hai người tương đắc đáo đế.
Minh cười lạt:
- Không khi nào! Hai người không thể là bạn nhau được. Chắc rằng nhà tôi tưởng Nhã là họ hàng nhà vợ, nên chuyện trò đó.
Xuân bật cười:
- Mà anh Nhã lại tiếp Sanh, như chủ nhà tiếp khách.
Câu chuyện đương dở, thì Lãng đưa thằng xe bên bà Tuần đến cạnh giường Minh nằm. Thằng xe nói:
- Bẩm mợ, cụ sai con đến đón mợ về.
Minh cáu tiết, ngồi nhổm dậy gắt:
- Về về cái gì! Cụ cho phép tao ban sáng bây giờ cụ bảo về là cái gì?
- Bẩm mợ, cụ con bảo thế.
- Cậu về chưa?
- Bẩm rồi ạ.
- Tao không về. Tao bận. Tao ốm.
Xuân can:
- Chớ thế. Chị không nên bướng. Cô dâu mới hãy nên phục tòng mẹ chồng.
Thím và cô Minh biết chuyện cũng khuyên ngăn Minh và bảo Minh không nên ở lại. Minh căm hờn đứng phắt dậy, sắm sửa qua loa rồi đi, vừa đi vừa lẩm bẩm:
- Vô nhân đạo!
Rồi bảo thằng xe:
- Mày cứ đi trước, chốc tao về. Tao không cần đi xe tao không cần mày đón.
Thằng xe ra cửa, Minh nói to tướng:
- Đành rằng về thì về, cũng phải tự do mà đi, chứ không phải cho người áp giải như dẫn tù mới được!
Cả nhà nhìn Minh, thương hại, nhưng không ai đang tâm đổ dầu thêm vào đống lửa, mà lai khuyên can nữa.
Đến bảy giờ, Minh ngồi trước bàn thờ mẹ, lễ bốn lễ, rồi sụt sịt khóc:
- Mẹ ơi, nếu con biết rằng mẹ cho con đi lấy chồng là mẹ mất con, thì thà con chịu bất hiếu với mẹ còn hơn.
Rồi nàng dằn mãi câu:
- Được chồng thì mất mẹ! Đời ơi là đời!
Xuân tiễn Minh đi đến nhà bà Tuần thì thuê xe đi thẳng.
Minh đứng cửa, lắng tai nghe ở trong, vẫn còn khách khứa nói cười vui vẻ xôn xao. Nàng chưa vào vội, hãy ngắm nghía phố xá và những người qua lại. Còn một mẩu tự do, nàng cố hưởng cho hết. Nàng quên cả mình đương sốt, gió máy cần phải kiêng.
Rồi thấy lạnh, nàng giơ tay toan gõ cửa, nhưng lại dừng. Nàng đứng thần người ra đến năm phút, để ngắm nghía một lần nữa. Nàng thèm cảnh ngộ của hết cả mọi người mà nàng chắc rằng được tự do hơn nàng.
Một lát, chịu không nổi sương gió, nàng thấy chóng mặt cần về nằm nghỉ ngơi. Nàng gõ cửa. Có tiếng hỏi ai, rồi cái lỗ tròn mở ra, nàng thấy mặt cô em chồng ngó. Nàng làm bộ vui vẻ, tiến lại gần nói:
- Cô mở cửa cho chị với.
Oanh không đáp. Cái lỗ tròn lại đóng sập. Minh sắp sửa để vào. Nhưng không có tiếng động then cửa. Nàng băn khoăn đứng chờ. Bỗng ở trong nhà, Minh nghe rõ bà Tuần gắt:
- Cậu ra bảo mợ cậu, tôi không cho vào như thế.
Minh rụng rời, càng thấy rét run. Nàng biết có chuyện xảy ra, nhưng chưa rõ chuyện gì cả.
- Mợ!
Đủng đỉnh lại gần, Minh bảo:
- Cậu mở cửa cho tôi vào.
Sanh nói nhỏ:
- Mẹ không cho mợ ăn mặc thế này đâu.
Minh cau mặt, mát mẻ, hỏi:
- Thế mẹ không cho phép tôi để trở mẹ tôi à? Sanh dịu:
- Không phải thế. Nhưng trước khi mặc đồ tang mợ phải vận áo thường, về lễ tạ mẹ và xin phép mẹ trước đã. Mẹ giận vì mợ không bẩm qua gì mẹ cả.
- Thế mẹ cũng chấp trách à? Mẹ không biết rằng mẹ tôi chết, thì tôi phải để trở hay sao? Hẳn là mẹ không thể nào không cho phép được.
- Biết rồi, nhưng cái phép như thế. Này, mà những người xuất giá rồi, không được dùng áo gai, mà áo thường cũng không được sổ gấu đâu. Hôm nay mợ mặc thế là trái đấy.
- Ai bảo cậu thế?
- Mẹ vừa bảo xong.
- Mẹ bắt tôi thế à?
- Không phải, đó là mẹ theo trong lễ.
- Lễ gì lại có cái lễ gàn dở dã man thế!
Sanh thấy vợ mỗi lúc một nói to, biết rằng vợ tức, bèn dỗ dành:
- Mợ ạ, mẹ khắc lắm, đã bảo cái gì thì không ai có thể nói lại được. Hiện mẹ còn tức mợ lắm. Mẹ vừa gắt tôi rầm rầm. Ban nãy thấy tôi về một mình mẹ làm um lên, nói rằng đi lại mặt, sao lại về lẻ loi thế. Vậy mợ nên chiều tôi, hãy lại đằng nhà, thay áo tử tế, rồi về xin phép mẹ đã.
- Thế ra...
- Thôi, đi đi, kẻo mẹ thấy tôi đứng đấy lâu, mẹ lại hỏi.
- Cậu có biết tôi sốt không?
Sanh nhăn nhó:
- Có, nhưng mẹ đã bảo thế, không nghe mẹ, mẹ không cho vào đâu.
Dứt câu, Sanh đóng ập lỗ lại. Minh cắn răng, tức run lên. Lúc ấy, nàng nghe rõ ràng tiếng Oanh nói với anh một giọng rất đong đưa:
- Đấy, đã bảo mà. Bọn cô giáo là rắn đầu rắn cổ đáo để.
Minh giận đầy hơi, nhưng không lẽ liều đứng suốt đêm ở nơi sương gió. Nàng bất đắc dĩ phải về nhà.
Họ hàng Minh thấy Minh thì ngạc nhiên. Sau khi Minh nói chuyện, thì cô nàng bảo:
- Phải, bà Tuần phải, hớ là tại người nhà mình. Người lớn thì bận túi bụi, còn ai nghĩ đến điều ấy. Các cô ấy còn ít tuổi, ai bảo cho mà biết!
Thím Minh đáp:
- Nhưng cũng là nghiệt quá. Ai lại đối với con dâu mới, mà đã giở những lối ấy ra sớm thế. Đã đành rằng có con dâu thì phải dạy, nhưng cũng nên bảo dần dần.
Minh nói:
- Thưa thím, mẹ chồng dạy con dâu theo ý mình tức là muốn bắt con dâu làm nô lệ những cái gàn dở, hủ bại, dã man.
Cô Minh mắng:
- Chị nói càn lắm. Đi làm dâu, chị phải biết nhẫn nại. Bây giờ mình nghe theo mẹ chồng mình, thì sau này mình mong con dâu mình nó nghe theo mình chứ!
- Thưa cô, thế gọi là cuộc bắt nạt đời đời. Ngộ mẹ chồng có đủ các tính xấu, nàng dâu có đủ các tính tốt, thì ai nên theo ai?
- Chị lý sự lắm. Ở nước ta, một trăm nhà, thì chín mươi chín nhà mẹ chồng nàng dâu có chuyện. Nếu ai cũng lý sự như chị cả, thì ngay như cô đây cũng không ở được với bà cụ nhà cô từ độ mới về nhà chồng. Ta phải nhẫn nại mới được!
- Nhưng cháu muốn có một người mẹ chồng biết lẽ phải và thông minh.
Thím Minh bật cười:
- Thôi, chị giáo, thay áo mau lên rồi về mà dạy mẹ chồng. Những các cô này thì hình như lại muốn làm mẹ mẹ chồng kia đấy!
Minh không dám cãi lại. Một lát, cô Minh thở dài:
- Phải, chuyện mẹ chồng nàng dâu ở nước ta thì nói đến hàng ngày không hết. Chị giáo muốn không có chuyện ấy, thì đi mà thay áo thay khăn, rồi liệu mà về, kẻo muộn. Không nên để người ta nói đến người lớn không biết bảo. Nhất là chị nên coi mẹ chồng như mẹ mình, thì tự nhiên chị thấy sự phục tùng vui vẻ.
Minh hậm hực, đứng dậy lẩm bẩm:
- Nhưng biết rằng mẹ chồng có coi nàng dâu như con đẻ hay không?
Lúc bấy giờ Minh sực nghĩ ra rằng nàng không có áo khác ngoài cái áo gấm mặc về hồi buổi sáng. Thế thì làm thế nào? Nàng mượn áo của cô, của thím, nhưng không sao nong tay vào được. Bất đắc dĩ đành liều cho cực nhục được đủ trăm chiều, Minh thở dài, phải mặc áo gấm vậy.
Khi đội khăn xong, nàng nhìn bóng nàng trong gương, thấy có vẻ rực rỡ, vui vẻ, nàng rất cảm động. Những ngọn nến trên bàn thờ cháy đượm, nàng tưởng hình như mắt mẹ nàng giương to ra để trông nàng. Nàng đưa mắt lên ảnh mẹ rồi đau đớn, bảo Lãng:
- Em ơi, mẹ thấy chị ăn mặc đồ cưới trong khi đại tang, mẹ thương hay mẹ mắng nhỉ?
Lãng cười, thương hại:
- Nét mặt trong ảnh thì bao giờ chả như bao giờ.
- Ừ, giá mẹ khôn thiêng có phép gì đổi được nét mặt ở ảnh, thì chắc lúc này mẹ phải nhăn nhó!
Cô Minh giục:
- Thôi, chị Giáo đi về đi. Muộn rồi.
Minh thở dài, chào mọi người, lạnh lùng đi ra cửa.
Đến nhà chồng. Minh gõ cửa gọi. Sau một tiếng đáp, cái lỗ con lại mở ra. Nhưng lần này thì đóng ập ngay lại.
Minh khinh khỉnh, quay mặt nhìn ra phố. Nàng quyết phen này, lúc vào, sẽ lãnh đạm để tỏ cho mẹ chồng hiểu.
Song, chờ mãi, cửa vẫn chưa mở. Bực mình, Minh đã toan trở gót về phắt nhà, rồi nó muốn ra sao thì ra.
Nàng vừa nghĩ thế, thì then cửa lạch cạch, rồi hai cạnh cửa rít lên mở toang ra.
Tiếng ồn ào của bọn khách và hơi người, hơi rượu, hơi mỡ, được dịp cùng thoảng ra, và cùng một lúc, nàng thấy một mùi khói rất khó ngửi.
Oanh đứng nép vào tường, trỏ xuống đất bảo Minh:
- Mẹ bảo chị hãy hơ qua vào đây đã.
Minh ngạc nhiên nhìn. Lúc ấy nàng mới trông rõ và ngửi rõ mùi bồ kết đốt trong cái bát đầy than đỏ.
Oanh lại nói:
- Cho hết hơi lạnh hãy vào, chị ạ.
Minh giận quá, nhìn Oanh, Oanh hiểu ý, nói:
- Ban nãy, mẹ với anh Cả cũng phải làm thế đấy.
Minh không đáp, thở dài, hơ qua loa cho xong việc, rồi chán ngán, nàng vào, đi thẳng đến buồng, định lên giường nằm.
Nhưng bà Tuần chẳng để cho Minh được thực hành cái ý định. Bà gọi Minh lên gác, và bảo:
- Nhà người ta ai cũng vậy, con ạ. Đi làm dâu thì phải biết phép làm dâu, không có người ta cười cho. Con mới về đây từ hôm qua mà vì không hiểu lẽ phải nên hình như con không bằng lòng mẹ. Mẹ phiền lắm.
Minh toan nói, bà Tuần đã tiếp:
- Mẹ rất nhân từ, đối với con nào mẹ cũng thương yêu, cho nên mẹ phải dạy.
Minh đưa đôi mắt khinh đời và sự im lặng ra để cãi mẹ chồng. Vì nàng chắc là lối cãi ấy lễ phép và có nghĩa lý thâm trầm bằng vạn lời.
Bà Tuần cười lạt:
- Thôi, lần này, mẹ tha thứ cho con, mẹ cũng không bắt con phải xin phép và lễ tạ mẹ nữa, vì mẹ nghe nói hôm nay con vần vật suốt ngày thành ra bị cảm. Cho con đi mà thay quần áo.
Minh chẳng dạ cũng chẳng vâng, nàng quay lưng đi xuống nhà, khép cửa buồng lại.
Nàng đứng lặng trước đóng áo tang mà thở dài. Nàng lấy làm phục cô nàng có thế nhẫn nại với mẹ chồng. Vẩn vơ, nàng nghĩ không biết mẹ Nhã rồi có cay nghiệt với vợ Nhã hay không.
Chợt nàng thấy khe cửa có con mắt nghé vào. Nàng biết rằng Oanh, bèn đập cái nọ, quật cái kia, rõ mạnh để trêu tức.
Một lúc lâu, Minh vẫn thấy Oanh đứng đấy. Nàng không hiểu em chồng lò mò cái gì. Nàng đưa tay lên cởi khuy áo gấm, thì kẹt một tiếng, cánh cửa mở ra:
- Chỉ Cả lên mẹ gọi.
Thấy bộ mặt đanh đá của em chồng, nàng không thèm trả lời, vẫn cởi khuy áo. Oanh lại nói:
- Chị hãy gượm, lên mẹ gọi đã.
Minh đủng đỉnh:
- Vâng, để tôi thay khăn áo rồi tôi lên, vội gì.
Oanh xua tay:
- Không được, chỗ này không phải chỗ chị thay được.
Minh không chịu nổi lời láo xược và vô lý của em chồng, nàng hỏi:
- Buồng này là buồng ai?
Bà Tuần đứng sẵn đâu gần đó, bèn nói to:
- Oanh! Hỗn nào! Ấy là chị em với nhau đấy. Mà chị mày mới về được hơn một ngày, mà đã dám sinh sự, mày tai ngược lắm. Lăng loàn! Cái gì thế mợ?
Bà Tuần vào đến buồng, Minh đáp:
- Bẩm mẹ, cô Oanh bảo mẹ gọi con. Cô ấy lại cấm không cho con thay khăn áo. Thế là cô ấy trái lệnh mẹ.
Bà Tuần quắc mắt nhìn Oanh:
- Xà! Con bé, lên nhà! Bận sau đối với chị phải cho lễ phép, ngọt ngào! Thế nó bảo mợ làm sao?
- Bẩm, cô ấy bảo chỗ này không phải chỗ con thay.
- À, con bé lý sự! Hỏng! Thôi, nó là em, có điều gì không phải, mợ nên bảo nó, hoặc mách mẹ để mẹ mắng nó.
Thấy mẹ bênh, Minh toan nói cho mẹ chồng biết nàng không thể chịu được những cách ngạo ngược của một người em, nhưng bà Tuần đã ngọt ngào hỏi:
- Nó ngăn mợ thay gì?
- Bẩm thay khăn áo tang.
- Thế à? Mẹ cho phép mợ rồi kia mà! Thế thay ở đâu?
- Bẩm mẹ ở đây, ở trong buồng con ạ.
Minh cho lý mình cứng, thì dù mẹ chồng có thiên chăng nữa, cũng không sao trách mình được. Nàng giơ tay, cởi nốt khuy. Nhưng bà Tuần lại ngọt ngào hơn hỏi:
- Thay đồ tang ở đây đấy à?
- Bẩm vâng ạ.
- Ờ! Thế thì nó nói phải. Nhà này có phải tang gia đâu. Mợ phải về đằng ấy mà thay mới được chứ.
Minh choáng người, lúc ấy mới hiểu bụng mẹ chồng là hay thử thách, thâm hiểm, trong khoảnh khắc, nàng đâm ra sợ, nàng tự thấy đã đi lầm vào một nơi đầy những kẻ thù nghịch vì thói quen, vì gàn dở, vì hủ bại hoặc vì dốt nát. Bà Tuần nghiêm trang nói:
- Mợ lại có ý không bằng lòng mẹ thì phải.
- Bẩm mẹ, con tưởng thay cái áo cái khăn ở đây thì có hề gì?
- Chẳng biết có hề gì hay không, nhưng có kiêng có hơn chứ. Các mợ trẻ người non dạ, chắc cho mẹ là trái. Song, mợ nên vâng lời mẹ, về nhà bên ấy mà thay.
- Bẩm con sốt, mẹ đã biết, nếu con đi lại nhiều lần, e sương gió. Con xin mẹ cứ để cho con ở đây cho được việc.
Bà Tuần cau mặt:
- Không văn “miêng” thế được mà! Thôi mợ đi mau lên, mẹ cho thằng xe nó kéo mợ.
Thấy mẹ chồng dạy mình văn minh, Minh uất lên, không chịu nổi nữa, nàng cau mặt hung hăng nhìn mẹ, định cãi lại bằng câu nghĩ chắc chắn. Nhưng khi thấy cả thân hình bà Tuần còn làm bằng một đống thịt chắc chắn hơn nhiều, tự nhiên nàng đâm nhụt, rồi không biết làm thế nào để lộ nỗi đau khổ hơn nữa, nàng bưng mặt khóc.
Bà Tuần nhăn mặt, cười đắc thắng, rồi sai con ở chia bài, dọn chỗ đánh tổ tôm.
Đợi Minh đi khỏi, Oanh lên mặt tiên tri nói với mẹ:
- Rồi mẹ còn khó chịu nữa kia. Con đã bảo anh Sanh, rước những hạng gái mới răng trắng rẽ lệch về, chỉ tổ ỏm tỏi cửa nhà, làm khổ mẹ thôi mà!
Vì một việc thay đổi khăn áo. Minh mất cả buổi tối. Cũng may, vì nàng uất lên, nên quên cả bệnh. Nàng về một mình, nhất định không dùng xe nhà. Vả cái xe theo lệ thường, ngay từ chập tối, đày tớ đã tháo đi một bánh mà cất ở gầm sập trên gác rồi. Thế thì chờ lắp xong bánh xe, cũng đến nửa đêm.
Nhà Minh đã đóng cửa, họ hàng đã ai về nhà nấy. Thím Minh thấy Minh kể chuyện, thì trách bà Tuần khéo vẽ. Nhưng bà cũng an ủi cháu nên giữ cho trọn đạo làm dâu.
Đến mười giờ. Thím Minh cam đoan không còn điều gì cho bà Tuần bẻ hoẹ nữa, bà giục Minh về, kẻo khuya. Minh chào thím và từ biệt em, rồi chán nản bước chân ra cửa.
Thình lình, mắt nàng trông thấy một người thanh niên, dáng đi rất quen.
Nàng chú ý nhìn, bỗng giật mình, nàng thốt lên một tiếng: “Nhã”. Trái tim nàng đập mạnh, tưởng làm đến vở ngực. Nàng mừng quá. Nàng cho là trong lúc đau khổ, trời lại đền nàng một dịp may để than thở cùng cám ơn người yêu. Nhã đi thực mau, trước nàng độ mười thước. Nàng toan gọi, nhưng không dám vì nhà hàng phố còn mở cửa. Nàng rảo cẳng bước theo. Nhưng Nhã cứ cúi đầu đi, đi mau quá, không nhìn quanh nhìn ngửa, nên mỗi lúc một xa nàng hơn. Thấy mệt, vả gần đến nhà, Minh thất vọng, bèn đi chậm lại, đăm đăm mắt nhìn theo hút.
Minh ngắm bộ điệu rắn rỏi của Nhã thở dài, ước ao Sanh của nàng cũng có ít cử chỉ đường hoàng như Nhã.
Bỗng Minh thấy Nhã đứng dừng lại trước cửa nhà chồng nàng. Rồi sang hè phố bên kia, chàng nghểnh cổ nhìn mãi lên gác. Minh ngạc nhiên. Nàng cố gắng sức đi cho tới. Một lúc, ý chừng thấy cửa gác đóng Nhã lại sang bên hè này, đứng sát vào cửa. Lúc ấy Minh gần theo đến nơi thì hồi hộp mừng. Nàng trông rõ Nhã áp tai vào ván cửa, rồi lách mắt ngó qua khe. Trống ngực Minh thình lình, nàng cảm động vì không ngờ Nhã lại đậm tình quá như thế. Rồi khi cách Nhã chừng năm thước nữa, Minh cuống quít đánh liều gọi khẽ:
- Anh Nhã!
Nhưng Nhã không nghe tiếng, và ngay lúc ấy, chàng quay phắt ra, lại cúi đầu, bước vội vàng như trước, Minh thất vọng chạy theo gọi to:
- Anh Nhã!
Nhã vẫn không nghe tiếng, thì Minh vừa đến trước cửa nhà. Nàng tuyệt vọng, đứng thần người trông theo, lau mồ hôi trán.
Lúc ấy hai cánh cửa nhà Minh thình lình mở toang. Minh giật mình quay vào: Oanh tiễn một bà khách.
Thấy Minh đứng đó, Oanh tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Vừa rồi ai gọi ai, mà em nghe tưởng tiếng chị!
Oanh chờ mẹ dậy để mách tội chị cho hả dạ. Nhưng bà Tuần đêm qua, đánh tổ tôm mãi đến ba giờ sáng mới cho tan.
Nóng cả ruột cả gan, Oanh ngồi thừ ở ghế. Thôi, nhưng ai không nên không phải, chốc nữa đã có mẹ mắng chưởi, về sau đã có Trời trừng phạt. Hiện giờ, nàng chỉ biết thở dài, buồn cho nhà vô phúc, rước phải cô nàng dâu tai ngược.
Sanh thì về quê ngoại, trong Hà Đông từ ban nãy. Vì vậy, chẳng có ai để nói chuyện cho đỡ uất, nàng càng ngẫm nghĩ đến Minh.
Rồi như muốn nuôi lòng giận, Oanh đứng dậy, vào buồng Minh.
Oanh mở cửa, đứng dừng lại, đưa mắt một lượt, ra dáng khó chịu lắm.
Nàng ngắm cái chăn xếp xem có bày ngay ngắn không. Nàng trông cái màn vắt xem có được phẩng phiu không. Nàng kéo ngăn bàn, mó tay vào hộp phấn. Nàng mở ống son đánh môi, bôi một tí vào đầu ngón tay trỏ, rồi lấy ngón tay cái xoa xoa. Nàng sa sầm nhìn từ trên xuống dưới cái áo bông bay kiểu mới treo trên mắc. Nàng cầm lấy, đưa ra gần cửa sổ, soi lên sáng, sờ lần gấu, cái khuy vuông rồi ướm vào mình. Thấy nó dài thườn thượt, nàng bĩu môi một cái. Nàng giở tập báo tìm mục truyện dài, rồi soát xem có mất số nào không. Nàng lục chồng sách dầy, thấy rặt những tiểu thuyết là tiểu thuyết. Nàng lắc đầu. Quyển nào cũng nhảm cả. Nàng ngó mặt vào cái khóa hòm da, và so với chiếc chìa của nàng rồi ướm thử. Nàng lật cái ảnh nửa người của Minh ép lẫn trong chồng sách. Nàng tỏ vẻ hoàn toàn khinh bỉ. Ngờ đâu chị dâu nàng lại ăn mặc không đứng đắn và có dáng điệu trai lơ đến như thế. Ai lại chụp ảnh mà đi rẽ lệch, quấn tóc, và liếc mắt, toét miệng ra cười bao giờ. Hai hàm răng trắng
nhởn như bầu, trông dơ quá. Sợ bẩn mắt, bẩn tay, Oanh cau mặt vứt ảnh xuống bàn, kệ cho nó suýt làm đổ lọ mực.
Rồi Oanh lại ngắm đi ngắm lại cả buồng. Nàng nhắc hòm lên xem nặng hay nhẹ. Rồi không còn cái gì đáng nhìn nữa, nàng đưa mắt qua mặt bàn, bỗng tự nhiên lại thấy cái ảnh. Nàng lại nhìn nó, thò tay tới, cầm, xem. Nàng giơ xa, giơ gần. Nàng thấy Minh đeo vòng vàng, mặc cái áo hoa sặc sỡ và gài kín cổ. Nàng bĩu môi, đặt ảnh xuống. Rồi nàng lại cầm. Rồi tình cờ cái gương to trước mặt chiếu hình nàng ở trước mắt nàng. Nàng nhìn hình nàng, rồi lại ngắm chiếc ảnh. Nàng ngắm từng li từng tí cả nàng lẫn ảnh. Bỗng một tay, nàng thong thả đưa lên trán, kéo lượn món tóc xuống. Nhưng nó trĩu thấp quá, nàng giắt mãi lên không được. Nàng bèn ngó qua cửa, lắng tai nghe. Rồi nàng tắc lưỡi, khép chặt hai cánh, gài then lại.
Lúc này, thì Oanh lanh lẹn lắm. Mà cái sắc mặt tức giận vừa rồi nó biến đi đâu mất. Nàng sổ tuột khăn ra, rút ngăn kéo, lấy lược chải lại mái tóc. Nàng nhận kỹ xem Minh để đường ngôi ở chỗ nào. Nàng rẽ, nàng chải, nàng vấn tóc, nàng uốn lật chỗ này lên, nàng kéo cong chỗ kia xuống. Nàng giơ ảnh lên, nhìn Minh, nhìn nàng, rồi lại nhìn Minh, nhìn nàng. Rồi nàng giũ hẳn tóc ra, vấn lại rõ thong thả. Nàng quay đằng gáy lại gương, liếc mắt xem nó ra làm sao. Rồi nàng mặc thêm cái áo của Minh ra ngoài áo nàng. Nàng giữ hai tay vào bụng, cúi đầu ngó xem nó dài đến đâu. Nàng sắp hai tà áo xem cái ngoài hơn cái trong bao nhiêu. Nàng cau mắt lại, nghểnh lên để cố gài khuy cổ. Nàng quay nhìn đằng sau. Nàng trông vào gương. Nàng lui lại mấy bước để cho rõ cả từ chân trở lên. Nàng thử mỉm cười với nàng. Rồi nàng mở hộp phấn, Nàng lại ngửi, Nàng lại dốc một tí vào gan bàn tay trái, Nàng lấy hai ngón tay phải, chấm vào và xoa lên má. Nàng dừng lại, ngắm vào gương. Rồi nàng há mồm xoa hai má cho đều. Nàng bôi cả phấn lên trán, lên cằm, rồi hai tay cùng xoa mặt thật nhanh. Đoạn, nàng đập hai tay vào nhau cho sạch phấn. Rồi nàng cọ mạnh vào cho thêm đỏ. Rồi nàng xé mép tờ báo, đặt ngang trên hàm răng. Rồi nàng vớ quyển tiểu thuyết, cắp vào nách, đứng rõ thẳng trước gương. Nàng ngắm nàng bằng hai con mắt nồng nàn tình tứ. Nàng thấy nàng đẹp, tươi. Rồi nàng mở hai môi để cười với gương. Nàng quay nghiêng. Nàng thướt tha mấy bước. Rồi muốn cho hẳn đủ bộ, nàng kiễng cao lên một tí. Rồi nàng để hai chiếc guốc của Minh xuống dưới gót guốc nàng cho khỏi mỏi. Nàng lại nhìn gương. Lúc này thì nàng nhìn lâu lắm. Nàng giơ ảnh lên chúm chím lườm nàng trong gương, rồi lại nhìn vào ảnh.
Một lát thong thả, Oanh cởi áo, vắt trả lên mắc, xếp trả đôi guốc vào gầm, đặt trả cái ảnh lên chồng sách. Nàng vấn lại khăn, rồi lấy khăn trong túi lau mặt. Tức thì, những nét giận dữ trước lại lộ trên mặt nàng. Nàng mở cửa ra, và còn quay mặt lại nhìn khắp buồng ra ý khinh khỉnh.
Oanh trầm ngâm, lững thững lên gác. Nàng lấy chìa khóa mở hòm. Nàng giơ ảnh nàng lên cao, rồi lại buồn rầu gài vào cái túi ép ở nắp. Nàng điểm một lượt áo của nàng xếp gọn ghẽ, rồi giở tung từng cái ra. Nàng mặc một cái vào, rồi ôm cả ra sân để phơi. Rồi nàng cởi cái áo ấy, hong nốt ra nắng. Rồi thẩn thờ, nàng đứng ngắm nghía suốt lượt bộ cánh của nàng.
Vừa lúc ấy, thì bà Tuần dậy.
Thấy tiếng mẹ, Oanh ngoan ngoãn chạy vào buồng. Bà Tuần vừa ngáp vừa nói:
- Gớm, mệt quá. Mẹ có muốn đánh lâu đâu. Thành ra cứ chiều bà tham Chính, phải thức thêm hai hội nữa. Sau rồi mẹ bảo mơi mẹ phải đi sớm, ấy thế bà ấy mới thôi đấy. Không thì còn đòi gỡ.
- Mẹ được hay thua?
- Chà, góp hai, buồn như châu cắn. Được có ba đồng, lại vào gà mất đồng bảy.
Rồi bà Tuần ngáp một cái kết liễu, gân mồm kêu răng rắc. Bà tung chăn ở chân ra rồi hỏi:
- Chị Cả làm gì ở dưới nhà?
Oanh nói giọng chua chát, đay nghiến:
- Thưa mẹ, đi dạy học, nói rằng không xin được phép.
Kêu một tiếng “Ối!” bà Tuần lăn đùng ra nhưng vẫn còn để dính cả bốn chân tay ngắn chùn chùn mềm lả vào cái thân phềnh, bà há hốc mồm, trợn tròn mắt như người phải cảm gió.
Nguyên bà cũng phải cảm, nhưng bà cảm động quá vì nghe lời nói không ngờ của con gái.
Bà có biết đâu công việc nó đi như thế. Tối hôm trước, bà có bàn với Sanh và Oanh rằng trưa hôm nay cho vợ chồng mới về lễ nhà thờ bên ngoại trong Hà Đông. Bà đã dặn cả cháu trưởng gọi bà bằng cô đi trước để sửa lễ. Vậy mà sáng nay Minh dám đi dạy học.
Bà giãy lên đành đạch, thở hổn hển, nói giọng như mếu, hỏi con:
- Thế nó bảo mày làm sao?
- Thưa mẹ, chị ấy bảo chị ấy không kịp xin phép.
- Không kịp! Cô Phán bảo nó xin phép nửa tháng kia mà.
- Vâng, chắc chị ấy không xin phép đấy, chứ làm gì mà không kịp xin phép. Chẳng qua chị ấy cố làm ra thế, để trách nhà ta xin cưới chị ấy vội vàng.
Bà Tuần cố đỡ tay ngồi dậy, tựa lưng vào gối xếp, hách dịch nói:
- Sao mày không giữ sách, giữ sổ nó lại? Anh Cả mày đâu, gọi lên đây!
- Anh con đi Hà Đông báo với anh Trưởng rằng hôm nay anh chị con chưa vào lễ được.
- À, ra thằng ấy hèn thật! Không bảo được vợ!
Lên giọng khôn ngoan, Oanh nói khích:
- Tân thời vừa chứ tân thời lắm thì chỉ làm hại gia đạo người ta thôi.
Rồi Oanh mách:
- Chà, mẹ không vào buồng chị ấy mà xem. Trên bàn thì bày la liệt những tiểu thuyết! Rồi ảnh a, phấn a, rồi son a, mà lòe ai bằng cái áo õng a õng ẹo ở trên mắc. Mẹ vừa chết sờ sờ ra đó, mà không thèm cất những thứ gấm với nhung đi. Chẳng sợ người ta mỉa cho thối óc!
Bà Tuần cho con là phải, thở dài. Oanh mát lòng rười rượi, lại nhăn mặt, lắc đầu, nói:
- Chướng lắm, nhiều cái chướng lắm, mẹ ạ. Con nghe chuyện mà con xấu hổ thay. Vừa về nhà chồng chưa đầy ba tiếng đồng hồ, đã giục rốì con vú đi tìm chồng vào nói chuyện. Sao mà không biết dơ! Họ tưởng thế là tây, là văn miêng lắm đấy! Để lũ đầy tớ nó cũng nói được.
Bà Tuấn nhăn mặt, ôm đầu, ra ý đau đớn lắm. Bà cạy cục rử mắt, bôi xuống mặt dưới giường, rồi thở dài:
- Còn phải dạy nhiều.
Oanh lắc đầu:
- Khó lắm mẹ ạ. Nhà mình thì cổ. Họ thì văn miêng …
phải dạy nhiều.
Rồi bĩu môi, Oanh lại nói tiếp:
- Văn Miêng! Ti toe học mót được dăm ba chữ, cậy ta đây kẻ rờ, đi làm kiếm được tiền, không cần đến ai! Úi dà, rồi mà xem, chỉ ngày mai là chị ấy đòi bình đẳng với mẹ, và tự do cả với bạn anh Cả cho xem.
Bà Tuần khuyên:
- Con không nên nói quá. Cái gì đã có mẹ. Để mẹ dạy, mẹ bảo. Con không nên đành hanh, rồi mang tiếng chị dâu em chồng.
- Không, nhiều cái mẹ không để mắt tới đâu. Mẹ chỉ biết những cái đại đoạn thôi, chứ ương thượng hạng ấy. Hôm qua, lúc mẹ bảo về thay áo, thay khăn ; con thấy mặt chị ấy sưng lên, mà hình như chị ấy rình sừng sộ với con đấy. Trái mà không biết rằng trái.
Bà Tuần dịu, làm tươi và nói:
- Này, nhưng nó tốt nhịn đấy. Bắt đi lại mấy lần cũng phải nghe. Mẹ tưởng nó không đi. Giá nó cứ ỳ ra, không về thay áo tang, hay lúc không cho nó vào, nó cứ đập cửa, thì mình mang tiếng chết!
- Dám! Đi làm dâu hay đi làm giặc, thưa mẹ. Con chắc chị ấy sao chả kể lể ở nhà chị ấy và khóc lóc với anh Cả, oán mẹ và nói xấu con. Sáng con hỏi anh Cả, nhưng anh con cứ chối không, lại khéo trách là chị ấy sốt cả đâm.
- Sốt thật, mẹ thy mặt đỏ rừ ra mà?
- Tức đấy chứ làm gì mà sốt! Sốt mà dám đi tối mấy lần như thế! Mẹ cứ hay tin người.
Bà Tuần cười hì hì, như chịu là mình ngờ nghệch. Được thể, Oanh nói:
- Nhỉ mẹ nhỉ, cứ bảo khủng hoảng, chứ nhà nước họ đặt ra cái ngạch cô giáo làm quái gì cho tốn tiền. Cô giáo đi dạy học, học trò đỗ ra lại làm cô giáo, rồi lượt này lại lượt khác làm cô giáo. Thế thì có ích gì cho ai, mẹ nhỉ! Thật là thừa, thành ra bao nhiêu người vì bọn cô giáo mà không được bổ, hoặc phải ăn lương mới, phí công học bao nhiêu!
Bà Tuần nhìn con, toét nụ cười ranh mãnh:
- Phải, cô chỉ bênh cậu đốc Thẩm nhà cô thôi!
Nghe tên vị hôn phu của mình, Oanh thẹn thò, đỏ mặt vân vê vạt áo, để giấu cái sung sướng.
Bà Tuần nhân tiện chế con, vừa cốt để báo cho con biết:
- Cũng độ đến ra giêng thì bên ấy người ta xin cô thôi. Chà! Mẹ thật lắm việc
Oanh mỉm cười, không đáp.
Bỗng thằng xe nhà bà Phán lại, nói:
- Bấm cụ, cụ con mời cụ lại.
Như hiểu câu nói ấy lắm, bà Tuần vui vẻ hỏi:
- Lại làm gì! Cụ mày chỉ làm bận tao. Đằng ấy có những ai?
- Dạ bẩm cụ, đủ chân rồi. Chỉ còn một mình cụ. Cụ con cho con mang xe đón cụ.
Oanh cau mặt, nũng nịu:
- Mẹ đừng đi. Rồi đến chiều mẹ mới về ấy!
- Thì cô giữ tôi ở nhà làm gì! Buồn buồn chết lên thế này! Thôi, để mẹ đi, không cô Phán giận. Cô lại cho thằng xe đến đón kia mà!
Thằng xe nói:
- Vâng, vì cụ con sợ cụ không có xe thì không đi. Cụ con bảo anh xe đằng này phải đi hầu cậu mợ Cả vào Hà Đông.
Oanh gàn:
- Thôi, mẹ đừng đi vội, để chờ chị ấy về, mẹ hỏi han xem chị ấy trả lời ra sao đã. Việc này ma mẹ im, thì chị ấy lộng quyền đấy.
Bà Tuần đứng dậy:
- Thôi được. Để mẹ đi rồi chiều hãy hay. Mẹ im sao được!
Nói xong, bà đi rửa mặt và mặc quần áo.
Oanh xuống nhà dưới xếp trầu vào trong tráp đồi mồi của mẹ.
Thằng xe mỗi chốc lại chắp tay giục, nhưng bà Tuần nào được nhanh nhảu như người ta. Mỗi bận đi đâu, ba sắm sửa hàng giờ. Nhưng bà vẫn tin rằng bà được việc nên vừa nắm chắc cái tay vịn cầu thang để lần từng bậc cho vững chãi, bà vừa hỏi:
- Thế nào, cô đã xong cho tôi trầu cau chưa?
Thấy tiếng Oanh ở trong buồng Minh trả lời, bà đi qua bèn mở cửa để ngó. Oanh ngồi ở ghế, trước quyển sách. Bà bước vào, hỏi:
- Gì thế?
Mắt không rời những dòng chữ, Oanh uể oải đáp:
- Thưa mẹ, tiểu thuyết của chị Cả đây ạ?
Bỗng bà Tuần vồ vập, nói thiết tha:
- Gớm, đã được ba trang rồi. Gượm hãy xem. Để chờ mẹ về rồi đọc cho mẹ nghe một thể, con ạ.
Xuân chỉ đến thăm Minh có một lần vào sau ngày cưới mấy hôm. Nhưng chị em không được trò chuyện riêng cùng nhau, mà thấy thái độ của bà Tuần và của Oanh, Xuân không muốn ngồi lâu nữa. Từ đó, Xuân chưa hề lại nhà Minh lần thứ hai. Vì vậy, Minh buồn lắm. Có một bận, nhân chồng đi vắng, Minh toan đến chơi với Xuân, nhưng vừa bước chân ra phố đã gặp chồng về và bị chồng đi kèm. Biết rồi cũng chẳng nói năng được điều gì với bạn, nàng bèn vờ vịt mua bán một vài thứ.
Bởi vậy Minh sợ nhất những ngày thứ năm, chủ nhật và những ngày nghỉ lễ. Chỉ những ngày ấy, nàng phải ở nhà lâu, mà ở nhà lâu tất nàng phải dè dặt từng lời, hoặc bị thêm những nỗi bực tức.
Nàng chán nản.
Tờ báo "Tuổi trẻ" mà Nhã viết giúp, lâu nay Minh thấy nó buồn tẻ lạ thường, vì Minh chẳng được đọc một bài nào của Nhã. Cho nên có khi báo gửi đến, nàng chỉ nhìn qua chỗ mục lục, rồi không rọc, cứ để nguyên trên bàn. Nhưng nàng nhận ra được một điều quái lạ, là rồi tờ "Tuổi trẻ" ấy, tuy vẫn có băng dán ở ngoài cẩn thận, mà bao giờ tờ cuối cùng, tức là những trang có tiểu thuyết cũng bi rọc ra trước. Nàng đoán là Oanh, song không chắc, vì mắt nàng chưa được thấy Oanh đọc một quyển nào, vả em chồng nàng vẫn tô ý rất ghét các tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết tình nhảm nhí. Oanh thường bảo những thứ văn ấy rất có hại cho hạng đàn bà con gái, Một lần, Minh nhận thấy trong cuốn tiếu thuyết của nàng, có cái tăm đánh dấu trang. Nàng tưởng Sanh đọc, nhưng hôi ra thì không phải, mà nàng cũng có thể tin được lời chồng, vì chồng nàng rất lười xem sách.
Bởi vậy. Minh vắng bặt tin tức các bạn hữu. Nàng nhớ Xuân, nhớ văn của Nhã. Nàng nóng ruột muốn biết tin của Nhã, song không thể hỏi ai. Ngày trước, cứ thứ năm được nghỉ, thì đến giờ làm việc, dù bận đến đâu. Minh cũng ra đứng ở cửa để chờ Nhã đi qua, Mà dù trong óc bận rộn đến đâu, lúc đi qua, Nhã cùng phải quay nhìn Minh, rồi hai người chào nhau, trao cho nhau một nụ cười mỉm. Hoặc có khi vì một lẽ gì. Nhã không qua nhà Minh được, thì Minh cho là cái ngày ấy không đầy đủ, và đâm ra luẩn quẩn loanh quanh. Rồi đến chiều, tất nàng lại nhà Xuân, hỏi thăm tin bạn.
Nhưng từ ngày lấy chồng, nàng không được hưởng một thứ năm nào đầy đủ cả. Nàng không dám đứng cửa lâu. Mà hễ đứng cửa, là nàng hồi hộp. Nhưng chỉ hồi hộp hão huyền khi trông thấy những người ăn mặc giống Nhã đi vụt qua. Rồi nàng lại thất vọng, lững thững trở vào, ngậm ngùi thương Nhã, có lẽ chàng đã qua cửa vào những lúc nàng ở nhà trong. Nàng nhớ lại cái tối Nhã đứng lại trước nhà nàng, dòm vào rồi đi, thì nàng lại tưởng tượng rõ rệt cái nét mặt thất vọng của Nhã.
Về tới nhà, nàng cảm động vì thấy thím và cô cùng họ hàng đã mỗi người một việc rồi. Nàng vừa hỏi thăm Xuân, thì bạn nàng cũng vừa xuống xe, áo quần ướt át, tay xách bao nhiêu thứ mua ở trên chợ.
Chị em gặp nhau, vừa tủi vừa mừng.
Tối hôm trước và suốt cả buổi sáng hôm sau vì công việc bận rộn, Minh chưa hỏi han Xuân được một điều gì, mà nhất là nàng có cho mời Nhã, mà Nhã từ chối, nên nàng hậm hực. Vì vậy, nàng hẹn một giờ trưa, khi khách khứa đã về vãn, nàng đến thăm Xuân.
Đúng giờ hẹn, Minh lại nhà Xuân. Nhưng thoạt bước chân vào cửa, nàng có cái cảm tưởng như trong nhà quạnh hiu buồn tẻ một cách lạ.
Nàng yên trí sẽ gặp Nhã ở nhà Xuân, vì sao Xuân chả bảo trước anh cái tin nàng đến. Thành ra không thấy Nhã, nàng chẳng hiểu duyên cớ làm sao.
Hai chi em rủ nhau lên gác. Mưa gieo nặng hạt. Nhìn qua sân gác. Minh thấy nhà cửa, cây cối như nhuộm một màu bí hiểm mập mờ.
Minh ngắm ảnh mình treo trên tường, bỗng thở dài. Nàng buồn rầu, lặng lẽ nhìn bạn, rồi tự nhiên rưng rưng nước mắt. Biết rằng bạn muốn thố lộ nỗi lòng, Xuân hỏi:
- Thế nào? Còn lắm chuyện không?
Minh chán chường, thở dài:
- Những chuyện ở nhà chồng tôi, là những chuyện đã đành đi rồi, chị đừng bắt tôi nhắc lại.
- Anh ấy đối với chị thế nào?
- Sanh không đáng ghét. Sanh là người đáng thương, vì biết sợ mẹ lại biết nhịn vợ. Thôi, ta nên để những người cũ lại một nơi. Chị ạ, sao anh Nhã lâu nay không viết lách gì cả?
Xuân mỉm cười, lắc đầu, Minh cau mặt:
- Tại làm sao?
Xuân vẫn lắc đầu:
- Tôi không biết. Đã lâu lắm, anh ấy không lại đây. Minh nhìn bạn, tức bực:
- Hay là anh ấy đi vắng?
- Anh ấy vẫn ở Hà Nội.
Minh gắt:
- Sao từ nãy đến giờ, tôi thấy chị lãnh đạm với tôi thế? Hay tôi lấy chồng, chị đâm ghét tôi?
Xuân nắm tay Minh:
- Không, bao giờ tôi cũng thương yêu chị như trước.
- Vậy sao tôi hỏi tin anh Nhã, chị lại trảlời hững hờ?
Thong thả, Xuân thở dài, đăm đăm con mắt, đáp:
- Chị không nên nghĩ đến Nhã, vì anh ấy muốn quên chị.
Minh giậm chân xuống ván, ôm mặt khóc:
- Vậy thì anh ấy đáng giận. Tôi không ngờ!
Xuân thương hại, sẽ để tay lên vai bạn, an ủi:
- Chị chớ xét lầm, tội nghiệp anh ấy.
Minh trừng trừng hai mắt nhìn Xuân. Thấy bạn dịu dàng, bưuồn bã. Minh bèn dịu lời, thở dài:
- Vậy anh ấy đáng thương?
Xuân cũng thở dài, khẽ gật:
- Anh ấy đáng thương. Tôi mới lại thăm anh ấy hôm qua. Anh ấy ốm.
Minh bàng hoàng, nắm chặt tay Xuân, trợn mắt hỏi:
- Anh ấy ốm? Bệnh gì?
Xuân mỉm cười:
- Chẳng có bệnh gì cả. Anh ấy ốm vì buồn.
Minh nhắm mắt, rồi gục đầu xuống bàn, khóc nức nở.
Xuân nhìn bạn, ngẩm nghĩ mội lát, rồi rút ngăn kéo lấy ra bức thư đưa cho Minh:
- Đây, chị cứ đọc. Thế này thì tôi khí trống chuyện quá. Anh ấy vừa viết cho tôi ngày hôm kia.
Minh mừng rỡ, mở ra, hai mắt chăm chú, nàng đọc:
"Em Xuân.
Mấy lần em viết thư trách anh độ này thưa lại thăm em hơn trước. Cái đó anh xin chịu lỗi. Nhưng hẳn em cũng thừa hiểu cái cớ ấy rồi.
Em ạ, anh muốn quên hẳn người ấy đi. Lại nhà em, anh sợ thỉnh thoảng lại gặp mặt người ấy. Rồi hình dáng người ấy, tiếng nói câu cười của người ấy gợi cho anh biết bao nổi đau lòng.
Minh ngẩng dầu, thở dài:
- Anh Nhã tưởng tôi vẫn được tự do đến các bạn hữu như trước! Anh không biết bây giờ tôi bị tù chung thân?
Mỉm cười, Xuân gật đầu. Minh hỏi:
- Thế chị có bảo anh ấy biết cảnh tôi bây giờ không?
- Có, nhưng anh ấy khống muốn nghe. Chị đọc đi.
Đã ngót hai tháng nay, nghĩa là kể từ ngày người ấy cưới, anh không thể viết được một bài nào cho báo nữa. Anh như người mất trí Cái tin người ấy cưới, chẳng khác gì mũi tên độc nó giết chết linh hồn anh.
Ngẩng lên nhìn Xuân, Minh lắc đầu:
- Thương hại quá! Nhưng nếu anh ấy biết cái người ấy cũng chẳng sung sướng gì hơn anh ấy cũng tự an ủi được một vài phần,
Em có biết đâu rằng mấy ngày đêm anh không ăn không ngủ được. Tràng pháo cưới trưa hôm ấy nó tan xác bao nhiêu, thì ruột gan anh bị tan tành bấy nhiêu. Nào anh có muốn trông đâu cái đoàn ô tô choáng lộn nó đưa người ấy về nhà chồng. Anh đã cố chạy vào nhà trong, nhắm mắt, bịt tai lại. Mà không hiểu làm sao, anh không thể kiên gan được mãi. Anh lại phải hé cửa ra nhìn. Thì thỉnh lình, cái xe kết hoa vừa đến trước mặt, làm anh rụng rời chân tay. Ai hay, mỗi đám cưới là một vụ giết người, mà mỗi trái tim của đàn bà là một con dao nhọn!
Đọc đến đây, một giọt nước mắt của Minh rơi bộp trên mặt giấy.
Em Xuân ạ! Cái thư báo hỷ người ấy viết cho anh, anh không biết người vô tình hay cố ý để bắt anh phải đau đớn. Anh lặng đi đến một phút, rồi ngắm nghía mấy dòng chữ đề phong bì đến hàng giờ. Than ôi! Cũng những nét bút mềm mại này, trước kia viết cho anh, thì anh được đọc bao nhiêu chuyện vui vẻ, làm anh quên cái đời sầu khổ. Mà đến bây giờ, em ơi? Nó báo rin người ấy lấy chồng! Người anh yêu lấy chồng! Khốn nạn thân anh! Thôi! Thế là xong! Minh lấy chồng mất rồi, anh còn hy vọng gì nữa!
Mấy giọt nước mắt theo nhau rơi lộp bộp. Minh lấy khăn ra lau, đặt thư vào lòng, ngửa đầu vào lưng ghế. Một lát, Minh lại đọc:
Anh không ngờ đâu, trong ít lâu nay, tạo hoá đối với anh quá nghiệt. Đầu tháng năm, Mai phải đi xa. Cuối tháng sáu, Tuyết chết. Đến nay, Minh đi lấy chồng! Thì dẫu có gan sắt đá, mà ở vào cảnh quạnh hưu của buổi chợ đời chiều hôm, anh tưởng cũng đến héo hon, khô đét.
Anh không hiểu người ấy có biết anh yêu thực bụng người ấy hay không? Đành rằng người ấy hẳn là biết anh yêu, nhưng người ấy có biết anh đã xây đắp biết bao hy vọng với người ấy không? Anh xin thú thực với em rằng, người ấy và anh chưa hề nói hoặc viết cho nhau những tiếng "yêu". Ái tình, anh muốn nó kín đáo. Anh muốn hưởng ái tình bằng trí tưởng tượng hơn rằng đem mà phô diễn nó ra. Bởi vì ai có thể phô diễn được hết cái ái tình chân thật bao giờ. Chỉ có những tiếng vô hình ở đâu tận đáy lòng mới đủ nghĩa để mô tả tấm ái tình man mác. Vì vậy người ấy với anh đã yêu nhau ngấm ngầm, anh thấy một đôi khi nó có sức quá mạnh. Thật vậy, cứ lấy một việc cỏn con anh đã làm cho người ấy, cứ đoán ý tứ của những câu vụn vặt người ấy viết cho anh, cứ ngắm nghía vài thứ, tự tay người ấy làm để kỷ niệm cho anh mà bấy lâu nay anh vẫn bày trên bàn giấy, thì anh tưởng còn có nghĩa lý bằng mấy ngàn mấy vạn bài thơ vô vị của những nhà thi sĩ có biệt tài!
Minh lại ngừng, lim dim hai con mắt mơ màng, như để nhớ lại đoạn đời cũ.
Than ôi! Ba năm ấy đến nay thành giấc mộng. Viết đến đây, anh lại thấy anh đàn bà mất rồi! Những giọt nước mắt rất quý của anh, anh chỉ rỏ ra để vĩnh biệt những người thân thích, mà nay sao nó chảy ra dễ dàng. Anh xin lỗi em mấy phút cảm động.
"Em ạ! Người ấy lấy chồng một cách quá chóng. Từ hôm anh biết tin, đến lúc nghe tiếng pháo, tính ra vừa vặn có bốn hôm. Nếu người ấy được tấm chồng tử tế, thì anh rất mừng, song hỏi thăm ra, anh lại thấy người chồng ấy có nhiều chỗ rất đáng phàn nàn, mà nhà chồng, thì lại là một nhà cổ. Anh thương hại Minh của anh bị ê chề.. Viết đến đây, anh ngừng bút lại để ngẫm nghĩ. Kìa cái nét mặt vui tươi, cái miệng lúc nào cũng sẵn một nụ cười thẳng thắn, cái mái tóc mây, cái tay ngọc ngà mà người ấy vẫn tự nhận, vẫn còn rõ rệt ở trước mắt anh.
Minh mỉm cười, nhìn tay mình, và nói:
- Khốn nạn, chị ạ, mặt tôi bây giờ có tươi đâu, miệng tôi ít lâu nay có dùng để cười đâu. Cái tóc, cái tay tôi độ này còn đâu những vẻ trong sạch!
Nàng đọc nốt:
"Nhưng mà, giá nét mặt ấy cứ vui tươi mãi, miệng ấy cứ cười nụ mãi, tóc ấy vẫn cứ có vẻ thần tiên mãi, thì anh rất hả lòng. Khốn nỗi chồng con như thế, anh đây nào có thể ích kỷ mà không xót xa thay!
Minh chấm mắt.
"Anh cần phải thở dài một tiếng rõ to để trút hết những nỗi uất ức. Thì ra người ấy và anh không lấy được nhau, thật là oan! Nào ngờ đâu, tháng ngày vui có đến đây là hết. Nào ngờ đâu, đời anh, anh chỉ sống được có ba năm! Song, anh còn có thể tự hào để an ủi, là trong ba năm ấy, anh đã hưởng hạnh phúc ba mươi năm của đời một người khác. Nhưng mà, than ôi, thà rằng chẳng biết cho xong... Chứ biết nhau để phải chịu nỗi xa lìa, thì anh cho là làm người, có một trái tim để cảm, là một cái tội.
"Anh mong quên người ấy đi mà thật không thể được. Anh đã tập cho thành thói quen, nhưng ngặm đắng nuốt cay một mình, kết cục anh phải mang bệnh. Trước kia, khi người ấy mới cưới, chẳng tối nào anh không qua nhà người ấy một lần. Thấy cửa đóng im ỉm, anh lắng tai nghe. Vậy mà anh cũng sung sướng như lại được gần gũi người ấy. Anh thấy như được sống lại những ngày vui xưa. Nhưng mà mỗi lần anh ôn lại cuộc ân tình tuyệt vọng như thế, thì anh về nhà, anh nằm gí trên giường không thể làm gì được nữa. Nhưng rồi sau, anh sợ chợt người ấy gặp anh mà như nhắc lại chuyện cũ, nên anh không vơ vẩn nữa, rồi cả đến những buổi đi làm, anh cũng quyết không qua nhà người ấy. Trông thấy nhau làm gì! Để cho cái ái tình nó vật lộn với người đàn ông, còn hơn để nó giết người đàn bà, em ạ.
Minh thở dài:
- Thảo nào! Nhưng khốn nỗi người đàn bà ấy chẳng còn sống nữa.
Xuân giục:
- Đọc đi.
"Anh đến ở nhà mới này mới có hơn hai tháng, những tưởng phố đông đường rộng, thì anh vui mắt để làm việc được nhiều, chứ anh có biết đâu rằng anh bị những cảnh khổ não, là cảnh người ấy lấy chồng. Thật là ông Trời éo le, bắt anh phải cực nhục. Hay ông ấy muốn đày đọa anh cho anh hiểu biết, sự cay đắng của tình ái. Thà rằng anh cứ ở nhà cũ thì anh khỏi thấy gai mắt; thà rằng anh chẳng làm giấy cam đoan với chủ nhà thì quyết anh dọn phắt đi đến hẳn một nơi hẻo lánh; thà rằng anh chẳng vướng víu công việc, thì anh chẳng ngại gì mà chẳng lên chỗ rừng xanh núi đỏ, làm bạn với trăng, với gió, với khe nước, với cỏ cây, để ôn lại những tháng ngày vui vầy. Nhưng anh đã trót sa chân lỡ bước, thì âu là anh chỉ âm thầm đành lòng mà đón lấy những cảnh đoạn trường.
Minh đặt giấy vào lòng, nghĩ ngợi rồi lại đọc:
"Mấy lần cuối anh gặp người ấy, không phải những lúc tiện tỏ tình vả anh cũng có ý muốn tránh. Nhưng bốn con mắt cứ thỉnh thoảng vô tình gặp nhau luôn, song là những con mắt của đội trinh thám, đi dò ý tứ nhau mà thôi.
Minh mỉm cười.
"Từ nay mà đi, không biết anh có viết được nữa không. Bệnh anh tất càng ngày càng nặng. Anh chỉ biết rằng bỏ cán bút lâu, thì cầm nó khí ngại. Nhưng nếu có phải duyên văn đứt thật, thì cũng là một sự kỷ niệm êm đềm trong đời văn chương của anh, vì nó đánh một dấu rõ rệt là anh đã mất người khuyến khích.
Minh thở dài.
"Anh không ngờ đã làm mất thì giờ em bằng câu than vãn vô nghĩa này. Anh biết than vãn thế là hèn nhát. Nhưng anh chỉ mong em biết nỗi khổ tâm của anh, mà vì thế, anh không lại thăm em được. Anh còn mấy điều muốn nói với người ấy. Nhưng thôi, thì giờ đã hết rồi, còn đâu!
"Trước khi dừng bút, anh nhắc để em nhớ cho rằng thư này anh chỉ viết riêng cho em, mà xin em chớ để cho người ấy biết. Hễ người ấy có hỏi thăm đến anh, thì em chỉ nên đáp ba tiếng: "tôi không biết", chứ đừng bảo thêm một điều gì.
Anh không muốn để người ấy rõ anh hiện bây giờ ra thế nào. Anh cố làm cho người ấy quên anh, rồi ghét anh. Anh muốn người ấy được yên vui mà đi trên con đường mới".
Kính bút
Nhã
Đọc xong, Minh thở dài, ngửa cổ ra đằng sau, ngậm ngùi nói:
- Người ta chỉ có thể quên được nỗi vui, chứ ai quên được sự buồn, nhất là cái buồn ấy lại về ái tình.
Rồi nàng đọc đi đọc lai bức thư vài lượt nữa, và vẫn những nét mặt ban nãy lần lượt hiện ra. Rồi đọc xong, Minh trầm ngâm một lát, bỗng nàng ôm mặt nức nở khóc. Nàng khóc một lát thật lâu, rồi nói:
- Bức thư này, nó là tiếng thở dài tha thiết của tấm ái tình tuyệt vọng. Nó là bài văn tế sống thố lộ ở tận đáy lòng của một người bị cay đắng vì yêu! Chị cho tôi xin nhé.
Xuân thương hại đáp:
- Thôi chị không nên giữ thư của Nhã, lỡ ra... Vả tôi biết rằng cho chị đọc thì chị buồn mà!
Minh cảm động, căm hờn:
- Chị cho tôi tờ giấy để tôi chép ra vậy.
- Chị lẩn thẩn quá. Chép ra cũng thế chứ khác gì. Thôi, anh Nhã đã muốn quên chị, và muốn chị quên, thì chị không nên thế.
- Được, tôi trả lời anh ấy vậy, cho anh ấy biết tình tôi. Sự khổ não của tôi sẽ an ủi anh ấy.
Xuân lắc đầu:
- Không nên.
- Thế thì chị làm ơn nói với anh Nhã hộ tôi rằng lúc nào tôi cũng không thể quên được tấm ái tình thứ nhất, nó đã ăn sâu trong trái tim thành ra một vết thương. Nhã và tôi bị chung một mũi tên. Nhưng Nhã còn có cái khác có thể an ủi được. Tôi đây mới là người tuyệt vọng.
Xuân cười:
- An ủi Nhã! Chị đừng tưởng anh ấy sẽ có cái khác để an ui. Chỉ có chị đọc bức thư này thì chị mới được an ủi. Vì ở trên đời, chị còn thấy một người yêu đau lòng vì chị. Còn như anh ấy, anh ấy không rõ chị đối với anh ấy ra sao.
- Thì sao chị không nói, và không cho tôi viết thư?
- Khốn nổi anh ấy không muốn nghe ai nhắc lại.
Minh thở dài:
- Thế thì tôi nhắn chị một câu này, là ở đời tôi chỉ còn chút hy vọng là được đọc văn của anh ấy. Vậy anh ấy không nên tự hủy cái sự nghiệp văn chương của anh ấy đang chứa hy vọng. Anh ấy cứ viết. Viết lên báo, anh ấy cứ tưởng tượng như viết cho tôi. Mà tôi đọc, tôi cũng tưởng tượng như được anh ấy nói chuyện. Như thế, thì hai người tuy không được hằng gặp mặt, hoặc viết thư trao đổi ý kiến mà cái đời về tinh thần của Nhã cùng tôi, vẫn đằm thắm như xưa. Vậy mẩu hy vọng được làm độc giả của anh Nhã, anh Nhã không nên làm cho tôi mất nốt.
Xuân thở dài, không đáp. Minh lại nói:
- Đối với anh Nhã, tôi như người đã chết, vậy tôi muốn trối lại anh ấy hai câu, xin chị nhớ hộ, là Bụi hồng rật nẻo đi về chiêm bao, và Muôn chung nghìn tứ hẹn duyên sau, chị nhé.
Một liếng thở dài, ngực Minh từ từ dẹp xuống. Hai chị em cùng cảm động, nắm chặt lấy tay nhau.
Ngoài sân, hạt mưa thánh thót như tuôn lệ...
Nàng dọc đì đọc lại bài "Khóc bạn" có vết bút chì xanh đánh dấu sẵn, rồi gấp tờ báo, để trên đầu giường, nhắm mắt nghĩ lan man.
Hôm ấy là thứ năm, Minh được nghỉ. Đã Iâu lắm, lần này nàng mới lại đi nằm vào lúc buổi trưa. Nàng nhịn ngủ ngày đã quen, nên cố nhắm mắt đến hàng giờ để ngủ cho quên nổi buồn, mà không sao chợp được.
Cảnh cũng buồn tênh. Trời thấp và nặng nề. Phố xá ướt át vì mưa phùn mấy hôm nay, thành người đi sắm tết vắng ngắt.
Minh nhớ lại ngày méới cưới, nàng cứ quen như ở nhà. Theo lệ thường, ăn cơm sáng xong, tất phải ngã lưng một chốc, cho đỡ mệt. Nhưng nàng nhận thấy mỗi khi đi nằm, thì y như Oanh lại mắng mỏ đầy tớ rầm rầm, có khi không có chuyện gì đáng nói to, mà Oanh cũng cứ quát tháo. Trước Minh tưởng em chồng có tính chua ngoa, thì hay soi mói lắm điều, nhưng rồi nàng mới hiểu rằng chính là Oanh cố làm cho nàng không ngủ được, mà một lần, mắng con vú, Oanh đã nói cạnh đến nàng:
- Đừng hợm, nuôi về để hầu hạ, chứ để ngay xương à? Muốn ngay xương thì về nhà mà ngay xương.
Nhưng Minh nhất định để ngoài tai những lời nói xa xôi bóng gió vì nàng muốn trong gia đình, mẹ con, chị em nên thật bụng khuyên bảo nhau thì hơn, cho nên ngày hôm sau, nàng cứ nằm tự nhiên, thì nàng được nghe câu nữa của bà Tuần mắng thằng bếp:
- Tao tưởng mày không đến nỗi ngu như thế, mày muốn người la mắng thẳng vào mặt thì mới hiểu hay sao?
Song, Minh cũng nhất định giả điếc, thì bà Tuần phải gọi Minh dậy mà vờ sai bảo các việc. Rồi tối hôm đó, Sanh khuyên bảo nàng chớ nên ngủ ngày.
Minh lại nghĩ đến bà Tuần, một bà làm cho người ta cười bằng dáng điệu, và người ta khóc bằng lời xóc móc mỉa mai, nàng sực nhớ đến những khi bà đi chơi đâu về, móc túi lấy ra ba bốn chiếc ống vôi, rồi ngồi ngẩn người ra để nghĩ lại xem mình cầm lầm của những ai, và bắt thằng xe đem đi trả. Nhưng nàng còn ghi mãi trong óc cái hôm nàng không về Hà Đông lễ nhà thờ bên quê ngoại mà đến chiều, bà làm như thế nào. Hẳn là bà muốn giảng cho Minh nghe nghĩa đen và nghĩa bóng chữ tam bành, cho nên bà mới dữ dội đến như thế. Nàng nghĩ đến hai con mắt trợn lòng trắng của mẹ chồng lúc nào, nàng lại vừa tởm vừa ghê. Bà ngồi xếp bằng tròn, tròn xoe trên sập, mặt xám lại, mà diếc móc xỉaxói. Nàng không cãi một nửa lời, vì nàng muốn cho bà tự hiểu rằng đối với dâu mới, bà chưa nên tàn nhẫn thế vội.
Nhưng sự im lặng của nàng nó hùng biện không phải chỗ. cho nên nàng thấy những cái gàn dở, hủ bại của mẹ chồng càng ngày càng nhiều, nó như quây kín xung quanh nàng, không cho nàng được trông thấy những điều hay lẽ phải nữa. Rồi dần dà, nàng phải cương quyết với mẹ chồng để bà bớt sự áp thế. Nàng phải cãi lại mẹ chồng lần nào, là nàng ân hận lần ấy, vì thật bản tâm nàng muốn coi mẹ chồng như mẹ đẻ. Song, nàng nhận ra, sau một cuộc xung đột, mà nàng bị lương tâm cắn rứt mãi mãi, thì trái lại bà Tuần không giận dữ, hoặc để bụng chút nào. Hình như bà chỉ thích gây sự để cãi nhau cho đỡ nghiện, mà khi được thắng trận thì bà vênh váo, vui vẻ, rồi sẵn lòng quên ngay tội của người đã dám cãi nhau với bà. Không những bà tầm thường đến như thế, mà một vài khi, bà lại tỏ ra đê tiện nữa. Bà là nhất nhà, song bà cũng cứ gây vây cánh. Chính Minh đã nghe thấy bà xúi giục đầy rớ nó hỗn với nàng.
Bởi vậy, tuy nàng muốn làm dâu hiền của bà mẹ chồng này, mà không thể được. Chính bà đã làm cho nàng thêm nhiều thói xấu. Nàng nhận thấy nàng đã mất hẳn tính vui vẻ, mà bây giờ, nhiều khi nàng đâm ra thẩn thờ, lạt lẽo như người khinh người. Lắm túc, nàng lại dễ phát cáu. Phát cáu cả với Iời nói phải. Cho nên, ở trường thì nàng rất vui vẻ, mà động gần về đến nhà là nàng đâm ra khó chịu rồi. Nhiều Iần, nàng cố vứt cái tư tưởng coi nhà chồng như nhà kẻ thù, để ăn ở hoà hợp, nhưng chỉ được độ một lát mà thôi, rồi hoặc vì khó chịu với mẹ chồng, hoặc vì khó chịu về em chồng mà bao nhiêu mối thù oán chứa chất bấy nay, nó lại đến cả trong óc. Nàng cho là cái này thành thói quen mất rồi, và suy ta ra người, có lẽ bà Tuần và Oanh cũng chung một tâm lý ấy.
Nàng đã tự hỏi nến cứ thế này không biết nàng có ở được trọn đời với Sanh không.
Đối với Sanh, Minh không ác cảm, vì nàng biết rằng chồng chỉ là cái máy cho bà Tuần và Oanh sai khiến. Sanh là người không biết rằng ở đời, có một sự gọi là tự do, nó cần cho sự sống. Có một lần, Minh tò mò hỏi Sanh tại sao lại hỏi nàng làm vợ, thì chàng bảo đó chỉ là theo lời trối lại của cha ngày xưa mà thôi.
Thấy chồng đáp một cách thực thà như vậy, thì nàng đâm buồn. Ra cuộc tơ duyên của Sanh và nàng, nó chẳng có nghĩa lý gì cho cả hai người. Nó không hơn gì đem đồ gạo làm xôi, bóc lạc để luộc, rồi trộn lạc với xôi đơm vào dĩa, và bày lên bàn thờ để cúng, mà không biết có ai tưởng hay không. Vậy thì người ta đã làm một việc vô ý thức. Nàng đã bị người ta coi là một vật vô tri, chỉ có lợi ích cho lời nói phiếm của một người đã khuất. Người ta ra chợ, mua con gà, con vịt, người ta còn nhấc nó lên xem nặng nhẹ ra sao, rồi chọn lọc mãi mới mặc cả. Thế mà nàng đi làm vợ, nàng lại không được người ta xem xét kỹ càng.
Tủi thân bao nhiêu, nàng lại thương hại Sanh bấy nhiêu. Nàng thương hại Sanh, vì Sanh là con trai, về việc hôn nhân, có thể có nhiều quyền hơn bên con gái, mà không biết hưởng. Thật không bao giờ nàng lai ước mong có người chồng lù đù đến như thế. Nàng nào phải hạng gái chỉ muốn có chồng hiền lành để dễ bắt nạt. Nàng ước ao có người chồng thông minh, biết yêu, và hiểu cái nghĩa đời thường, một người chồng thích tự do, và biết trọng tự do của người khác. Nàng yêu chủ nghĩa cá nhân, nàng đã độc lập về kinh tế, nàng muốn độc lập cả về tinh thần nữa. Nàng muốn hoàn toàn theo mới.
Nay nàng vì chữ hiếu mà bị lấy Sanh, nàng muốn yên lặng mà sống một đời vô vị trống không tình ái. Nhưng người ta không để cho nàng được yên lặng, người ta không để cho nàng tự coi nàng như chết, người ta lay dậy bắt hàng ngày nàng chịu những điều khổ nhục đắng cay.
Sanh là ngươi ít nói, lại nhu nhược. Một đôi khi, trông thấy vợ vùi đầu vào đống chăn mà khóc, thì chàng thở dài. Chàng chỉ dám thương vợ một cách giấu giếm. Nhưng không bao giờ chàng an ủi vợ và khuyên mẹ hoặc can em.
Đã có một lần Sanh bị mẹ mắng, vì chàng không lên mách giúp nước bài bà đương phá trận, mà ờ lại trong buồng xem vợ chấm bài. Bà quắc mắt lên mà diếc chồng nàng rằng mê vợ. Vậy nàng thực không rõ bà Tuần cưới nàng cho Sanh để làm gì. Vì thế, đối với mẹ chồng, nàng là cái bồ đựng mắng, mà đối với chống, nàng là cái máy đẻ con.
Chán nản, thất vọng quá. Minh đã từng có tư tưởng muốn xin đổi quách lên mạn ngược, cho xa khuất hẳn gia đình mà nàng coi như bụi chông gai. Nàng cho là thói đời vẫn vậy, khi ở gần nhau thì khinh thường nhau. Xa nhà chồng, nàng sẽ được làm chủ đời nàng.
Sở dĩ lần này Minh đi nằm buổi trưa là vì nàng mới ốm khỏi, còn mệt lắm. Nàng ốm ngay hôm sau đọc thư của Nhã gửi cho Xuân. Bệnh nàng chỉ là bệnh uất, bệnh tương tư, cho nên không ông lang nào bắt mạch trúng. Nhưng cũng may, những chén thuốc cảm hàn mà bà Tuần bắt nàng uống, rồi có công hiệu, vì nó làm cho nàng không dám ốm nữa, sợ nữa vì thuốc mà thành oan gia. Nàng muốn chết, song không muốn chết vì một lẽ đê tiện.
Minh nghĩ miên man rồi thở dài. Nàng lại mở tờ báo ra để nhìn lại từng nét chữ in bài thơ của Nhã. Nàng càng ngẫm hai câu kết càng cảm động, mà rất thích câu thứ nhất là câu của nàng.
Rồi để tờ báo lên ngực, nàng vơ vẩn nhớ đến nét mặt rắn rỏi của Nhã, nét mặt của một người chỉ ưa sự thực tế. Nhã rất ghét thơ, nay vì nàng mà làm nên một bài Đường luật, thì dù không hay nhưng nó đáng quý biết ngần nào.
Bỗng có tiếng guốc. Minh biết là Sanh sắp vào buồng. Nàng bèn nhắm mắt lại giả vờ ngủ.
Sanh mở cửa, nhìn vợ, rồi ngẩng dậy, trông lên bàn, lắc đầu. Cái hình ảnh của Nhã lại hiện lên trong óc nàng. Nhưng ít lâu nay, khi nào nghĩ đến Nhã, là Minh hình dung ngay ra một người ốm yếu, xanh xao, buồn rười rượi. Nàng mong cho Nhã cứ ốm, và nàng cũng cứ ốm. Hai người cùng ốm, rồi ốm thật nặng, rồi cùng chết vào một ngày, một lúc và cùng được chôn vào một nghĩa trang trong hai cái hố sát cạnh nhau.
Nàng càng thương Nhã, nhớ Nhã, yêu Nhã, thì óc nàng không có chỗ để phần ái tình cho Sanh nữa. Thật vậy, đối với chồng, nàng thấy như đối với người dưng. Nàng cho thế là một sự khổ nhất đời một người con gái. Lắm lúc nàng muốn quên Nhã để yêu chồng, nhưng bà Tuần, nhưng Oanh lại là hai trở lực lớn, khiến nàng chợt thấy hai người ấy, là cái lòng muốn yêu tiêu tán ngay. Không những thế, nàng còn nhận rằng mẹ chồng và em chồng thấy vợ chồng nàng như có ý chiều chuộng nhau điều gì, thì tức tối và tìm cách gièm pha. Thôi, nàng về làm dâu nhà này là chỉ để chịu cái cực nhục của đời làm dâu, cho bà Tuần được thoả cái địa vị làm mẹ. Có thế thôi. Vậy ra có mẹ chồng ác nghiệt, thì nàng dâu không phải là người, mà cũng không được bằng con mèo, con chó thỉnh thoảng còn được người ta vuốt ve. Nàng dâu có mẹ chồng ác nghiệt, thì chỉ là một cục thịt để chịu đòn, chịu chửi: mà bước chân đi làm dâu ngày nào, là mang theo cả tổ tiên cha mẹ họ hàng đi ngày ấy, để người ta hơi một tí là nói đến cho bõ đồng tiền phải tiêu.
Minh lại rất ngạc nhiên cho Sanh, là chàng không cho cái nhân duyên hờ hững này là đáng chán bao giờ. Chàng như người chồng không có ái tình, không lấy sự yêu vợ làm vui, thì cố nhiên không cho sự vợ hờ hững làm buồn. Chàng lấy nàng về, không phải để làm vợ cho chàng, mà để làm dâu cho mẹ, làm chị cho em. Thế thì có lẽ khi nàng có mang mà đẻ được một đứa con với chàng, thì chàng lại chỉ coi nàng như mẹ đứa con của chàng mà thôi. Vậy ra nàng chỉ là một nhân vật mà đến cả chồng cũng không nhận là thân, huống chi còn đến mẹ, đến em, đến họ hàng. Họ hàng, thì bà thím, bà cô vì vay mượn không đắt mà đâm ra ác cảm với nàng, cũng xúc xiểm thêm vào cho mẹ chồng ghét hơn nữa. Người ta coi nàng như một người khác máu mủ, mà theo thói quen đời đời, người ta có quyền được uốn nắn theo khuôn mẫu nhà người ta, nếu không thì có lẽ nhà người ta phàì hại gia đạo. Mà nhất là Minh, có tư tưởng cho nàng là trái ngược hẳn về nề nếp nhà người ta; người ta càng cần phải thẳng tay uốn nắn. Song, nói thật ra, nàng là người mới, nàng không sao chịu nổi được cái chế độ gia đình nhà chồng, mà nàng cho là hủ lậu.
Thở dài, chán nản, Minh ngẩng đầu nhìn ra cửa sổ, những sợi mưa đan lưới lại làm cho nàng chạnh niềm thương nhớ thân thế đã hoàn toàn mất tự do.
Rồi nàng lại cầm tờ báo, đọc lại bài thơ lần nữa:
"Muôn chung nghìn tứ hẹn duyên sau,Chửa kịp trao tơ đã ngậm sầu.
Mờ mịt luân hồi, thôi hão quách.
Mênh mông mộng giới, biết tìm đâu!
Ngàn năm hội ngộ bao lần nữa.
Một kiếp vô duyên mấy khúc đau!
Lệ có thấm nơi hồn mệnh bạc,
Suối vàng ai họa thấu tình nhau"
Minh đặt tờ báo xuống, lại thở dài và nhắm mắt. Bài thơ này, chẳng qua là lời than thở thất vọng của Nhã, nhưng nàng được an ủi, vì Nhã cũng đã hiểu cho nàng và nhận là nàng cũng như người đã chết rồi, mà làm mấy câu để khóc lóc. Thì được mấy giọt lệ của một người yêu nhỏ cho, trước khi xuống suối vàng, nàng thấy thú vị, nồng nàn hàng mấy mươi cỗ lớn mâm đầy của bà Tuần bày đặt ra để đón nàng độ trước.
- Hỏi ai?
Lắng tai, thì nàng thấy tiếng Phượng, một người học trò của nàng đương thỏ thẻ nói:
- Tôi hỏi cô. Cô có nhà không ạ?
Minh toan ngồi dậy chạy ra, nhưng vì thấy Oanh vẫn gắt nên thôi, nàng thử xem Oanh làm những gì.
Oanh nói:
- Hỏi ai? Cô nào mới được chứ.
- Cô giáo!
Oanh mắng:
- Bận sau, chị hỏi ai thì hỏi rõ rằng tên người ấy người nọ nhé, chứ cô! Cô! Thì ai biết là cô nào! Cô giáo chị chứ cô giáo cả bàn dân thiên hạ đâu mà chị nói là cô giáo. Bận sau, phải gọi là "cô giáo tôi" nghe chưa?
Phượng đáp bằng giọng sợ hãi:
- Vâng.
- Mà chị đến nhà người lạ, phải chào hỏi, thưa gửi cho có lễ phép, kẻo người ta nói đến cô giáo chị không biết bảo chị.
- Vâng, thưa cô, tôi hỏi cô giáo Minh tôi.
Minh giận quá, càng chú ý nghe. Oanh nói:
- Phải, được, nhưng chị là học trò cô giáo chị phải không?
- Vâng.
- Thế ở trong trường cô giáo chị không dạy các chị à?
- Bẩm có dạy ạ.
Oanh hoạnh:
- Có mà vào đây, chị nói thế à? Chị phải biết chị đến nhà này, chị không được đọc tên cô giáo, vì ở đây kiêng, chị hiểu chưa?
- Vâng.
- Bận sau. các chị phải bảo nhau, mà gọi là "Miêng’’ nghe chưa?
Minh vừa bực mình vừa buồn cười. Phương hỏi:
- Thưa cô. Cô giáo tôi có nhà không ạ?
Oanh giở giọng mát mẻ, đáp:
- Cô giáo ấy à? Tôi cũng chẳng rõ. Dễ thường cô ngủ chưa dậy, Ờ đã hơn ba giờ chiều rồi. Thế thì độ hơn năm giờ chị hãy lại nhé. Vì bao giờ cô giáo chị cũng chịu ăn chịu ngủ lắm.
Minh ngồi dậy, vấn tóc, loan chạy ra, thì thấy Oanh gọi giật:
- Này!
Phượng đáp:
- Dạ.
Minh đứng yên, lắng tai. Oanh hỏi:
- Chị hỏi cô giáo việc chi cần?
- Không cần lắm.
Rồi thấy Oanh dịu lời, Minh càng ngạc nhiên:
- Chị cứ nhắn tôi đây cũng được.
- Thưa cô, tôi đến xin phép cô giáo cho tôi nghỉ thứ sáu, thứ bảy, để về nhà ăn tết, vì tôi ở xa.
- Chỉ có thế thôi à?
- Vâng.
Oanh nói giọng rõ ràng để vặn:
- Không có lẽ. Hay ai bảo chị đến đây có việc gì? Chị cứ nói thật.
Minh cau mặt, chưa hiểu ý Oanh. Phượng đáp:
- Không ạ.
Oanh cười dỗ dành:
- Hay ai nhờ chị đưa thư cho cô giáo phải không? Có thì cứ trao cho tôi, chốc nữa cô giáo dậy, tôi đưa hộ.
Vẫn giọng ngây thơ, Phượng nói:
- Không ạ.
Minh cắn môi nghĩ. Oanh lại bắt nọn:
- Hình như có ông giáo nào, tre trẻ, vẫn viết thư viết từ cho cô giáo đấy mà.
Minh nghẹn ngào, lấy tay vuốt ngực, khẽ ngồi xuống ghế. Phượng vẩn ngơ ngác:
- Thưa không.
- Có, rõ ràng có, Chị lại giấu cho cô giáo chị chứ gì! Mọi khi tôi vẫn nhận thư hộ cô giáo đấy mà. Thôi, đưa thư đây.
Minh lắc đầu. Không ngờ Oanh lại hèn hạ, đa nghi đến thế. Phượng đáp:
- Thưa cô, thế thì tôi không biết.
- Này, tôi hỏi nhé, chị nói thực nhé. Ở trong lớp, các chị có yêu cô giáo không?
- Thưa có.
Minh càng chú ý. Oanh hỏi:
- Có à? Cô giáo chị có tử tế không?
-Thưa có, cô giáo tôi tử tế lắm.
- Tử tế kia à? Hừ! Chẳng có lẽ. Chị cứ nói cho thật. Nhà này là nhà chồng cô giáo chị, chứ có phải nhà cô giáo chị đâu mà sợ? Thế cô giáo chị có tử tế thật và các chị có
yêu cô giáo thật hay không?
- Bẩm thật. Cô giáo tôi tử tế nhất và cả trường ai cũng yêu mến.
Minh hởi dạ. Rồi nàng thấy Oanh im, biết rằng Oanh bẽ và có lẽ đương tìm các câu khác để hỏi dò. Một lát, Oanh nói:
- Thế chị bảo cô giáo tử tế những gì?
- Thưa cô, tại cô giáo tôi tử tế.
- Chuyện chị này dở như cám hấp ấy! Tử tế thế nào mới được chứ! Thôi thế là chị nói dối quanh rồi! Thì cứ nói rằng cô giáo ác có thật thà hơn không nào.
Phượng cười:
- Không, cô giáo tôi không đánh, không phạt chúng tôi bao giờ, cô giáo tôi rất thương người, coi chúng tôi như lũ em bé, bao giờ chúng tôi cũng vui lòng học.
- Thế cô giáo dạy các chị những gì?
- Thưa cô đủ cả.
- Có luân lý không?
- Có.
- Có kia à? Thế các chị có biết may vá thêu thùa gì không?
- Bẩm ở trường cũng có dạy cả
- Không có lẽ.
- Thật đấy.
- Chả tin được mồm các chị. Thế cô giáo chị có dạy các chị làm ăn nấu nướng gì không?
Phượng cười không đáp. Oanh hỏi:
- Hẳn không chứ?
- Vâng, cái ấy thì cô vẫn dặn chúng tôi phải học thêm ở nhà.
Oanh nói giọng sung sướng:
- Thế chứ lỵ! Ở trường thì cô giáo nào dạy nổi các chị những thức ấy. Cô giáo các chị chỉ bắt các chị học những cái vô ích, còn những cái thiết thực, thì chính cô giáo cũng tịt mù.
- Thưa cô, tôi xin phép cô tôi về.
- Thế thật chị không có thư ai gửi cho cô giáo phải không?
- Bẩm vâng.
- Nếu có mà chị không đưa tôi, chốc nữa cô giáo dậy, rồi nói chuyện. Rồi mai chị phải mắng thì mặc kệ đấy nhé!
- Vâng.
Phượng chào Oanh rồi đi. Minh chờ một lúc lâu, bèn mở cửa buồng, vờ ngái ngủ, ra nhà ngoài, nói với Oanh:
- Ngủ một giấc thích mắt quá. Giá cô không có khách nói to ở ngoài này vừa rồi, dễ thường tôi ngủ đến chiều. Ai đến chơi với cô thế?
Oanh cuống quít, kéo tụt cái khăn bịt đầu xuống tận trán, rồi quay mặt đi, đáp:
- Khách nào đâu. Học trò chị đấy mà!
- Nó đến hỏi gì, cô có biết không?
Oanh vẫn có ý lúng túng ngượng ngùng. Minh trông thấy cái đường ngôi rẽ lệch của Oanh. Thấy Oanh chưa đáp, Minh lại hỏi. Bỗng Oanh liền quay mặt nhìn Minh, tức giận nói:
- Hình như nó đưa cái giấy gì của ai gửi cho chị.
Minh hiểu ý Oanh, hầm hầm chạy nhanh ra cửa để toan gọi Phượng lại. Nhưng nàng không trông thấy Phượng nữa, mà thình lình nàng bắr gặp Nhã! Nhã ngồi trên xe, có che áo tơi cánh gà, đang để mắt dòm vào nhà nàng. Minh biến sắc mặt. Hai người không kịp chào nhau. Minh bồi hồi, bàng hoàng. Nàng mừng thầm đã thấy Nhã khoẻ mạnh. Nàng lại rất vừa ý, vì chắc Nhã đã trông rõ cái mặt hốc hác và những sắc giận dữ mà nàng vừa lộ ra ban nãy ở trong nhà chồng nàng. Thế thì hẳn Nhã sẽ được an ủi.
Minh quay trở vào, thấy Oanh xổ tóc rũ rượi và đương nhìn mình bằng hai con mắt ngờ vực.
Rồi một phút yên lặng, hai người không nhìn nhau nữa. Lúc ấy Oanh và Minh như hai thù địch, chỉ cố dàn trận cho mau chóng để khỏi thế công. Bỗng Oanh vừa vấn lại đầu, vừa ngọt ngào nói:
- Chị Cả ạ, em có điều này muốn nói. Nhưng mà thôi.
Minh biết Oanh trêu chọc, càng cố gạn:
- Cô cứ nói.
- Chả biết có nên nói hay không đây!
- Cô cứ thử nói xem nào.
- Mà thôi, nói làm quái gì! Không nên tưởng ai cũng thật thà như mình.
Minh tức quá, nói gay gắt:
- Cô cứ úp mở mãi. Đã là chị em sao cô còn thế.
- Vâng, nhưng chị là chị. Lỡ ra chị lại cho em là dạy khôn.
Minh căm, như bị xói vào tận ruột gan:
- Thì cô dạy tôi cũng được chứ sao?
- Thế thì chị nghe nhé. Này, chị ạ, em tưởng, em tưởng mà thôi đấy nhé, em tưởng chị Cả nên thế.
- Nên thế nào?
- Em tưởng chị chả nên ngủ ngày như thế. Người ta cười cho chị ạ.
Minh cười khinh hỉ:
- Người ta cười như tôi thế này phải không?
Oanh tức, đặt lược xuống, nói:
- Người ta cười thật đấy. Người ta mỉa mai cho đấy. Mẹ mua chị về để hầu mẹ, chứ mua chị về để ngủ ngày đâu?
- Cô không nên nói tiếng mua. Tôi không phải nô lệ. Mẹ cưới tôi về, để làm vợ anh, để làm dâu mẹ.
- Chị nên dịu dàng, chị xem, em vẫn ngọt ngào mà.
- Cái ngọt ngào của cô là cái ngọt ngào chua chát, cái ngọt ngào giết người, cô phải biết mọi khi, những ngày tôi khoẻ mạnh, tôi có phải đi nằm bao giờ đâu.
- Chị lại sừng sộ rồi. Em nhát lắm. Chị tha cho em. Là em nói rằng chị nên để ý đến việc tề gia nội trợ một tý, một tý thôi.
- Thế cô thấy những ngày nghỉ, tôi lười biếng những gì?
Mát mẻ, Oanh nói:
- Em chả biết, em thấy mẹ dặn em bảo chị thế. Mà em cũng xin chị chớ cãi trả mẹ. Chả dám nói mẹ là mẹ chồng làm gì cho thêm nặng tình, nhưng kính lão đắc thọ, chị ạ. Họ hàng kêu ca nhiều lắm đấy, chị ạ!
Minh nghẹn ngào. Oanh lại nói:
- Cô Phán còn nói đến tận bây giờ rằng hôm cưới, chính tai cô nghe thấy chị bảo là mẹ bắt cóc.
Minh lạnh toát cả người, đáp:
- Phải, chính tôi nói. Thì cô nghĩ lại xem có phải không?
- Phải, phải lắm! Chị mỉa mai nhà tôi. Chị nói ý là làm quan là hay ăn tiền dân, quen tính bắt cóc.
- Sao cô khéo chẹo mồm ra lắm thế?
- Chị lại còn đay nhà tôi hủ lậu, không được tân thời như chị. Phải, mẹ tôi đã già, chả lẽ bây giờ chị bắt mẹ tôi rẽ lệch với cạo răng trắng như chị hay sao, mà chị bảo bà cả Tài rằng: có kham nổi hai hàm răng trắng của chị không. Thôi, mẹ già rồi, mà mặc tân thời như thế, thì người ta bảo là vợ tây, chị ạ.
Thấy Oanh nói cạnh. Minh giận run lên. đáp:
- Tôi nói thế đấy. Tôi sợ gì mà phải giấu.
- Phải, chị sợ ai nữa. Cả nhà nói như lạy như van để chị đi nhuộm răng, nhưng chị có coi ai ra gì đâu! Chị đi làm, chị có tiền mà! Chị có học mà!
Minh nói to:
- Cô không được nói thế. Cái hàm răng không thể làm giảm nhân cách người ta được.
Cuộc xung đột vừa nhóm, thì bà Tuần ở trên gác, mở cửa, dòm xuống, hỏi:
- Cái gì thế?
Sanh hớt hải, chạy đến, nhăn nhó nhìn hai người bằng con mắt nằn nì.
Bà Tuần nói:
- Xà! Oanh! Câm mồm ngay! Mày là em, mà hay chòng chọi với chị! Thôi, chị Cả. Oanh! Mày hỗn lắm. Mày bằng sao được với chị mày. Mày thì cắp sách đi học ngày nào, mà dám, cả gan lý sự với chị. Thật là đánh trống qua cửa nhà sấm.
Minh ngẩng lên nói:
- Bẩm mẹ, con tưởng học hay không thì cũng...
- Thôi, thế thì mẹ lầm. Mẹ xin lỗi mợ. Một câu nhịn là chín điều lành. Mẹ chẳng còn sống được mấy nữa. Mẹ không muốn lo nghĩ về dâu về con mà gầy người đi. Thôi, mẹ chồng già mẹ chồng chết, nàng dâu có nết thì nàng dâu chừa. Cậu Cả có vợ thì cậu phải dạy, đừng để bận lòng mẹ nữa.
- Bẩm mẹ...
Minh chưa nói dứt câu, hai cánh cửa gác đóng ập lại. Sanh kéo tay Minh vào nhà trong. Oanh nhìn theo tức lắm, nói:
- Anh cứ chiều chị ấy thế không trách được.
Thấy vợ mặt đỏ bừng bừng, quay lại Oanh, Sanh can:
- Thôi, không lôi thôi nữa.
Minh giằng tay chồng ra, mạnh đến nỗi Sanh dúi vào tường suýt ngã.
Thấy Sanh lạng người, Oanh kêu:
- Bẩm mẹ xuống xem, chị Cả đánh anh cả.
Dứt lời, Oanh sấn nắm lấy tay Minh.
- Chị không được hỗn thế.
Sanh chạy lại can. Thành ra ba người giằng co nhau.
Giữa lúc ấy thì bà Tuẫn chạy xuống. Bà thấy ba người làm như hoa mắt, mà Oanh thì đầu tóc rũ rượi, bà yên chí là có cuộc đánh nhau to. Thế là bà Tuần dùng cả sức nặng của bà để lao vào con dâu, bà ôm chầm lấy đứa lăng loàn, hai chân giậm xuống đất bành bạch, và kêu như người vớ được kẻ cắp:
- Ôi hàng phố ơi!
Rồi bà nói:
- Mợ đánh nó thì mợ đánh ngay tôi đi cho xong. A, con này giỏi, mày thử đánh ngay cái gái già này thử xem sao nào!
Minh lúng túng cố giằng mẹ ra nhưng vừa bị Oanh ôm chặt hai cánh tay. Bà Tuần nhân thế, đấm Minh thùm thụp.
Sanh can:
- Mẹ chưa hiểu, mẹ buông ra. Không phải.
Minh cũng sổ cả tóc. Vạt áo rách toạc. Nàng tím bầm lại, nghiến chặt hai hàm răng, không nói được một lời. Bà Tuần, Sanh và Oanh thì mỗi người một điều, xôn xao, thành ra không ai nghe ai nữa. Một lúc, Minh mệt quá, khuỵu lả, ngã xuống đất. Thì cả Oanh lẫn bà Tuần cùng vồ theo. Bà Tuần nằm thở ỳ ạch, kêu trời rên rỉ.
Sanh lôi mẹ dậy, và giúi vợ vào buồng, đóng cửa lại. Lúc ấy nàng mới thấy đau hai hẳn một bên đùi, vì bà Tuần đè phải.
Nàng ngồi gục đầu trên bàn, nức nở khóc. Nhà ngoài, tiếng ba mẹ con vẫn còn ồn ào. Khi thấy bà Tuần cất tiếng chửi nàng, nàng bèn hung hăng đứng dậy, đẩy cửa chực ra, nhưng then ngoài đã gài, nàng không ra được. Nàng nhìn đồ đạc, những muốn phá tan cả ra cho bõ hờn. Nàng muốn đạp cả cái buồng nàng lúc ấy chỉ là một cái cũi. Nàng thấy mạnh mẽ lạ thường.
Một lát, nàng cưong quyết lấy giấy bút, viết đơn xin đổi mạn ngược.
Nhưng trong dịp tết, nàng vẫn giấu kín cái tin mừng ấy ở nhà chồng. Nàng định đến tận mùng bảy, là ngày nghỉ cuối cùng, mới nói ra. Như vậy dù bà Tuần muốn giữ nàng bằng gì cũng không kịp.
Chiều mồng sáu, các chị em bạn thân đặt một tiệc tiễn Minh tại nhà Xuân. Minh được chồng cho đi, vì nàng nói dối là phải họp hội đồng về việc học, trước ngày khai trường, và nhân tiện một người bạn mời ăn cơm. Bà Tuần bằng lòng, vì từ hôm năm mới, lúc nào bà cũng vui vẻ hể hả, dường như quanh năm, bà vẫn là bà mẹ chồng có lượng, và hay chiều con dâu vậy. Nhờ lẽ bà sợ rông, nên Minh được tháo khoán trong mấy hôm đầu năm.
Bữa tiệc hôm ấy rất vui. Chị em giở những chuyện cũ ngày còn đi học ra để nói, khiến ai nấy cười vang. Song, sau cuộc vui, mọi người đều ngậm ngùi cho số phận của Minh.
Hảo nói:
- Tôi đố các chị biết chị Minh được đổi là đáng mừng hay đáng lo?
Xuân đáp:
- Cái đó ta không thể biết trước, nhưng hiện nay chị Minh được xa hẳn nhà chồng, thì về phần riêng chị, hắn chị thấy nhẹ nhõm.
Minh cười, gật:
- Ở đời, tránh được cái khổ ngày nào, hay ngày ấy. Tôi sẽ được tênh tênh sống lại những ngày còn son.
Hảo lắc đầu:
- Nhưng tôi không nghĩ như các chị. Đành rằng các chị được ở riêng một nơi, thì bây giờ chị khổ sở bao nhiêu, chị mới biết cái đời chị ở Vĩnh Yên là sung sướng bấy nhiêu. Song, tôi tưởng khi nào nghỉ mà chị về nhà, thì mẹ chồng và em chồng chị vẫn chờ chị ở cửa, để làm cho chị khó chịu. Nhất là khi những người ấy biết là chị xin đổi vì họ. Thế thì chị tất phải khổ nhục bằng mười, mà khi ấy, chị phải xử lại một cách kịch liệt hơn.
Minh ngậm ngùi, thở dài. Thục đập tay xuống bàn, nói:
- Không trách tôi cứ chịu đắng chịu cay những lời của đời mai mỉa tôi là ế chồng. Kỳ thực tôi thấy những cảnh mẹ chồng nàng dâu ở xã hội mình mà tôi đâm ra sợ lấy chồng. Thà rằng một thân một mình suốt đời còn hơn.
Đức xua tay, nói:
- Cho nên tôi phục nhất chị tôi. Có lẽ các chị chưa gặp cảnh éo le như bà ấy. Tôi thấy trần đời bà ấy khổ có một. Không những mẹ chồng ác nghiệt mà chồng lại vũ phu, chơi bời, thế mà chị tôi gan, một mực chịu được.
Thục nói:
- Tại các bà ấy đúc theo cái khuôn cũ. Cô tôi cũng vậy. Giá như mình, thì mình bỏ về từ bao giờ. Vậy mà bà ấy cứ lăn lưng vào chịu sự nhẫn nhục. Nhất là về nhà, bà ấy vẫn nói tốt cho nhà chồng mới cáu chứ. Việc bà mẹ chồng hành hạ sờ sờ ra đó, bao nhiêu người biết mà hỏi thì bà ấy vẫn cứ nói là không.
Đức nói thêm:
- Chị tôi cũng vậy. Không biết các bà ấy nghĩ thế nào nhỉ?
- Tôi cho các bà ấy là hèn, là nhát, không dám đối phó lại, là vì các bà ấy không có nghề nghiệp, sểnh nhà chồng ra là chết.
Minh ngồi ngẩn người ra nghe, rất cảm động.
Bỗng Đức hỏi:
- Chị Minh, chị cũng nên xử trí ra sao, cho khỏi mang tiếng bọn có học mới chứ? Hay chị cũng xuất giá thì tòng phu gàn, phu dở để cho đúng với luân lý tốt ngàn xưa?
Xuân đỡ lời Minh, hỏi Đức:
- Vào địa vị chị, chị làm thế nào?
- Không bao giờ tôi nghĩ đến việc lập gia đình. Tôi là một người chán đời. Tôi không thể hợp tác được với bọn ngươi cổ hủ.
- Nhưng ít ra chị cũng có một cách đối phó hay hay chứ?
- Chị phải biết bao nhiêu người hỏi tôi mà tôi không nhận Iời, là vì những người ấy còn cha mẹ, nhất là còn mẹ. Ai muốn lấy tôi, thì phải bằng lòng cho tôi ở riêng ngay, không dính dáng gì với gia đình nữa.
Xuân hỏi:
- Ngộ người ta không cho?
Thục đứng dậy, vênh váo nói thay Đức:
- Không cho thì thôi, chúng tôi có cần lấy chồng đâu.
Xuân hỏi Thục:
- Chị vào địa vị chị Minh, thì chị làm thế nào?
- Thì ngay từ buổi đầu, tôi không để cho mẹ chồng áp chế. Tôi thì làm cho tung hoãng.
Minh cười, thở dài. Thục nói tiếp:
- Phải, tôi cứ nghĩ, thì hai cái mới cũ không bao giờ gặp nhau được. Để gần nhau, thì cả hai cũng bị hại. Sống thời nào, phải theo thời ấy, mới là hợp lẽ phải chứ cứ theo bo bo những thói cổ thì ai chịu được. Mình phải tỏ ra cho người cũ biết rằng mình mới, là mình hơn họ. Mình có học, mình phải tự trọng. Mình là người, mình phải có quyền.
Minh nói lời:
- Từ ngày lấy chồng, bây giờ tôi mới được nghe những câu hợp lý. Khúc nào người bị tù về tinh thần, nay được tạm tha!
Xuân lắc đầu, buồn bã:
- Cái vấn để kết hôn ở ta còn chưa giải quyết, thì bọn mình còn bị khổ.
Thục cáu:
- Thì việc của mình, mình cần ai giải quyết. Cứ như tôi, thì những lời bàn suông nói hão ở các báo là vứt đi hết. Phải có một đội cảm tử, biết hy sinh đời mình, hoặc hạnh phúc của mình thì các bà mẹ chồng mới đỡ tàn nhẫn được.
- Nghĩa là phải xảy ra nhiều vụ tự tử, nhiều vụ kiện ly dị hoặc nhiều người bỏ nhà trốn đi ấy à?
- Phải.
- Gớm, chị nói nghe mà rùng cả mình.
Thục giơ tay lên, cứng cỏi nói:
- Phải đạp đổ chế độ cũ, đoạn tuyệt với gia đình cũ.
Mình hăng hái, nói:
- Tôi rất đồng ý với chị Thục. Cái chế độ gia đình cũ đã làm tôi thành ra một người giận đời, bất đắc chí. Trước tôi hiền lành bao nhiêu, nay tôi liều lĩnh bấy nhiêu. Tôi đoán trước những tấn bi kịch. Mà tôi mong nó xảy ra nhanh chóng. Nếu tự nó không xảy ra ngay, tôi sẽ sửa soạn lấy. Xin các chị chờ.
Cả bàn tiệc trông theo nét ngậm ngùi của Minh, cảm động lắm.
Đồng hồ vừa điểm tám tiếng, câu chuyện đương nồng, bỗng cửa ngoài có tiếng gõ. Người nhà ra mở cửa vào nói với Minh:
- Thưa cô, cậu ấy đến đón cô.
Minh đỏ mặt, tức bực chạy ra. Thục nhìn theo lắc đầu, rồi nói rõ to:
- Ai nuốt mất chị Minh kia chứ!
Mọi người xua tay, Thục càng tức, lại nói to:
- Chị cứ bảo nó về, chốc nữa hãy đến đón, bây giờ còn sớm nhé.
Đoạn, Thục bưng miệng cười, rồi thì thầm:
- Thì mình cứ làm như mình tưởng là thằng xe đi đón mợ ấy chứ gì?
Minh hầm hầm, trở vào:
- Thôi, Tôi xin lỗi các chị. Tôi về. Chị em nói chuyện thế là đủ. Ở đời, ta nên làm nhiều hơn nói. Đời người đàn bà có chồng là đời mất tự do.
Hảo níu tay Minh, nghiến răng, nói:
- Mặc kệ, cứ ở đây xem họ làm gì nổi nào.
Xuân can:
- Thôi, ta không nên giữ chị Minh, chị bị giày vò, nó không hay gì cho ta cả.
Minh căm giận, rơm rớm nước mắt, gượng cười, chào các bạn, rồi đi. Xuân tiển ra cửa. Minh dặn:
- Rồi thỉnh thoảng chị lên chơi với tôi nhé. Anh Nhã biết, tin tôi đổi chưa?
Xuân gật:
- Đã, anh ấy khen chị làm rất phải.
- Bây giờ việc đã thành, tôi nói thực chị nghe rồi chị hỏi ý kiến anh ấy nhé. Trước tôi định nếu không đổi, thì quyết tôi sinh chuyện để ly dị. Ly dị không được nữa, thì tôi trốn đi đằng nào thì đi. Mà không trốn được, là tôi liều mạng.
Xuân nghe bạn, lè lưỡi rùng mình:
- Nhưng nay được đổi thế này là êm chuyện.
Một lát, Minh nói:
- Tôi gửi lời chào anh ấy, chị nói hộ tôi, và chị nhắn anh ấy biết rằng bài thơ "Khóc bạn” của anh ấy đăng báo, đã làm tôi cảm động.
Chị em nắm tay nhau, dùng dằng mãi, Xuân mới mở cửa.
Sanh đứng đợi ở hè, đương hút dở điếu thuốc lá và nhìn phố.
Một luồng gió lạnh thổi như đánh vào mặt, Minh thấy rét buốt đến tận xương.
Sanh bẽn lẽn cúi chào Xuân, rồi hai vợ chồng đi, không ai nói với ai một lời. Minh thì vẻ mặt trầm ngâm.
Hàng phố mới có một vài nhà mở cửa lấy ngày, nhưng cũng không có khách. Ngoài đường, người đi bộ rất ít.
Bỗng Sanh bảo vợ:
- Tôi gọi xe đi cho chóng, kéo mẹ mong.
Mình đáp:
- Thôi, đi bộ cho ấm. Tôi có chuyện muốn nói riêng với cậu, trước khi bẩm mẹ.
Sanh ngạc nhiên, nhìn vợ. Minh nói:
- Cậu ạ, tôi phải đổi.
Sanh đứng dừng lại, trợn mắt, nắm lấy cổ tay Minh. Minh thương hại chồng, dịu dàng nói:
- Phải, tôi phải đổi lên Vĩnh Yên.
- Lên Vĩnh Yên. Tại làm sao mợ phải đổi?
- Tôi không rõ.
- Thế mợ đã làm giấy xin ở lại chưa? Chắc rằng mẹ không bằng lòng cho mợ đi thế.
- Mẹ không bằng lòng, nhưng công việc như thế, thì cũng dành phải chịu chứ gì?
Sanh thở dài. Minh tiếp:
- Tôi định đến mơi mới bẩm mẹ. Trưa mơi tôi đáp xe lửa đi Vĩnh Yên.
- Nhưng mà mợ nên bẩm mẹ ngay, để xem mẹ có cách gì xin cho mợ ở lại không?
- Nghị định người ta làm rồi, chả còn cách nào nữa.
Hai người yên lặng một lát, Minh nói:
- Cậu có nhớ tôi không?
Sanh lại đứng dừng, nắm chặt tay vợ, âu yếm nhìn vợ mà không đáp. Minh thấy nét mặt thật của chồng tự nhiên nàng cảm động. Nàng rủ chồng đi vòng ra Bờ Hồ, để được lâu thì giờ nói chuyện, chồng đáp:
- Thôi mau mà về, trời này, ai lại rủ nhau đi chơi Bờ Hồ bao giờ.
Nghe tiếng chơi, Minh thấy nao nao cả lòng. Nào nàng có cốt rủ chồng đi chơi. Nàng chỉ nhân dịp để nói kỹ với chồng về việc gia đình và việc đổi chác. Muốn chiều vợ, Sanh phải đi theo.
Ngày trước, nàng vẫn ước đến khi lấy chồng, thì những ngày thường, nàng sẽ cùng chồng dạo chơi ở chổ này để ngắm cảnh và hóng gió. Nhưng nay nàng đã có chồng, mà lần này nàng đi với chồng ra Bờ Hồ hẳn hoi, thì chồng nàng lại là Sanh, mà cảnh thì lại vào rét. Chẳng có một ai qua lại trong chỗ người ta tấp nập chen nhau vào những buổi mùa hè. Bờ Hồ hình như thênh thang rộng rãi. Vành trăng lưỡi liềm lạnh lùng ngả gần sát vào bóng đen của rặng mái nhà lô nhô. Mặt nước xám rung động những vệt ánh đèn giãy giụa.
Trận gió lật tung tà áo. Minh đứng sát bờ cỏ, ngắm cảnh. Sanh thu hai bàn tay vào bọc, run cầm cập, nói:
- Tôi yếu chịu rét lắm. Ta vào phố trong đi.
- Cậu không chiều được tôi hay sao. Mơi tôi xa cậu rồi mà. Mấy khi cậu với tôi đã được rỗi rãi mà ngắm cảnh và bàn chuyện tự do như thế này. Cái cảnh tịch mịch, làm êm dịu tâm trí tôi.
- Nhưng từ lúc nghe tin mợ đổi, tôi cứ rối cả lòng cả ruột.
Minh thở dài:
- Vĩnh Yên với Hà Nội cách nhau có một bước đường, ngại gì.
- Đành vậy, nhưng tôi vẫn chưa biết tính thế nào đây.
- Tính gì?
- Tính việc ở nhà hay lên theo mợ.
Minh cau mặt:
- Cậu hãy nên ở nhà hầu mẹ, rồi ta sẽ liệu sau.
Nói câu đó, Minh sực tưởng tượng ngay đến những nỗi khó chịu của mình, nếu Sanh cũng theo lên. Người ta sẽ gọi Sanh là "ông giáo Minh", người ta sẽ nhạo Sanh là ông nột trợ. Nàng nói:
- Mẹ già, cần có người ở gần để hầu hạ. Tháng sau, cô Oanh về nhà chồng, nếu cậu lên ở với tôi ngay thì mẹ buồn.
Sanh bùi ngùi, thở dài.
Sanh khoác tay vợ như khoác tay bạn tri kỷ. Hai người đi song song, lúc hiện ra dưới ánh đèn, lúc ẩn vào trong bóng tối. Ai không thấy, không đoán là một cặp uyên ương sống nồng nàn những ái tình!
Bỗng Sanh bấm Minh và trỏ một gốc cây. Nàng nhìn theo khi trông rõ là người, nàng phải bật cười và tò mò, nàng kéo chồng đi lại gần để xem ai gàn dở đến nỗi ngồi đó mà hóng gió rét. Nhưng bỗng nàng giật mình, thốt dừng bước, ấn cánh tay chồng ra và cố đi lấp sau mặt chồng và kéo chồng đi rảo bước. Sanh ngạc nhiên, nói thầm:
- Người ấy mà, sợ gì?
Chàng tưởng vợ sợ, chứ nàng có sợ đâu. Chỉ vì người gàn dở ngồi hóng rét ấy chính là Nhã. Nhã ngồi trên bãi cỏ, tựa vào gốc cây, duỗi dài chân, hai tay khoanh trước ngực. Thật là một cái núi tương tư.
Khi đi đã xa, Sanh vừa cười vừa nói:
- Thằng cha muốn tự tử.
Câu nói đùa vô tình mà Iàm Minh dào dạt. Thì ra cũng như nàng, Nhã muốn tìm những cảnh tịch mịch để được êm dịu cái tâm hồn bị rầy lộn bấy lâu nay. Có lẽ lúc nào Nhã cũng nghĩ đến nàng, Nếu thật vậy, thì không ngờ nàng được sự sung sướng ấy.
Bà Tuần nằm thở ỳ ạch như người ốm nặng, hỏi:
- Vĩnh Yên là đâu, nước có độc không? Có đứa nào biết thì bảo tao!
Minh dịu dàng, thưa:
- Bẩm mẹ, Vĩnh Yên gần Hà Nội lắm, cách nhà có vài mươi cây số, làm gì có nước độc ạ.
Sanh nói:
- Bẩm cũng bằng từ đây sang Bắc Ninh thôi ạ.
Bà vẫn thở:
- Ngày trước thầy đi làm quan đã nhiều tỉnh, mà mẹ chả nghe thấy nói tỉnh Vĩnh Yên bao giờ. Nước có lành thật hay không hở cậu?
Sanh ái ngại, đáp:
- Bẩm nước lành thật ạ.
Bà lại hỏi:
- Hở Oanh?
Oanh thưa:
- Bẩm mẹ, thì ông Bố Lê cũng ở Vĩnh Yên, đấy ạ.
Bà rên:
- Ờ nhỉ.
Rồi nghĩ ngợi một chốc, bà tức giận, ngồi nhổm dậy, nói:
- Nhưng sao mới năm mới, người ta đã đổi con đi?
Cả nhà yên lặng, không ai đáp được câu hỏi khó khăn ấy.
Rồi một lát, bà hách dịch, gọi:
- Xe! Sắp sửa kéo tao đi.
Sanh ngơ ngác:
- Bẩm mẹ đi đâu ạ?
- Mẹ không để mợ ấy đổi đi Vĩnh Yên được. Mẹ đi kêu. Sanh, Minh và Oanh nhìn nhau. Bà Tuần hỏi:
- Sở Học Chính ở chỗ nào, con?
Minh sợ hãi nói:
- Bẩm mẹ, nghị định đã ra rồi, khó lòng nói lại được.
- Sao lại không, mợ nói dở vừa chứ. Người ta đổi mợ đi, tại người ta không biết mợ là nàng dâu trưởng.
Sanh can:
- Bẩm mẹ, Nhà nước bổ người làm việc đi chỗ nào có bao giờ phân biệt trưởng với thứ đâu ạ.
Bà Tuần gắt:
- Cậu cũng dở như cám hấp ấy.
Oanh nói:
- Bẩm mẹ, thật đấy ạ.
Bà Tuần gắt:
- Còn mày nữa. Tao sẽ kêu với quan trên rằng nó là nàng dâu trưởng, mà tao chỉ có một mình anh Cả mày là trai. Tao nói cả là mày sắp đi ở riêng, thì chị mày phải ở gần tao.
Oanh cả thẹn, can:
- Chết, mẹ chớ nói như thế. Rồi người ta cười cho đấy.
- Tao không cần. Nhà nước không xét kỹ, chứ thầy ngày xưa, nào là hộ đê, nào là dẹp giặc, nào là đốc thuế, lúc nào cũng trung thành, được ba cái tưởng lục, năm cái mề đay, thì nay Nhà nước phải đền lại cái công lao thầy, là cho mợ Cả ở lại mới phải.
Minh bấm Sanh.
- Chết, cậu có khuyên mẹ đi không, lỡ mẹ đến nói những câu ấy ở trên Học Chính thì người ta cười cho. Trên ấy tôi có nhiều người quen lắm.
Sanh và Oanh nhìn Minh. Sanh cau mặt, hỏi:
- Mợ có nhiều người quen mà đàn ông hay đàn bà?
- Những ông giáo làm thư ký ở đấy mà.
Sanh nhìn vợ, ghen tức, Nhưng bà Tuần đã sắm sửa xong. Bà sai Oanh xếp hộp trầu, rồi bảo Minh:
- Mợ cũng mặc áo vào, đi với mẹ. Chẳng lẽ người ta không nể vợ một ông quan hay sao.
Minh ngập ngừng, bảo Oanh:
- Cô không can mẹ đi, mẹ đi thật thì nguy quá.
Oanh vội nói:
- Bẩm mẹ...
Minh sực nhớ ra, mừng rỡ, vội thưa:
- À, bẩm mẹ, hôm nay chủ nhật, trên Học Chính đóng cửa ạ,
Bà Tuần díu đôi lông mi, hỏi:
- Chủ nhật thật hay chủ nhật dối hở Oanh? Sao tao nghe như chúng mày không thương tao thì phải.
Oanh nói:
- Bẩm thật ạ.
Nghĩ ngợi một lát, bà bảo:
- Được, tao cứ vào tuột nhà tư, càng hay.
Sanh nói:
- Bẩm mẹ có biết nhà ông đốc Học Chính ở đâu mà vào?
- Thì ngoài là công đường, trong là nhà tư, ai lạ gì. Cậu đừng bắt nạt.
Minh nói:
- Bẩm ông ấy ở nhà riêng, phố nào con cũng không biết ạ.
Bà tức quá, ngồi phịch xuống ghế, gắt đầy rớ um lên. Chán nản, Minh vào buồng sắm sửa hành lý. Oanh xuống bếp dọn cơm.
Một lát bà buồn rầu lắc đầu bảo Sanh:
- Mẹ quanh năm ở hiền tưởng gặp lành, ai ngờ cứ phải lo nghĩ mãi. Để rồi mẹ đi lễ ở đền Ngọc Sơn kêu cho nó ở lại vậy.
Rồi ghé lại gần Sanh, bà hỏi khẽ:
- Hay nó làm sao mà phải đổi, hở con?
- Thưa mẹ, con không biết.
- Đổi thế là phải giáng chức đấy nhỉ?
- Bẩm không ạ.
Bà Tuần nghĩ ngợi mãi, vẫn có ý nghi ngờ lời nói của con trai. Rồi chép miệng, bà thở dài:
- Giá còn thầy, thì những lúc này mẹ việc gì phải khó nhọc. Thầy chỉ cần nói một tiếng với ông Ba Đờ Suy hay Đờ Loa gì ấy là xong hết. Mẹ tức lắm, ra họ không nể cả từ ông quan Đại Thần.
Sanh yên lặng. Một lát, bà gọi:
- Mợ Cả!
Minh thưa:
- Dạ.
- Mợ không phải sắm sửa gì cả. Không đi! Mặc kệ!
Minh vừa sợ hãi vừa bực mình:
- Bẩm mẹ, mẹ hãy cho phép con lên đó, rồi hãy hay.
- Mẹ bảo không đi! Để đến mơi mẹ lên sở Học Chính nói lại cái đã. Nhưng mẹ hỏi thực mợ có làm lỗi gì hay không? Mợ cứ nói cho rõ.
- Bẩm không ạ.
- Nếu có thì mơi đến nói lại với người ta xoá nghị định đi cho. Mẹ không cho phép mợ đi một mình ở nơi non xa nước lạ như thế.
Minh nín lặng, bực tức đi vào. Bà Tuần gắt:
- Mợ không nghe mẹ phải không?
Minh đáp:
- Bẩm mẹ, đi làm mà phải đổi là một sự rất thường, có gì mà mẹ phải ngại à?
- Nhưng mợ thì mẹ không để cho phải đổi, mợ là nàng dâu trưởng.
Minh nói nhỏ với Sanh:
- Không đi thì người ta cách cổ về!
Bà Tuần nghe thấy, mắng:
- Cách thì về, không cần. Người ta không cho mợ ở lạì Hà Nội, thì mợ ở nhà. Không đi làm nữa, xem sao nào! Đã chết đói đâu mà sự.
Minh sợ hãi, dịu mặt, nói nhỏ với chồng:
- Cậu có bẩm mẹ lại đi không! Mẹ mà nóng nảy, thì mẹ bắt tôi ở nhà thực.
Rồi sực nghĩ đến em Lãng cần nàng nuôi đi học, nàng lo lắng. Nàng không dám vào buồng, sợ mẹ chồng cho là sắm sửa đi Vĩnh Yên thì bà càng quyết liệt, nên nàng
xuống bếp với Oanh.
Bà Tuần gọi Sanh, hất đầu, hỏi nhỏ:
- Nó đâu?
- Bẩm dưới bếp ạ.
- Mà mẹ cũng không muốn cho nó đi làm nữa, con ạ.
Sanh đưa hai mắt nhìn xuống đất, không đáp. Bà lại nói:
- Nó đi làm, cậy cố lương, khinh cả mẹ lẫn con. Mẹ thấy cô Phán, thím Ba bảo nó hay hợm của lắm. Nếu xin không được cho nó ở lại, thì mẹ bắt nó ở nhà.
- Bẩm mẹ, việc mẹ định lên xin tận trên Học Chính, con tưởng không nên.
- Sao lại không nên?
- Bẩm tại mẹ kể lôi thôi lắm.
- Mặc kệ tôi. Tôi cưới nó về làm vợ cậu, nhưng cũng phải làm dâu tôi nữa. Con bé sắp về nhà chồng, thì nó phải gánh vác công việc nhà này. Chứ đâu hay là khách, mà hỏi cái gì cũng u u miêng miêng. Mẹ đội đá ở đời để lo lắng mãi công việc ở nhà này hay sao..
Sanh cảm động:
- Bẩm mẹ, cờ đến tay ai người ấy phất. Việc gì mẹ phải nghĩ.
Bà bĩu môi:
- Nhưng chắc có biết cầm cờ đằng nào để phất không? Làm thân đàn bà mà tề gia nội trợ chẳng biết một tí gì cả. Đấy, con xem cô Phán, bác cử Kim phúc nhà người ta được con dâu ngoan ngoãn. Thế mà cái này, sao mà chỉ thấy nó bướng bỉnh, hỗn láo quen thân. Nó là ở nhà không ai dạy bảo, đi học thì đua chị đua em những cách ăn mặc, bây giờ đi làm, một bước lên bà, chẳng coi ai ra gì, thượng, hạ bằng đẳng cả. Thấy cảnh nhà ta, mẹ buồn quá.
Một lát, bà Tuần nói nhỏ:
- Này, mà con nên xem ý tứ nó kiển thận nhé. Mẹ thấy nói nó quen nhiều đàn ông lắm đấy.
Sanh tái mặt, bà Tuần lại bảo thầm:
- Hình như có đứa nào tên là Nhã, con thử dò xem nhé.
Cắn môi nghĩ một lát. Sanh đáp:
- Hay Nhã là người làm ở Sở Học Chính?
- Thế à? Con biết à?
- Bẩm mẹ, con đoán thế. Vì vừa ban nãy nó nói quen nhiều ông giáo làm thư ký ở đấy. Thưa, sao mẹ lại biết người ấy tên là Nhã?
Bà Tuần ra dáng thông minh, giảng:
- Tại một hôm, con Oanh nghe rõ ràng tiếng nó gọi một người tên là Nhã ở ngay trước cửa nhà ta, rồi cái người Nhã ấy lại đăng báo.
Sanh vẫn ngơ ngác. Bà Tuần tiếp:
- Ở cái tờ báo nó vẫn mua ấy mà. Con mở ra mà xem. Tao nghi quá. Nếu thật thế thì nhà ta đốn đến nơi rồi.
Sanh căm giận, run lên. Bà Tuần trợn mắt, dặn:
- Nhưng cứ lẳng lặng mà dò la. Thế mày có thấy nó viết thư cho ai bao giờ không?
Giữa lúc ấy, Oanh vừa ở bếp lên. Oanh hiểu chuyện, dài môi, ghé đầu vào, thì thào nói:
- Mà có thì người ta nhận thư ở trường, viết thư ở trường, anh con làm gì mà biết. Đấy, anh xem, nhiều cái bực mình lắm kia. Cả nhà cả họ chả ai bằng lòng cả. Ngay một việc đổi này, mẹ thì lo lắng là thế, mà chị ấy trân trân ra, hình như vui vẻ lắm thì phải.
Bà Tuần nói:
- Ừ, thì chả ở nhà lấy làm khó chịu mà! Đổi để khuất đi mà lỵ.
Vì vội vàng công việc, Oanh lại chạy xuống bếp, hớn hở lắm. Sanh thở dài, nét mặt đau đớn. Bà Tuần nói:
- Lúc nào con vờ khám hòm nó xem nhé. Hễ có gì khả nghi, thì lẳng lặng giữ lấy, rồi xem xét ý tứ. Nhất là con xem Nhã là đứa nào, nghe chưa. Việc này giá không có con em Oanh nó tinh ý, thì còn ai biết nữa. Thế cho nên bây giờ mẹ nhất định bắt nó ở nhà.
- Nhưng ngày trước mẹ hứa cho nhà con một ít lương để nuôi thằng Lãng, thành ra nếu nhà con không đi làm nữa thì ai nuôi thằng Lãng cho.
Bà Tuần hất đầu:
- Mặc kệ!
Hai mẹ con yên lặng nghĩ ngợi. Bà Tuần nói:
- Của chồng là của vợ, mà của vợ cũng là của chồng. Lương nó cũng là lương con. Mình cho nó được tiêu đồng nào thì cho, chứ quyền nó được đòi à? Thế cho nên việc gì anh rể phải nuôi em vợ?
Bỗng bà Ba vào, Sanh chào:
- Lạy thím ạ.
Bà Ba vừa đi vừa hỏi:
- Tôi nghe thấy chị Cả đổi đi Vĩnh Yên phải không?
Bà Tuần đáp;
- Vâng, cháu phải đổi.
- Thế đã đi chưa? Mơi đã khai trường mà.
- Chưa.
Rồi hất hàm, bà Ba nháy mắt, hỏi khẽ:
- Bây giờ đâu?
Bà Tuần cười trỏ tay vào bếp. Bà Ba cúi ghé đầu gần bà Tuần và Sanh, nói thầm:
- Tại làm sao nó phải đổi, bác biết không?
- Không.
Sanh nói:
- Bẩm thím, tự nhiên đấy chứ.
Mắt nhìn phía bếp, bà Ba tiếng nhỏ tiếng to:
- Này, ra nó xin đổi, thế có chết không!
Bà Tuần trợn mắt, há hốc mồm.
Sanh tái mặt, ôm đầu, ngồi phịch xuống.
Bà Ba vớ ống phong, ghé mồm nhổ quết trầu, rồi rón hai ngón tay lau môi...
Từ ngày xin từ chức giáo học đến nay, nàng lại sầu khổ bội phần. Bà Tuần giao cho nàng việc bếp nước thay Oanh. Nàng phải vùi đầu vào công việc, để ý từng tí nước mắm, xem xét cả cái lọ mẻ. Nàng sinh ra đời, chịu khó luyện tập tâm trí từ tấm bé, để lúc lớn, làm việc ích cho xã hội chứ không phải chỉ để rúc vào bếp, nhìn bốn bức tường tối đen!
Oanh đi lấy chồng, Minh đỡ được một người thù địch. Nhưng cũng vì Oanh đi lấy chồng mà bà Tuần và nàng lại coi nhau như thù địch gấp hai. Mẹ chồng nàng thì luôn luôn uốn nắn nàng cho chóng vào khuôn phép, mà trái lại, vì muốn trêu ngươi bà, nàng càng tỏ ý bướng bỉnh, bất phục tòng. Bởi vậy, không ngày nào trong gia đình không xảy ra một tấn bi kịch cỏn con. Nhất là từ ngày vắng Oanh, bà thường than thở là nặng mình, và những khi Oanh về chơi nhà, chẳng biết mẹ con thì thào cùng nhau những gì, mà bà ngồi một mình, bà rất buồn bã và hay gắt. Lắm lúc nàng thấy đối với sự đay nghiến, giầy vò, nàng trơ, không cảm nữa. Thật là chán ngán.
Quả vậy, xử với con dâu, bà Tuần như không cần cả lẽ phải nữa. Dù phải hay trái, hễ Minh làm là bà bắt bẻ liền, đến nỗi một đôi khi, Sanh cũng nhận thấy mẹ khắc nghiệt quá, và phải can ngăn. Hình như bây giờ thấy con dâu hoàn toàn phải sống gửi thác nhờ ở trong tay bà, thì bà càng hành hạ bắt nạt hết sức. Không trận mắng nàng dâu nào là bà quên khòng kể đến món ngót ba trăm mà bà phải bỏ ra để đền tiền ăn học của Minh. Biết thóp rằng từ khi làm tới nay, tuy tháng có lương, nhưng Minh phải tiêu pha về việc nhà Minh, hoặc cưu mang cho họ hàng, nên hiện nay Minh chỉ còn hai bàn tay trắng, bà Tuần càng khinh bỉ và căm giận dữ.
Bởi vậy những lúc buồn rầu, nghĩ đến tấm thân ỷ lại, Minh lấy làm nhục nhã quá. Ngày mẹ chồng bắt nàng xin từ chức, nàng đã nhất định không nghe, mà đã có tư tưởng liều lĩnh, là quyết cứ đi làm rồi sau muốn ra sao thì ra, nàng sẽ đối phó đến kỳ cùng, dù có phải ra toà theo kiện ly dị nàng cũng vui lòng. Nhưng một mặt thím nàng, và cô nàng khuyên can, một mặt bà Tuần bảo Sanh làm giấy mạo ký tên nàng, rồi thân hành đi xin cho nàng được từ chức.
Còn cái tự do độc lập về kinh tế nàng lại mất nốt, nàng thấy đời nàng không gọi là sống được nữa. Nàng hoàn toàn là nô lệ cả về vật chất lẫn tinh thần cho những cái cổ hủ. Nàng lại lo cho em Lãng không biết lấy gì mà ăn học đến chốn đến nơi. Cho mãi đến khi thím nàng rủ được người thuê lại căn gác, nàng mới hơi yên tám một chút.
Thỉnh thoảng được những ngày đi chợ một mình, nàng mới dám tạt qua về thăm nhà, hay đến chơi với Xuân. Nhưng mà đó chỉ là những dịp nàng được tự do tuôn nước mắt trong cái hồ lệ bấy lâu phải đóng kín. Thấy nói Nhã hiện ở nhờ nhà một người bạn trên Tam Đảo. Phần nhiều buổi sáng khác, nàng đi chợ sớm với con Sen. Tuy bà Tuần nói cho sang trọng là để nó đi cắp rổ hầu, nhưng nàng thì hiểu rằng nó đi làm mật thám, để lúc về thì làm chứng cho bà Tuần tin là nàng không có la cà vào đâu, không chào hỏi ai ở giữa đường và mua từng ấy thứ, nàng đã tính tiền đúng.
Lan man nghĩ ngợi, Minh về đến nhà lúc nào không biết. Theo lệ thường, nàng đưa mẹ chồng trông qua loa những thức mới mua để nghe dăm ba câu chê đắt hoặc của không tốt, rồi nàng đi đong gạo, và làm đồ ăn. Nàng mới thật là đầu bếp ở nhà này, chứ những con Vú, con Sen, thằng Xe, chỉ là những tay sai rất đắc lực của Oanh, nhưng rất hờ hững của nàng. Nhiều bận, thấy chúng chạy vướng cẳng mà nàng bực mình, không khiến chúng nó giúp việc nữa.
Minh buộc vạt áo sau lên trùm đầu cho đỡ tro bụi, rồi nàng nhóm các bếp. Nàng chịu khói đã hơi quen, không như lần đầu, nàng ngửi thấy suốt ngày áo và tóc nàng như ướp mùi khói khét.
Đứng bên bếp lửa một lúc nàng thấy hai má nóng bừng bừng. Móc túi lấy chiếc gương tròn ra soi, nàng thờ dài, tủm tỉm:
"Hai má hồng này thật đã vô duyên".
Vô duyên! Động nghĩ đến hai tiếng ấy là Minh nhớ ngay đến hai tiếng ly dị, ly dị cái chế độ cổ của gia đình để sống cái đời rộng rãi tự do hơn. Nàng cho rằng những cuộc xung đột hàng ngày là cái mầm của một cuộc ly dị công nhiên chắc chắn sẽ xảy ra. Vì bà Tuần không chịu nổi được nàng, nàng không chịu nổi được bà Tuần, rồi sao cũng có một ngày người nọ phải ly dị người kia, chứ cái mới cái cũ không sao hợp tác được.
Bỗng bà Tuần thủng thẳng đi vào, hỏi:
- Hôm nay có những gì ăn thế hở mợ?
- Bẩm còn đĩa thịt đông hôm qua, hôm nay con chỉ nấu canh cần với bác thêm quả trứng thôi ạ.
- Thế khúc cá rim, mợ để đâu?
- Chúng nó ăn cả rồi.
Bà Tuần nhăn mặt:
- Mợ phí lắm, không biết tiếc của. Đầy tớ thì cứ dưa với nước mắm cũng có thể tải được hàng nồi cơm. Cho chúng nó đồ ăn thì thích khẩu, chúng nó ăn biết thế nào là chừng. Phải tằn tiện cho mẹ mới được.
Tự nhiên Minh đâm ra nghĩ mẹ chồng nói đay mình. Nàng lững lờ, ấn củi vào bếp, và liếc thấy bà mở tủ đồ ăn ra, rồi kiễng chân lên, dòm vào. Bà nghiêng cái bát con, hỏi:
- Bát gì từ bao giờ mà mợ không cho nó rửa đi thế?
Minh nhìn lại. Có lẽ nàng quên, không để ý đến. Bà Tuần lẳng lặng, cầm cái bát, đến gần chum, múc nước rửa lấy.
Minh hiểu cả cử chỉ ấy, nhưng vờ không nom thấy. Bà Tuần thấy con dâu không trông, thì càng dội mạnh, và xuýt xoa kêu rét rầm rĩ. Nhưng Minh vẫn không quay ra.
Bà Tuần mở từng cái nắp liễn ra để hỏi, ngó vào giỏ muối, giơ chai nước mắm ra chỗ sáng, rồi tính từng ngày. Minh cứ lạnh lùng làm việc mình, bà Tuần xem xét chán rồi lên nhà. Minh trông theo, căm tức, lắc đầu thở dài, nàng nhìn rổ rau cần xanh ngắt. Nàng tiếc công nàng, nhiều khi đã cố hết sức làm đồ ăn cho ngon lành, mà không được cùng ngồi ăn với những người thân hơn. Thành ra phí cả công đi.
Minh bắc cái sanh lên bếp để xào thịt bò. Mùi hành mỡ thơm tho làm cho nàng quên nỗi khó nhọc. Rồi nàng xúc thịt và múc nước đổ vào sanh để nấu canh. Bỗng nàng nghe thấy tiếng mẹ gọi.
Minh úp vung lên sanh, chất thêm củi vào bếp rồi chạy lên.
Nàng thấy mẹ đương nói chuyện với một bà khách. Đứng lại lắng tai nghe, nàng nhận ra tiếng bà Huyện, chị em họ với bà Ba.
Minh vào cúi chào bà Huyện. Bà Huyện khẽ gật đầu để trả lời. Bà Tuần hỏi:
- Mợ có rỗi không?
- Thưa con đang dở tay.
- Được, để mẹ bảo con Sen xuống bếp trông cho.
Bà Tuần hỏi bà Huyện:
- Thế bà xơi cơm ở đây với tôi thật nhé?
Đoạn đứng dậy, bà lại gần Minh, nói thầm:
- Con chạy lên gác, mở tráp tròn, mẹ có một hào gói trong một đạo bùa vàng vàng, con lấy rồi bảo vú em đi mua thêm thịt quay nhé.
Bà Huyện cười:
- Thôi, gớm, cụ đừng bày vẽ ra làm gì. Cơm của cô giáo làm, chắc rằng ngon lắm rồi còn gì! Từ thuở bé, tôi đã nếm cơm của các bà ấy làm thế nào đâu.
- Thưa bà, tôi mới học làm ăn, khéo đâu được bằng các tiểu thư của bà lớn.
Bà Tuần đưa mắt không bằng lòng, nhưng Minh lờ như không biết.
Nàng chạy lên gác, rất căm bà Huyện. Nàng đoán rằng rồi bữa cơm này, dù có rất ngon lành chăng nữa, sau bà Huyện cũng nói đến suốt đời. Bà sẽ lấy đó làm thí dụ để mạt sát bọn gái mới.
Lúc nàng xuống bếp, sanh canh đã sôi sùng sục. Nàng vội vàng thái và rửa rau cần, rồì trộn thịt và tra vào.
Con Sen ngả mâm bát, nàng dọn các thứ đồ ăn, thấy ngon lành, sạch sẽ, nàng mừng lắm. Nàng cho là sẽ được trả lời bà Huyện một cách sâu sắc.
Mâm cơm bưng lên, bà Tuần, bà Huyện, Sanh và Minh cùng ngồi ăn.
Bà Tuần cười với bà Huyện, nói đùa:
- Cháu nó mới tập làm ăn, có gì bà bỏ lỗi cho nhé.
Bà Huyện đáp:
- Cụ cứ dạy, các cô ấy có học, chắc làm ăn khéo lắm.
Minh tím mặt, không đáp, xới cơm cho mọi người.
Bỗng bà Tuần húp một thìa canh, rồi ngớ mắt lên, nhìn Minh. Nàng không hiểu chi cả. Bà Tuần nói:
- Chết chửa! Mợ Cả?
- Dạ.
- Mợ quen ăn thế này à?
Minh ngơ ngác nhìn bát canh, rau vừa tái còn xanh. Nàng hỏi:
- Bẩm mẹ, sao ạ?
- Mợ cãi à? Mợ nếm xem.
Minh cầm thìa, nếm một tí. Lạ quá. Vị mặn chát làm nàng giật nảy mình. Nàng cau đôi lông mày, nếm lượt nữa, rồi tái mặt lại. Bà Tuần nói:
- Cơm khách mà mợ làm ăn thế này à?
Noi đoạn, bà bỏ bát đũa, nhìn Minh, mắng:
- Mợ làm tôi sạm cả mặt với bà Huyện!
Bà Huyện và Sanh cùng mỗi người nếm một thìa. Bà Huyện bò ra cười, nói:
- Thôi được. Chả có lại chê mợ Cả không mặn mà!
Minh đứng phắt dậy, hầm hầm vào bếp. Nàng lấy làm lạ, sao chính tay nàng nấu món canh này, đã cho rất vừa mắm muối mà bây giờ nó mặn quá như thế. Tất là có người đã làm cho nó mặn thêm. Nàng tìm tòi, nghĩ ngợi và xem xét chai nước mắm, và giỏ muối. Nàng hiểu ngay. Nàng thấy muối vơi hẳn vừa một nắm. Thì nàng không thể chịu tai tiếng trước bộ mặt khả ố của bà Huyện, nàng quyết làm cho ra ngô ra khoai. Nàng đùng đùng gọi hết cả đầy tớ, và hỏi xem đứa nào đã tai ác phản nàng. Nhưng ban nãy, thằng Xe thì đi vắng, con Vú thì ở trên gác. Nàng có biết. Chỉ có một mình con Sen. Nàng sực nghĩ ra lúc nàng lên gác lấy tiền, thì bà Tuần sai con Sen trông bếp. Nàng không nghi ngờ gì nữa.
Ở nhà ngoài, bà Tuần đương làm rầm rĩ. Minh cáu tiết, lôi tay con Sen ra nói:
- Bẩm mẹ, con xin chịu lỗi hết. Nhưng con xin mẹ hãy xét lại. Chính con nấu nồi canh này thật. Song lúc con đang dở tay, mẹ bảo con lên gác lấy tiền thì con Sen trông bếp cho con. Bây giờ bỗng sanh canh mặn như đốt, mà muối thì rõ ràng mất hẳn một nắm. Thế thì không còn ngờ gì. Chính con hé này đã phản con, nó vốc muối vào canh, cho con phải mắng.
Con Sen sợ hãi, chối không.
Minh quắc mắt:
- Mày chối à? Mày tai ngược.
Rồi nói với mẹ:
- Bẩm mẹ, nay nó bỏ muối vào canh, mai kia nó bỏ thuốc độc vào đồ ăn cho cả nhà ăn phải. Con xin phép mẹ cho con đánh nó một trận.
Con Sen khóc lóc:
- Con lạy mợ, con có dám thế đâu.
Bà Tuần nhìn con Sen, trỏ tay quát:
- Con kia! Có thật mày hay không?
Bà Huyện nói:
- Thì cụ cứ để mợ ấy đổ tội cho con Sen cũng được chứ làm sao?
Minh giận đầy hơi, nàng chạy vào bếp tìm cái roi, rối đang lúc cáu, Minh vút lấy vút để.
Con Sen đau khóc lóc và một mực chối. Minh vừa đánh vừa nói:
- Cho mày chừa cái thói điêu toa. Cái thói phản chủ đi nhé.
Bà Tuần nhìn bà Huyện và Sanh rồi lắc đầu:
- Thật là gái đĩ già mồm!
Con Sen càng kêu gào:
- Lạy mợ, không phải con.
Minh xổ cả tóc, trỏ roi vào mặt nó:
- Không phải mày thì còn đứa nào? Con Vú ở trên gác, tao trông thấy, thằng Xe kéo cậu đi. Mày còn chối phải không?
Nói đoạn giơ roi toan đánh. Con Sen nằm co rúm người, giơ tay đỡ.
- Ối con lạy mợ, không phải con. Con nói ra thì con chết mất.
Minh ngạc nhiên, liền vụt luôn ba cái nữa. Con Sen kêu:
- Ối, con van mợ. Không phải con, mợ tha cho con.
- Thế thì ai?
Con Sen nức nở:
- Bẩm mợ, con trông thấy cụ đấy ạ.
Tức thì, bà Tuần nhảy chồm ra, vồ lấy Minh, giật lấy roi, vụt lấy vụt để vào mặt nàng:
- À, mợ hỗn, à mợ hỗn! Con này mất dạy thật! Mày đánh nó thế là mày đánh tao!
Minh giơ tay ra đỡ, nhưng những ngọn roi đau quắn làm nàng ê cả mình mẩy, tối cả mặt mũi.
Bà Huyện và Sanh chạy lại ôm bà Tuần, Minh kêu:
- Vô lý quá. Bà Huyện xem có phải không?
Bà Tuần nói:
- Tao không ngờ mày giở mặt, con kia nhé!
Nói đoạn, bà lại xông vào Minh, toan vụt nữa, rồi chửi ầm ĩ. Sanh giữ tay mẹ, nói:
- Con xin mẹ. Như thế thì mẹ quá lắm.
Bà Tuần càng giận, quát lớn:
- À, mày bênh vợ mày!
Nói đoạn, bà giẫy bà Huyện, túm lấy tóc Sanh, dằn xuống, và cứ lưng vụt mãi:
- Tao đẻ ra mày để mày báo hiếu tao thế à? Đồ mất dạy. Mày bênh vợ mày. Bà Huyện ơi, tôi nhục với bà. Ôi! ông Tuần ơi! Ông đi đâu ông bỏ tôi ngần ấy năm trời, tôi bơ vơ cực nhục một mình, ông ơi là ông ơi! Để con dâu ông nó đánh tôi, con trai ông nó bênh vợ nó mắng tôi.
Sanh và Minh cuống quýt, sợ xanh mặt. Bà Huyện khuyên giải mãi. Bà Tuần vắt nước mũi, rồi thở và nói:
- Đấy, bà xem, đã cực nhục chưa. Đẻ cho lắm vào, rồi chúng nó báo hiếu thế đấy.
Rồi bà dún người lên chồm chồm, quật hai tay xuống đất, để đánh nhịp với tiếng thét:
- Coi vợ hơn mẹ! Mẹ quá lắm! À, nó lại bảo thế à!
Rồi đùng đùng, bà đứng dậy, vấn lại đầu, vừa khóc vừa dỗi:
- Thôi, có điều gì không nên không phải, ông bà Cả tha lỗi cho tôi.
Bà Huyện nói:
- Chết sao cụ dạy lẫn thế.
- Không, tôi ở nhờ nhà cậu mợ ấy, bây giờ cậu mợ ấy khôn lớn rồi, tôi đi đằng nào thì tôi đi, cậu mợ ấy cần gì.
Sanh nhăn nhó thưa:
- Con lạy mẹ, con...
- Không, cậu có phải là con tôi đâu? Tôi là con Vú em của cậu? Cậu ở kẽ nẻ chui ra! Cậu là con nhà trời! Cậu là con cô giáo Miêng! Mày là con cô giáo Miêng! Con Miêng mới là mẹ mày!
Nói đoạn, bà hung hăng, cầm roi, vụt cả Sanh lẫn Minh túi bụi.
Nàng đã định trước cả công việc. Nàng lại nhà Xuân vay tiền, rồi đi tuột đến phòng khám bệnh của một bác sĩ, để xin cái giấy chứng nhận các thương tích. Nàng quyết làm ra to việc.
Lấy được giấy, nàng về nhà nàng, để kể lại chuyện với thím, nhân tiện xin phép thím cho nàng xử trí lại với mẹ chồng.
Thấy Minh khóc lóc, vạch các vết thâm tím, bà thím động lòng thương, lắc đầu, nói:
- Thím không ngờ bà ấy quá tệ, nhưng mà, chị ạ, theo như gương cô, chị nên nhẫn nại là hơn.
Minh vẫn khóc:
- Cháu không thể nhẫn nại được. Phen này cháu đành liều.
Bà thím dỗ dành:
- Chị thử nhẫn nại mà xem. Chỉ có nhẫn nại, người ta mới có thể ở được với nhau.
- Bẩm thím, cháu không ở với bà ấy nữa. Nhất là từ nay cả họ từ cháu.
Bà thím cười:
- Thế sao người khác thì ở được với mẹ chồng?
- Vì người ta không biết giữ nhân cách, người ta không biết tự trọng. Bà Tuần coi cháu là thù địch, thì tội gì cháu nhận bà ấy là mẹ. Đời cháu từ khi lấy chồng, thật là cực nhục đủ trăm chiều, người ta ở đời, chẳng ai muốn được sung sướng; không được sung sướng, thì ai thiết sống nữa.
- Chị không nên chán nản như thế.
- Cháu biết cháu khổ từ ngày mới ở nhà bước chân đi lấy chồng. Cháu là người có học, biết nghĩ, biết theo mới, thế cháu cứ phải chịu ép dưới chế độ gia đình cổ, thì người đời chỉ tổ cười cháu là mới mà không biết gì!
Nghiêm trang, bà thím đáp:
- Phải rồi, cái mới chị cho là hơn cũ, chị không thể chịu ép dưới chế độ gia đình cũ. Nhưng mẹ ngày xưa có mới đâu. Thím có mới đâu. Gia đình nhà ta có mới đâu. Sao chị chịu được. Chị phân biệt mới cũ, tôi cho là chị bắt chước những tiếng của người đời đặt ra, để tự tha lỗì cho chị, để chia rẽ những người không cùng ý với chị. Làm gì hai cái mới cũ, lại cách biệt xa xôi như chị tưởng tượng?
Minh yên lặng. Bà lại nói tiếp:
- Ở đời chỉ có lẽ phải. Mà thím xem hình như chị muốn sống lấy một mình. Nếu vậy còn gì là gia đình nữa, còn ai thiết đến ai nữa. Thế ngộ muốn cầu sự sung sướng cho mình, mà mẹ sống riêng đời mẹ, thím sống riêng đời thím, chị sống riêng đời chị, bà Tuần sống riêng đời bà Tuần, thì ra tuốt cả, ai ai cũng nghĩ đến sự ích kỷ. Nếu nhà ai cũng thế, thì còn gì là đời. Thím tưởng đã đành rằng sống thì mình có những quyền tự nhiên, nhưng vì mình cần chung đụng với người khác, thì mình cũng nên hy sinh một tí quyền ấy cho mọi người. Mà có mất gì đâu, vì mình được hưởng những quyền lợi to gấp mấy của những người khác hy sinh cho mình. Sự sung sướng là do mình nghĩ ra mà thấy. Hình như đời bây giờ, người ta cho sự sung sướng của bề ngoài là trọng thì phải.
Minh không đáp, nhưng không muốn nghe. Thím nàng nói:
- Cho nên thím khuyên chị nên trở về đằng bà Tuần. Chị ăn ở lại với mẹ chồng, với chồng, tự khắc chị thấy được sung sướng, cái sung sướng này là sung sướng cao thượng về tinh thần. Không tin Iời thím, chị thử đi hỏi những người đã đứng tuổi một tí, dù là phái mới của chị cũng vậy, xem người ta có nghĩ như thím không?
- Thưa thím, cháu không thể trở về với cái cổ hủ. Cháu sẽ nhờ pháp luật dắt cháu đi sang con đường quang.
Bà thím trợn mắt:
- Chị định đi kiện?
- Vâng, nay bà ấy đánh cháu thế này, ắt mai bà ấy đánh cháu gấp đôi! Để cháu cho bà ấy biết rằng bà ấy là người, mà cháu cũng là người, chứ không phải là súc vật ngu độn. Hiện cháu đã có giấy thầy thuốc.
Bà thím vờ thương hại, hỏi:
- Đâu, cho thím xem giấy và giảng cho thím nghe.
Minh móc túi lấy giấy, vừa đọc vừa cắt nghĩa, thì bà thím nhanh tay, giật phắt tờ giấy, vò nát và xé tan ra.
Minh giận, nhưng không dám nói. Nàng chỉ đành ôm mặt khóc.
Bỗng Sanh đến. Sanh chào thím. Minh tái mặt, quay lưng đi vào nhà trong.
Sanh buồn bã, bẽn lẽn nói:
- Bẩm thím, mẹ cháu cho cháu đến đón nhà cháu về. Mẹ cháu già, hay trái lắm. Nhờ thím khuyên bảo dỗ dành nhà cháu hộ.
Minh nghe thấy cả câu ấy, nàng giận đầy hơi. Cái tấn bi kịch ban nãy lại hiện ra rõ rệt trước mắt nàng, nàng quay lại, nói:
- Tôi cần ở đằng này trong ít bữa. Cậu về xin mẹ tha tội cho đứa con dâu bất hiếu của mẹ.
Bà thím gắt:
- Không thể được, chị Cả! Chị ra đây.
Minh sợ thím, lững thững ra, đưa mắt nhìn chồng một cách căm hờn. Ba thím nói:
- Chị phải về đằng ấy. Người lớn bảo thì phải nghe.
Trước mặt chồng, Minh không dám cưỡng lời thím, nhưng nàng cứ nhất định không đi. Bà thím nghiêm trang nhìn Minh. Sanh dịu dàng, dỗ:
- Tôi chắc những chuyện đáng buồn như hôm nay không thể xảy ra lần thứ hai nữa.
Bà thím lại giục:
- Những lời thím giảng giải cho chị từ ban nãy, chị không nghe hay sao? Người ta sảy mẹ còn thím, bao giờ thím chết, chị muốn làm gì thì làm.
Minh cảm động, bất đắc dĩ nàng phải theo Sanh về.
Đến nhà, nàng không thấy mẹ chồng đâu. Hỏi thì con Vú nói bà ở trên gác nói chuyện với cô đốc Thẩm.
Nghe tin Oanh về, Minh lại thấy khó chịu. Sanh mừng rỡ hỏi con Vú:
- Cô Đốc mới đến hay đã lâu?
- Bẩm cô vừa mới đến.
Sanh vội vàng lên gác, Minh một mình ở trong buồng, nghĩ vẩn vơ. Một lát., nàng đến cầu thang, để lên sân gác xem lại mấy thứ phơi từ sáng.
Bỗng nàng đứng dừng. Hình như Oanh đang sụt sịt khóc. Nàng ngac nhiên.
- Thì mẹ cứ kệ cho con mặc quần trắng, rẽ lệch với cạo răng có được không. Đằng ấy người ta cho thế. Con nghe mẹ thành ra con khổ.
Bà Tuần chép miệng:
- Tao thấy thế gớm lắm.
- Đấy mẹ trông như chị Cả có gớm đâu. Con chỉ đoán nhà con chơi bời, là vì con ăn mặc theo lối cổ.
Bà Tuần chán ngán:
- Thôi, thế tùy cô! Tôi không biết nữa, rồi lại đổ tại. Nhưng tao tức lắm. Thế bà ấy bảo mày những gì?
Oanh đáp:
- Nào bà ấy có bảo. Bà ấy chỉ diếc móc, rồi bà ấy đánh.
- Đâu, đưa anh xem, chỗ nào?
- Đây này, đây này.
Minh ngạc nhiên, lắc đầu cắn môi nghĩ ngợi.
Bà Tuần nói:
- Tao không ngờ con mẹ ấy lại lật lọng như thế. Nếu tao biết nó ác nghiệt với mày, thì hoài con tao cũng không gả cho cái mặt thằng Thẩm. Để hôm nào thằng Thẩm đến đây, tao bảo cho nó về dạy mẹ nó.
Oanh nói:
- Như con, thì công việc làm ăn còn bỡ ngỡ điều gì nữa. Nhưng khốn nỗi nhà ta làm một cách khác, đằng ấy làm một cách khác. Làm không đúng với cách của người ta, người ta cũng mắng xa mắng xôi, những là không biết gì, ở nhà không ai dạy.
- Sao mày không cãi vào mặt bà ấy có được không?
Oanh lại khóc:
- Chỉ vì cãi mà hôm nay con mới phải trận đòn này.
- Được, cứ ở nhà, không về đằng ấy nữa, xem chúng nó làm ra sao nào. Coi không có dâu gia lại thành oan gia nhé.
Sanh hỏi:
- Nhưng mà anh Thẩm nó thiệp đời, biết điều lắm, sao lại để cho bà ấy áp chế cô thế?
Bà Tuần cũng nói:
- Ừ, sao thằng chồng mày nó ngu thế, thân danh đã đỗ đến đốc tờ, mà để yên cho mẹ bắt nạt vợ.
Oanh nói:
- Vâng, nhà con thiệp đời biết điều thật, thường vẫn viết báo bài xích những cái hủ, cổ động cho người ta theo cái mới.
Sanh đáp:
- Phải, anh cũng xem bài ấy đăng ở báo gì ấy rồi.
- Mà nhất là vẫn nhem nhẻm công kích lốí mẹ chồng nàng dâu, rồi khuyên người ta nên hoàn toàn theo mới, lìa bỏ gia đình cũ.
Minh đứng nghe, bất giác thở dài. Bà Tuần hỏi:
- Thế mấy lần mày bảo thì nó nói sao?
- Thưa mẹ, bảo gì ạ?
- Bảo rằng không thể ở được với bà mẹ chồng ấy.
- Thì, thưa mẹ, nhà con lại can.
Minh bật cười. Bà Tuần tức:
- Thế là nghĩa thế nào? Mặc kệ nó, tao không thể nhịn được.
Sanh nói:
- Có lẽ đằng ấy họ chỉ có mục đích đào mỏ.
- Vâng, em cũng quá dại mà tin nhà em.
- Thế giờ Thẩm còn chơi bời không?
Oanh thở dài:
- Vốn liếng của em, mẹ cho mang về, một tay nhà em tiêu hết cả. Nay thỉnh thoảng vẫn còn dỗ dành em về nhà xin mẹ thêm.
Bà Tuần cáu:
- Có nửa đồng kẽm bà cũng không thí cho nữa. Thế từ ngày nó đi làm đến nay, lương lậu lĩnh về, nó không đưa cho mày đồng nào à?
- Vâng, thì mê mệt với con gái nhảy, có bao nhiêu của vợ, khuân đi cho nó, còn để nhà đồng nào đâu.
- Sao mày không rình mà đánh cho hai đứa một trận. Để rồi tao bảo thằng Xe, cứ xông vào xé tan xé nát con đĩ ra.
- Thì lần trước con đã nói chuyện với mẹ là con đi theo nhà con, nhưng nhà con xui đẻ con thế nào thành ra con phải chửi. Lại được con Vân cũng tai ngược đến điều...
Sanh hỏi:
- Vân là em gái Thẩm ấy à?
Oanh nức nở khóc:
- Vâng.
Minh cảm động, chặn tay lên ngực. Nàng lại lắng tai nghe. Oanh nói:
- Nó hỗn láo, cái lối em chồng cậy mẹ yêu, bắt nạt chị dâu,
Bà Tuần chán ngán:
- Đến lúc khôn thì đã chết rồi! Tao như mày, nó hỏi tiền, không đời nào tao đưa. Mà có đưa, tao chỉ đưa ít thôi.
Sanh nói:
- Bẩm mẹ, tại Oanh nó không ngờ rằng chồng nó có nhân tình nhân ngãi. Thì cứ tưởng chồng hỏi để giữ hộ, chứ ăn tiêu đã có lương.
Bà Tuần giận, nói:
- Lương, quý hoá gì cái lương mới, ngót sáu chục đồng hạc chứ to gì.
Sanh nổi:
- Coi không mà con đĩ nó cướp chồng đấy. Cô mà không xử khéo, không làm cho chúng nó bỏ nhau thì khốn đấy.
Oanh khóc:
- Mỗi lần con về, con lại làm cho mẹ buồn.
- Phảí, tôi hay gắt cũng vì cô. Thế bây giờ cô định thế nào?
- Tùy mẹ đấy. con chả biết làm thế nào được.
- Được, không thể nhịn nữa. Bận sau hể bà ấy có đánh, mày cứ yên cho bà ấy đánh, mày cãi phứa cho bà ấy đánh nhiều vào, rồi về ngay đây bảo tao,
Sanh hơi:
- Mẹ định làm gì?
Bà Tuần nói to:
- Tao cho nó đi lấy giấy đốc tờ, rồi mất bao nhiêu tiền, tao cũng cho nó theo kiện với mẹ chồng nó.
Bổng Oanh ngăn:
- Chết, mẹ nói khẽ chứ! Chị Cả đâu hở anh?
- Ở dưới nhà.
- Mẹ nói khẽ kẻo chị ấy nghe thấy rồi không khéo mình lại vạch đường cho chị ấy đi.
Minh thở dài. Bà Tuần tức, mắng Sanh:
- Để mặc nó, gọi nó về làm gì cho nó lên bộ!
Rồi nói nhanh liền với Oanh:
- Đi! Mày bảo nó đi đâu. Nó dám rời bỏ nhà này à? Nó rời bỏ nhà này thì nó chết. Tao chửi thế, tao đánh thế, chứ tao chửi, tao đánh nữa, nó cũng không làm gì nổi tao. Tao cứ thách cho mà đi kiện.
Oanh cười sung sướng:
- Phải, còn đồng xu chết nào mà dám ngoe.
Minh run lên, xám người lại, lẩy bẩy rón rén xuống chân thang, vào buồng ôm mặt khóc...
thở dài. Bà Tuần tức, mắng Sanh:
- Để mặc nó, gọi nó về làm gì cho nó lên bộ!
Rồi nói nhanh liền với Oanh:
- Đi! Mày bảo nó đi đâu. Nó dám rời bỏ nhà này à? Nó rời bỏ nhà này thì nó chết. Tao chửi thế, tao đánh thế, chứ tao chửi, tao đánh nữa, nó cũng không làm gì nổi tao. Tao cứ thách cho mà đi kiện.
Oanh cười sung sướng:
- Phải, còn đồng xu chết nào mà dám ngoe.
Minh run lên, xám người lại, lẩy bẩy rón rén xuống chân thang, vào buồng ôm mặt khóc...
"Chị Minh,
Chị ra cho tôi một câu hỏi khó trả lời, đến nỗi hiện tôi viết mấy chữ này mà run tay. Tôi chỉ biết buồn thay cho chị, chứ còn như khuyên chị nên thế nào thì tôi không dám. Nếu tôi bảo điều thứ nhất là phải, thì là tôi ép chị chịu những sự nhục nhã. Nếu tôi bảo điều thứ hai là nên, thì có lẽ tôi xui chị làm một sự trái ngược với điều tôi đã nghĩ. Vậy chị miễn cho lôi câu trả lời dứt khoát.
Bạn chị
Đức"
"Minh,
Tiếp thư Minh hỏi ý kiến, tôi vội vàng trả lời để Minh biết rằng tôi rất bằng lòng điều thứ hai. Ta nên để cho họ biết rằng ta không thể đi cùng một đường với họ, ta đã tiến hơn họ nhiều, họ không thể lấy cái óc hủ lậu, lấy cái nếp gàn dở mà bắt ta phải cúi đầu chịu, dù địa vị họ có là mẹ chồng. Minh phải làm cho cái mới thắng cái cũ, đừng để những bọn cũ cho rằng lúc nào cũng đưa đường vạch lối cho ta, thì ta mới sống được hoàn toàn. Tôi mong kết quả.
Thục"
"Minh ơi,
Tôi chậm trả lời Minh, là vì tôi phân vân quá. Tôi muốn Minh quyết liệt, nhưng lại lo cho tương lai Mình. Song có lẽ trời đã định sẵn cho cái mới phải thắng cái cũ hay sao, mà tôi rút thăm ba lần, lúc mở giấy ra, đều ba lần gặp chữ "mới", thế là điều thứ hai là điều ta nên theo. Có gì, tôi sẽ giúp Minh
Hảo"
"Chị Minh,
Nhã vẫn ở trên Tam Đảo. Anh ấy lâu nay không viết được gì, anh ấy chỉ ưa một mình sống tĩnh mịch. Vào lúc này, tôi muốn có anh ấy bên cạnh, để bàn nhau kỹ lưỡng, rồi hãy trả lời cho chị biết. Tôi vẩn vơ nghĩ mãi, hai điều của chị cũng khó trả lời ngang nhau. Ở lại, thì là chịu nhục, mà đi thì cũng là chịu khổ. Tôi biết khuyên chị thế nào bây giờ. Thế thì tôi chắc ý kiến các chị khác cũng là ý kiến tôi. Tôi chỉ đoán với chị rằng đã chị theo đằng nào, tôi cũng hết lòng với chị. Xin chị đừng giận tôi. vì đã không trả lời quả quyết hơn.
Bạn thân chị
Xuân"
Đọc bốn bức thư xong, Minh thở dài, chống tay vào bàn, hai mắt lờ đờ, vơ vẩn. Rồi nàng lấy một mảnh giấy nữa ở túi áo, là bức thư của Xuân vừa gửi cho nàng hôm trước:
"Chị Minh,
Tôi nhận được thư anh Nhã. Anh ấy hẹn đến đêm mai sẽ trở lại Hà Nội. Về vấn đề xe đã thu xếp xong rồi. Vậy tối mai chị cứ sắm sửa trước rồi mười một giờ năm, anh Nhã đánh xe qua cửa dừng lại một ít, chị không nên chậm chạp kẻo lộ chuyện. Tôi sẽ dặn anh ấy qua loa cách đón chị và không nói anh ấy biết trước là chị định thế.
Tôi chỉ bảo là chị đi có việc cần. Rỗi lúc ngồi trong xe, chị hay nói thực với anh ấy và tạm về quê tôi hay đi đâu thì chị sẽ bàn kỹ với anh ấy…tôi hồi hộp chị ạ.
Xuân".
Đọc lại một lượt. Minh đánh diêm, châm đốt hết các bức thư rồi lấy chân đập nát đống tro tàn, và cúi đầu gần, thổi mạnh cho nó bay tan tác.
Buồn rầu, nàng ngước trông khắp nhà. Mắt gấp gay, nàng nhìn ngọn đèn điện toé những tia đỏ vào hoành phi, câu đối khảm, tủ gụ, nàng sung sướng như muốn tỏ cho chúng biết rằng đêm nay nàng lìa bỏ cái nhà này.
Sanh theo bà Tuần về nhà quê gần Hải Phòng đã hai hôm nay để mừng một người trưởng họ làm khao nghị viên ăn trong mười hôm. Minh không được theo về, vì bà Tuần sợ người làng kêu nàng dâu bà ăn mặc tân thời. Thật thì Minh được thoát một cái nạn lớn, nhân tiện nàng mưu việc bỏ chồng. Nhưng ở lại một mình cũng không phải nàng được tự do. Hôm thì có cô Phán coi nàng, hôm thì có Oanh coi nàng, mà con Vú, thằng Xe, lúc nào cũng có quyền xem xét nàng nữa.
Nàng quyết liệt từ hôm đứng ở thang gác nghe trộm bà Tuần nói chuvện với Oanh. Bà đã khinh bỉ nàng, cho rằng nàng không thể rời bỏ được nhà bà, vì trong tay không còn đồng xu nhỏ. Nàng không thể chịu được những câu mỉa mai đau đớn ấy. Thì ra bà đã dám đánh chửi nàng, vì bà cậy bà nuôi được nàng. Đã vậy, nàng quyết đi, đi để thoát ly hết những nỗi thống khổ, để rửa cho hết những nhục mà người ta cho là nàng có thể chịu được.
Nàng đã viết giấy hỏi ý kiến các bạn. Nàng đã nhờ Nhã giúp nàng một tay trong việc đi trốn. Nàng đã nhắn Xuân đón nàng ở quê Xuân. Mười một giờ năm phút đêm nay, nàng lẳng lặng từ giã cái đời làm dâu của nàng.
Trầm ngâm một lúc, Minh vào buồng, lấy giấy và bút viết:
"Cậu Sanh,
Tôi gửi lời lại chào mẹ và chào cậu. Bất đắc dĩ, tôi phải xử trí thế này, là vì mẹ với tôi, không thể nào ở chung được với nhau trong một gia đình.
Cậu nên biết cho rằng tôi là người có học, biết nghĩ, đã thâu thái được những tư tưởng nhân đạo. Vì vậy tôi mong ước bấy nay, là khi lớn, được sống trong một gia đình êm đềm, lấy cái hạnh phúc của gia đình làm hạnh phúc của mình. Nào ngờ đâu, sự thực thì trái hẳn. Nhà cậu là một nhà quá nệ cổ, nệ cổ đến nỗi không cần cả lẽ phải nữa, hình như mẹ cho rằng hễ nghĩ và làm trái với những điều của ông cha, tức là trái cả với luân lý. Luân lý đã bằng sao được lẽ phải hợp thời, hở cậu?
Ngót nửa năm trời, tôi cực nhục như thế là đủ rồi, tôi không tự đày đọa thân tôi thêm được nữa. Mẹ cho rằng bây giờ tôi không đi làm, không có tiền, thì tất tôi phải chịu những sự hành hạ của mẹ. Nếu mẹ lấy tôi về để làm vợ cậu, thì tôi tưởng mẹ nghĩ thế là lầm quá. Vậy ra mẹ coi con dâu là vật để đánh cho sướng tay, chửi cho sướng miệng. Có thế thôi. Mẹ đối với tôi, sẵn có một mối ác cảm ngay từ khi tôi mới bước chân về làm vợ cậu.
Tôi bỏ gia đình này, tôi biết là đã làm một việc quá bạo. Rồi đến mai (tôi xin phép cậu, nhất là mẹ, dùng tiếng ‘'mai" cho đúng) các báo sẽ đăng việc này, vì tôi quyết thế nào mẹ cũng hoàn toàn đổ tội cho tôi hư đốn, dại dột. Nhưng tôi không cần. Tôi hy sinh cả danh dự tôi, tôi hy sinh cả thân thể tôi, để cho mẹ hiểu rằng bọn người mới như tôi, không thể cùng đi một lối với bọn người cũ được. Tôi chỉ mong rồi đây, khi ngồi một mình, mẹ tưởng nhớ lại những sự cay nghiệt, hà khắc mẹ đối với tôi, mà mẹ nên sám hối, rồi mẹ đổi lại cách ăn ở với người vợ sau này của cậu lấy thay tôi. Một mẹ mà biết ăn ở khác đi, thì rồi các bà mẹ chồng khác cũng tỉnh ngộ dần, họa là ở xã hội ta, mới bớt được những tấn thảm kịch, những tiếng eo óc kêu than ngấm ngầm của nàng dâu.
Sau hết, tôi cảm ơn mẹ đã tốn kém nuôi cơm tôi trong mấy tháng trờì, song sự thiệt thòi ấy, mẹ đã lấy lại bằng những ngọn roi, những câu chửi, nếu mẹ có tiếc, thì cậu cố khuyên mẹ bằng lòng vậy.
NGUYỄN THU MINH"
Viết xong. Minh đọc đi đọc lại, rồi bỏ vào phong bì dán cẩn thận. Nàng muốn kể tội mẹ chồng dài hơn, nhưng không thể, vì óc nàng rối beng. Nàng muốn dùng những tiếng mỉa mai đau đớn hơn, cho hả giận, nhưng nàng không nỡ. Nàng thương hại bà Tuần nhiều tuổi hơn nàng.
Đồng hổ điểm mười tiếng, nàng vặn tắt đèn, vờ đi ngủ, cho yên tâm bọn đầy tớ. Nàng nằm trên giường, vắt tay lên trán, trống ngực thình thình, Nghĩ đến đời nàng từ mai trở đi, nàng vừa mừng vừa lo sợ. Nàng lại bực mình không biết cô nàng và thím nàng có hiểu nàng mà tha thứ cho không.
Một lát, Minh rón rén lên gác ngoài, mở cửa sổ ra nhìn phố. Ngoài đường đã vắng tanh. Nàng mỉm cười cảm ơn trời đã giúp nàng một dịp tốt. Bỗng đằng đầu phố, nàng thấy một chiếc xe ô tô đến ngã tư thì đứng dừng. Nàng chòng chọc nhìn thì thấy Nhã ở trên bước xuống, đứng dưới cột đèn điện. Minh trông rõ lắm. Nhã mặc cái ba-đơ-xuy cổ áo cuốn lên tận mang tai. Nhã lủi thủi một mình, hai tay vắt đằng sau, đi đi lại lại, ra chiều nghĩ ngợi.
Minh nhìn Nhã không biết chán. Nàng thở dài. Lâu lắm nàng mới lại tự do mường tượng hình ảnhngười yêu. Trái tim nàng đập mạnh. Rồi chốc nữa, nàng bỏ chồng, mà chính Nhã đưa nàng đi. Mặc kệ. Ai biết thế, nàng cũng không cần. Nếu bỏ chồng để người ta tưởng đi theo Nhã, thì nàng càng được cái vinh dự mà nàng chưa hề dám có hy vọng. Nàng ước được cùng Nhã đi như thế, lướt màn đen của buổi đêm huyền bí, hãi hùng, mà bay, mà cuốn, rồi là dà lên theo những dốc trên núi Tam Đảo, để xa cái xã hội nhỏ nhen, chan chứa những cảnh thảm sầu, để đến mai, để ngắm dưới chân núi, cái bức sương trắng nó ngăn riêng hẳn thế giới thần tiên.
Minh khép cửa, xuống buồng, nghe và mong tiếng đồng hồ chạy. Nàng lo lắng, nàng vặn đèn lên, và mặc áo, đi tất, và quấn khăn bịt đầu. Nàng sẽ đi rất xa, cuộc đi này nó dắt nàng đến một nơi sung sướng không bao giờ trở lại cái nhà bấy lâu giam hãm nàng nữa.
Nàng nhìn qua một lượt khắp buồng. Cái màn, cái chăn, cái chiếu này, mấy tháng nay đã làm cho nàng khổ. Nàng muốn xé tan xé nát ra. Nàng mở hòm, nhìn lại mấy thứ quần áo nàng không dùng nữa. Bỗng ở trên tường, nàng thấy ảnh mẹ nàng, mà vì vội, nàng suýt bỏ quên.
Minh tháo ảnh ra, cầm ngắm nghía. Nhìn nét mặt mẹ nàng, nàng đau đớn nhớ lại hôm mẹ ốm và ngày cưới nàng. Nàng thở dài, rơm rớm nước mắt, rồi ngồi xuống ghế, thừ người ra nghĩ ngợi.
Nàng ôn lại cái đời con gái của nàng. Nàng thấy nó tự do rộng rãi. Nàng tưởng tượng nét mặt cay nghiệt của bà Tuần, và những giọng nói đanh đá của Oanh. Hay là trời bắt Oanh hiện nay bị cái số phận như nàng để làm bài học hay cho Oanh. Nhưng lạ cho bà Tuần biết xúi con hỗn với nhà chồng, mà lại muốn con dâu mình khuất phục mình như trâu ngựa. Nàng thương Lãng bé bỏng, học hành chưa đến chốn, đến nơi. Nhớ đến thím, nàng sợ. Nhớ đến cô, nàng thở dài, rồi mỉm cười và lắc đầu:
"Nhẫn nại!"
Nghĩ đến hai tiếng Nhẫn nại, Minh nhắm mắt, ngả đầu tựa vào lưng ghế. Nàng văng vẳng bên tai những lời bà con quen thuộc khen cô nàng là một nàng dâu hiền.
Nàng so sánh cảnh ngộ cô nàng và cảnh ngộ của nàng. Nàng thấy cái gia đình hòa thuận của cô nàng, nàng thấy cô nàng được cả họ vừa quý vừa phục. Tự nhiên nàng cảm động, rồi đâm ra phân vân.
"Có nên theo tư tưởng Âu Tây để phá hoại gia đinh Á Đông chăng?"
Nàng vơ vẩn nghĩ, rồi quả quyết tự đáp:
’’Phải làm cho cái mới thắng cái cũ".
Thắng cái cũ, nàng nhất định theo mới thì phải nhất định thắng cũ. Nàng cho rằng nếu cứ chịu mãi cái cũ, thì người mới sẽ bị mang tiếng nhục là có học mà không có hành.
Rồi Minh buồn rầu nghĩ đến bà Tuần, bà Tuần rất ghét nàng. Nàng bỏ con bà, tất sau này bà cạch, không dám rước hạng gái mới về làm dâu nữa. Bà sẽ ghét cay ghét đắng cái rnớì, bà sẽ thù cái mới rất sâu xa Bỗng nàng sung sướng, sung sướng đã làm cho bà Tuần phải e sợ cái mới.
"E sợ cái mới".
Ngẫm bốn tiếng ấy, tự nhiên Minh giật minh, mở choàng mắt ra. Nàng chống tay tựa cằm.
"Người ta sợ vì người ta...?
Minh đắn do, rồi nàng ép bàn tay vào ngực.
"...Vì người ta ghét, người ta thù cái mới. Người ta cho cái mới là một loại hoàn toàn xấu xa."
Minh đứng phắt dậy.
"Nhưng cái mới không xấu. Cái mới rất rốt, tốt hơn cái cũ. Muốn khỏi mang tiếng cái mới, ta phải làm cái cũ phục cái mới."
Minh thở dài, lấy tay bóp trán.
"Phải tỏ ra cái mới tốt hơn cái cũ. Phải làm cho cái cũ phục cái mới là hơn. Ấy là bổn phận của bọn mới. Vậy thì phải làm thế nào?”
Nàng nhăn nhó, nhìn khắp xung quanh, như để tìm câu đáp.
Chuông đồng hồ nhà thờ, bính-boong bốn lượt, rồi thong thả buông mười một tiếng. Nàng hốt hoảng. Mỗi tiếng chuông làm cho nàng rung động cả tâm hồn. Nàng mong nó đừng đánh nữa. Nàng nhăn nhó gãi đầu. Nàng khoanh tay trước ngực. Nàng run lên.
"Vậy thì làm thế nào?"
Luống cuống, nàng chạy vội lên gác, mở cửa chớp ra. Nàng thấy Nhã lạnh lùng cài lại khuy áo, rồi giở đồng hồ, rồi nhìn lại phía nhà nàng. Cái vẻ hoàn toàn mới của Nhã làm cho nàng phấn chấn.
"Vậy làm thế nào cho bọn cũ phục bọn mới là hơn?l!Nhã thò vào xe, lấy cái tay vặn rồi lắp vào mũi ô tô. Náng ngắm cái xe, thấy nó cũ quá. Tự nhiên nàng lại nghĩ đến cái mới cái cũ là Nhã và xe ô tô. Rồi nàng nghĩ đến cô nàng và gia đình bà.
Chiếc xe bắt đầu chạy. Nàng vội rảo bước rón rén xuống nhà dưới. Nàng vớ cái va ly rồi lại đặt xuống. Rồi lại vớ, rồi lại đặt. Nàng lạnh toát người. Nàng bàng hoàng như người mất trí.
Tiếng xe chạy lại gần. Nàng can đảm ra mở cửa.
"Ta phải quyết định một mặt nào mới được".
Nghĩ vậy, bỗng nàng khuỵ ngã, rồi ôm mặt khóc.
Ngoài đường tiếng máy ô tô ù ù to dần, rồi đến trước nhà Minh. Minh hết hồn. Nhưng tiếng máy không hãm, nó cứ ù ù to, rồi bé dần, và lẩn vào khoảng lặng lẽ của đêm thanh...
Minh choàng mở mắt, giữ chặt ngực, chớp mắt. ngẩn người ra, cố lắng đôi tai ngạc nhiên để nghe theo chiếc xe bí mật ấy...
"Ta đã nóng nảy quá mà suýt làm mất giá trị cái mới. Đoạn tuyệt với gia đình cũ là ích kỷ, là để người ta chê cười, ghê tởm, thù hằn cái mới. Theo mới hay theo cũ, đều cần có người tốt mà thôi."
Nàng suy nghĩ mãi. Nàng thấy đã suýt làm một điều vô lý. Nàng là người mới, bổn phận nàng là phải làm sao cho những người cũ phải phục cái mới là hay. Nếu lìa bỏ gia đình cũ, thì người cũ còn biết sao được cái mới thế nào, mà có biết chăng nữa, họ chỉ biết được cái mới đáng ghét, đáng ghê, đáng thù hằn.
Một trận gió rít ngoài khe cửa đưa lọt vào tai nàng tiếng rao hăm hở của hàng bán bánh tây. Minh nghĩ tới số phận của kẻ nghèo nhẫn nại mà sống để kiếm miếng cơm nuôi gia đình. Nàng thở dài, ngồi dậy, can đảm tung chăn ra rồi đi bật đèn lên. Nàng lên gác, mở cửa trước, đứng nhìn chổ ô tô của Nhã đỗ tối hôm trước.
Từ đêm, mưa phùn gieo nặng hạt. Xung quanh những ngọn đèn điện, một quầng sợi nước óng ánh. Đường sáng. Đường sáng bóng như mặt gương. Thỉnh thoảng chiếc xe tùm hum lép nhép chạy qua.
Buồn, chợt Minh ngẫm nghĩ đến cảnh ngộ. Nàng đổi cảnh, có lẽ chỉ là đổi sự khổ này lấy sự khổ khác, trong khi chịu cái khổ trước đã gần quen.
Bổn phận nàng là phải làm quảng cáo hay cho cái mới. Không nên vì ít suy xét, vì nông nổi mà nàng làm mang tiếng nó. Bỏ gia đình cũ để sống cái đời theo ý mình, thì phỏng có được sung sướng thật không? Chưa chắc. Người ta phải tìm những cái sung sướng về tinh thần. Một đôi khi ta chỉ thấy cái sung sướng tinh thần nó làm cảm được lòng ta chứ cái suns sướng vật chất, ta có thấy cảm lâu bao giờ đâu. Tìm cái sung sướng vật chất, tức là kiếm thêm sự biết khổ.
Luồng gió lạnh bật cánh cửa chớp làm tạt nước mưa vào mặt Minh. Nhìn cảnh vật mù mịt ở xa xa, tự nhiên nàng lại bồn chồn.
Đành rằng nàng theo mới, lìa cái cũ, nhưng có chắc nàng sẽ được ở với toàn người mới chăng? Hiện nay xã hội ta chỉ có những người từ nàng trở đi mới biết theo mới. Còn những người trước, là cũ cả rồi. Nếu nàng bực tức vì phải chung đụng với cái cũ, thì những người cũ tất cũng phải khốn khổ vì phải gặp gỡ cái mới. Vậy ở vào lúc này, mới phải nên bớt đi một tí. Hoàn toàn mới, họa chăng phải mươi năm nữa, khi nàng làm chủ một gia đình. Gia đình ta, chưa thể hoàn toàn theo gia đình Âu Mỹ. Xã hội ta trọng về luân lý gia đình. Vậy nếu cứ nghĩ theo người Âu Mỹ và sống trong gia đình Á Đông hiện nay, thì chưa được. Nếu ai cũng lìa bỏ gia đình cũ cả, thì còn chi là xã hội. Cái mới chưa hẳn hoàn toàn là hay. Cái cũ chưa hẳn hoàn toàn là dở, Chỉ có người dở với người hay. Chỉ có lẽ phải hợp thời.
Nàng xét lại những khi bà Tuần làm nàng phải oán thán, cũng có lúc chính bà trái, mà cũng có lúc chính nàng biết là trái mà cứ làm để trêu tức bà. Vậy không thế đổ cả lỗi cho mẹ chồng được. Thế thì nàng nên nhẫn nại là hơn hết. Làm dâu như nàng, thật ở vào địa vị rất khó. Khó mà vượt nổi mới sung sướng. Lìa bỏ bà Tuần, lìa bỏ Sanh, nàng thấy nàng ích kỷ, tầm thường. Nàng định từ nay sẽ lấy bà Tuần làm gương. Những điều bà phải thì nàng nghe. Những điều nàng phải mà bà trái, thì nàng quyết nhớ kỹ, để đừng đối phó với con dâu sau này. Nàng chỉ nên mới từ nàng, chứ bắt bà Tuần cũng mới sao được. Bà gàn, bà dở, bà hủ, bà nhỏ nhen những chỗ nào, thì càng nên biết vậy để tránh.
Nhưng Minh thở dài. Nàng thấy sự quyết định ấy khó theo lắm. Khó vì những tư tưởng chán ghét bà Tuần đã ăn sâu vào óc nàng quá lắm rồi. Nàng phải làm thế nào vứt hết những tư tưởng ấy đi trước mới được.
Rồi một cái ô tô xe nước đi qua. Minh giật mình nghĩ đến Nhã. Nhưng nàng vụt nhớ ra một điều, là nếu nàng chán ghét gia đình bà Tuần là do nàng yêu, muốn một gia đình khác trong mộng tưởng. Mà sở dĩ nàng mơ ước một gia đình theo trong mộng tưởng, là nàng đã lấy một gia đình thật nào để so sánh, để làm gương. Vậy đích cái gia đình ấy chẳng là gia đình của Nhã mà nàng tưởng tượng là hoàn toàn là gì!
Vậy thì bấy lâu nay, nàng thấy khổ chẳng qua là vì luôn luôn tưởng nhớ đến Nhã. Nay muốn quên khổ, nàng phải đoạn tuyệt với Nhã trước. Nàng phải quên Nhã đi. Nàng đã có chồng, nàng không nên vì một lẽ gì mà tưởng nhớ đến một người khác, dù người khác ấy có hơn chồng nàng. Nàng đã hy sinh mà lấy Sanh, sao nàng không thành thực nhận Sanh làm chồng. Dù nàng có mơ mộng đến Nhã, nàng cũng không tài nào được Nhã làm chồng nữa. Dù nàng có hất hủi Sanh, nàng cũng không thể không ở với Sanh suốt đời được. Làm vợ Sanh, mà đem lòng yêu Nhã, ấy là nàng tự chuốc lấy cái khổ ngấm ngầm. Nàng chẳng có thể vứt lương tâm đi để cầu một phút sung sướng vật chất với Nhã. Nàng đã chịu nghe mẹ mà lấy Sanh, thì sao trong óc nàng lúc nào cũng luẩn quẩn nghĩ đến Nhã! Nàng hối hận vì đã không tròn bổn phận làm vợ.
Đèn điện ngoài đường vụt tắt. Phố xá lờ mờ trong làn không khí tro xám. Dưới nhà, bọn đầy tớ đã dậy. Minh lững thững xuống, vẩn vơ.
Lại những người hôm trước và đồ đạc hôm trước làm cho nàng chán nản và tiếc cái phút do dự đêm qua. Cái phút ấy tự nhiên tới óc nàng làm nàng đổi ý kiến một cách không ngờ. Nàng hơi bực mình về nỗi trong vụt chốc nàng xoay cả những điều suy nghĩ sâu xa trong hàng mấy tháng. Nhưng nàng thấy ngay nỗi sung sướng vì đã biết đi đường phải. Nàng nhận thấy người ta có khi luẩn quẩn về một vấn đề gì đến hàng năm không giải quyết xong, mà chỉ nhân có một việc cỏn con là tự nhiên nghĩ ngay ra những lẽ phải nên theo mà làm. Thế là nàng tuy vẩn thờ chủ nghĩa cá nhân, mà nàng không làm thiệt thòi cho người khác, màng có quan niệm riêng của nàng.
Bỗng ở ngoài cửa có chiếc xe đỗ. Minh trông ra thấy Xuân đến.
Xuân hớt hơ hớt hải nhìn Minh, nói khẽ:
- Tôi lo cả đêm không ngủ được.
Minh mỉm cười, mời bạn vào buồng trò chuyện cho tiện, Minh hỏi:
- Chị lo cho tôi?
Xuân âu yếm, gật đầu:
- Đến tận bây giờ tôi mới yên tâm. Chắc chị oán anh Nhã lắm.
Minh thở dài, lắc đầu:
- Không. Trái lại, tôi cảm ơn anh ấy.
- Chị nói thực hay nói mỉa?
Minh cảm động, nắm tay bạn, dịu dàng nói:
- Chuông mười một giờ của đồng hồ nhà thờ và tiếng xe ô tô anh Nhã hôm qua đến đón tôi đã làm cho tôi hết cả hồn vía. Nhưng may, anh không dừng xe lại...
- Phải, anh Nhã đi thẳng …
- Chị gặp anh Nhã rồi?
Xuân gật đầu:
- Anh ấy lại ngay nhà tôi và hỏi: có phải cô Minh định trốn đi phải không?
- Chị trả lời thế nào?
- Tôi nói thực như ý chị đã định. Anh ấy trách tôi không cho anh ấy biết trước vì nếu biết trước, thì quyết anh ấy bàn với chị làm cách khác.
Minh cười:
- Thế ra anh ấy đoán được việc tôi định làm?
- Phải, anh ấy bảo thoạt tiên, anh ấy tin rằng chị đi đâu có việc thật. Song, lúc cho xe đỗ ở đầu phố đẻ đợi thì giờ, thì anh ấy ngẫm nghĩ, rồi đâm ra nghi. Rồi khi đến giờ, anh ấy toan hãm xe lại đón chị, nhưng vì không thấy cửa mở, anh ấy vội vàng mở máy đi thẳng.
Minh lặng người. Một lát, nàng hỏi:
- Nghĩa là anh ấy mặc kệ cho tôi phải đọa đày. Anh ấy không chịu khó chờ tôi một tí hay sao?
Xuân buồn bã lắc đầu:
- Anh ấy độ này thế nào ấy. Tôi không tin anh ấy như trước nữa.
Minh nhìn Xuân, như hiểu ý bạn, nói:
- Hẳn anh ấy dặn chị nói xấu anh ấy với tôi để tôi chán ghét anh ấy chứ gì!
Xuân thở dài, ái ngại, đáp:
- Thật đấy, tôi không đánh lừa chị đâu.
- Thế anh ấy cho việc tôi định làm là phải hay trái?
- Tất anh ấy phải cho là phải, vì anh ấy vẫn viết báo cổ động lìa bỏ gia đình cũ đi,
Mình thở dài:
- Chi ạ, thế mà trước giờ quyết định, không hiểu sao có một cái sức gì nó kéo tôi lại, hình như nó không cho tôi làm một điều gian ác, trái với lương tâm.
Đoạn, Minh kể cho bạn nghe những cảm tưởng và ý định của nàng, rồi nói tiếp:
- Vậy chính tôi cũng muốn cho anh Nhã chán và ghét tôi. Tôi phải quên anh ấy đi. Tôi quyết đoạn tuyệt với lòng ích kỷ, với ái tình cũ, để thành thực và nhẫn nại mà gây hạnh phúc cho gia đình của chồng.
Rồi Minh cảm động, rơm rớm nước mắt. Thấy bạn cũng long lanh giọt lệ, nàng gượng cười, đem những chuyện vui vẻ khác ra nói cho khuây.
Nàng đã thấy có ít kết quả, là những người họ xa với chồng khen nàng ngoan nết, ăn ở đầy đặn, biết điều. Nhiều lần, nói chuyện với người khác, nàng đã thực bụng phàn nàn cho Oanh bị chồng chơi bời mà hờ hững.
Nàng vẫn mong có dịp để khuyên can Thẩm, nhưng hoạ hoằn, khi có giỗ tết, Thẩm mới đến nhà vợ, mà đến cũng không ngồi lâu bao giờ. Thẩm rất ác cảm với bà Tuần, vì bà Tuần rất ghét Thẩm. Chính tai Minh nghe thấy bà luôn luôn xui Oanh sinh sự lôi thôi với nhà chồng để lấy chứng cớ mà kiện ly dị. Nếu không có chồng nàng và nàng ngăn ngừa Oanh, thì có lẽ Oanh đã làm theo mẹ từ lâu.
Vì Minh là người đứng giữa nên biết xét công bình hơn, nàng thấy Thẩm không phải người tệ bạc. Nàng hiểu rằng trong tấn bi kịch mẹ chồng nàng dâu ở nhà Thẩm là do lỗi tại Oanh nhiều hơn. Nàng cảm động vì một lần được Thẩm ngỏ tâm sự riêng cùng nàng và có ý quý nàng nhất nhà. Một vài khi, Thẩm đã nhờ nàng răn bảo vợ hộ. Bởi vậy, nàng cũng đem lòng quý mến Thẩm.
Về phần Oanh, vì từng trải, nên nàng đối với Minh không xét nét như trước nữa. Trái lại, thỉnh thoảng Oanh muốn sắm sửa may mặc thức gì, nàng phải nhờ chị dâu cùng đi với.
Minh nhân những dịp ấy, vẫn khuyên bảo Oanh ăn ở cho phải đạo. Bởi vậy, thỉnh thoảng Oanh cũng than thở với Minh những nỗi đau đớn của mình. Có một hôm Oanh khóc và nói:
- Chị ạ, thế mà thành ra em khổ hơn chị.
Thấy Oanh đã thật thà mà nói câu vô ý ấy. Minh mỉm cười và nói chữa hộ:
- Tôi đi làm đâu, có gì là khổ mà cô nói thế. Mẹ yêu thì mẹ phải dạy, đó là lẽ rất thường.
Oanh chùi mắt:
- Nhà em chơi bời quá, em không biết khuyên bảo thế nào được. Đàn ông họ không hiểu cái khổ tâm của một người vợ có chồng chơi bời.
Minh ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Nhưng mình cũng nên suy xét, họ đi cầu vui ở chỗ khác, có lẽ vì ở gia đình họ không thấy vui thú. Tôi hay trách mình trước rồi mới trách người sau, nên nói vậy. Hay là cô thử nghĩ kỹ xem hoặc cô đã làm chú ấy buồn bực vì nỗi gì chăng. Ở trong nhà vui vẻ thì người chồng còn phải đi tìm thú vui ở đâu nữa!
- Không phải, chẳng qua tại tính người.
- Nếu nghĩ như cô thì không tài nào cô sửa chữa được chú ấy. Cô phải tìm cho đến nguyên nhân. Người ta chán vợ hay chán chồng, là do người ta yêu vụng nhớ thầm một người nào khác hơn. Chỉ có những bậc hơn người mới có thể biết nghĩ mà bỏ những tư tưởng yêu nhớ ấy được. Còn những người tầm thường, thì phải chờ cho đến khi họ thấy người yêu ấy có chỗ đáng chán, họ mới đổi bụng. Vậy chính cô có thể làm cho chú ấy đổi bụng được.
Oanh chán nản, hỏi:
- Chị bảo làm thế nào?
- Lúc nào cô cũng nên là vợ hiền, dâu thảo. Chỉ thế, cô mới có thể cảm hoá được chú ấy mà thôi.
Oanh lắc đầu:
- Khó lắm. Mỗi tháng mấy chục đồng bạc lương, nhà em không để cho em tiêu một đồng xu nhỏ.
- Sao cô không mách bà cụ.
- Có, nhưng đẻ em không nói gì cả, đẻ em lại mắng thêm em. Chán quá chị ạ. Em quyết không chóng thì chầy, cái nhà ấy phải vào tay người khác, nhà em nợ lắm, em biết.
- Thế bà cụ có biết không?
- Không, mà em cũng mặc kệ. Mất thì thôi chả cần. Nhà ấy còn chăng nữa thì về phần em có được là mấy! Đem gia tài đi chia năm chia bảy, chị tính được mấy trăm bạc, em thiết gì!
Minh nhìn Oanh, vừa bỉ vừa thương hại. Tự nhiên nàng thương hại cả Thẩm, chồng Oanh. Nàng hiểu rằng sở dĩ Thẩm chơi bời là vì Oanh đã làm cho Thẩm chán ghét vì nhiều lẽ. Lẽ thứ nhất, là Thẩm tưởng Oanh là cái mỏ vàng khai không bao giờ hết. Lẽ thứ hai, là vì Oanh không ăn mặc theo thời trang trong khi trước mắt Thẩm, biết bao nhiêu thiếu nữ khác chỉ trang điểm để khêu gợi bọn trai chưa vợ. Lẽ thứ ba, là Thẩm cũng như Minh, đã không chịu được bà Tuần, dù bà chỉ là nhạc mẫu, Mẹ Thẩm và bà Tuần sở dĩ dâu gia với nhau, là do sự thân mật làm nên bởi quân bài.
Chiều sẩm hôm ấy bà Tuần sai Minh đến nhà Thẩm để xin phép cho Oanh về bà hỏi chút việc.
Đèn điện phố lúc ấy vừa bật, như một dãy hạt ngọc hiện ra, người đi kẻ lại rầm rập vui vẻ. Minh thấy vợ chồng Trí, bạn thân với chồng nàng, đi thong thả sóng đôi nhau ở trên hè, nàng nhéch mép, cúi chào, nhưng không dừng lại hỏi chuyện.
Minh đến nhà Oanh, thì Oanh đã đi vắng. Nàng được dịp gặp Thẩm. Thẩm đem chuyện Oanh ra nói và thở dài:
- Chị tính lấy phải vợ như thế, ai mà không buồn chán. Cho nên thành ra chơi bời cũng vì thế. Mà bực mình, tôi cũng chẳng muốn để cho tiêu một đồng lương nào!
Mình nghiem trang nói:
- Chú nên hà tiện.
- Hà tiện làm gì, bó bíu làm gì cho thêm khổ. Chả ăn tiêu cho sung sướng, cũng hoài cái tuổi trẻ đi mà thôi.
Minh cau mặt:
- Chú không biết lo xa.
Thẩm vẫn chán nản:
- Lo xa làm gì? Ở đời sống được ngày nào biết ngày ấy. Cứ như tôi, làm được đồng nào chẳng tiêu cho hết, thì giữ làm gì.
Minh ra vẻ nghĩ ngợi, thở dài, nói:
- Tôi chỉ ước ao anh ấy đi làm được mỗi tháng lấy hai ba chục thôi, thì tôi nhẹ mình. Lắm lúc ngồi nhớ lại, tiếc ngẩn tiếc ngơ. Mẹ bắt tôi ở nhà không cho tôi đi làm, thành ra để khó cho tôi.
Thẩm cười, thương hại:
- Mẹ gàn không có chỗ nói!
- Ấy thế mà từ tháng sau, mẹ giao cả công việc nội trợ cho tôi, mà mỗi tháng chỉ cho tôi hai chục để tiêu pha. Như thế, không sao đủ được.
Thẩm căm tức, nói:
- Mẹ đối với chị quá nghiệt, nghiệt đã có tiếng đấy.
Minh cười:
- Nhưng cũng phải chịu chứ sao? Cho nên nhân hôm nay, tôi có câu chuyện muốn nói với chú.
- Vâng, chị cứ nói.
- Tôi từ nay không đi làm nữa, thì thật là từ đồng xu nhỏ muốn tiêu, cũng phải ngửa tay ra xin mẹ. Lắm lúc nhục lắm chú ạ.
Thẩm lắc đầu. Minh tiếp:
- Bởi vậy, từ tháng sau, tôi muốn dựng bát họ bốn trăm, mỗi tháng đóng hai trăm đồng, muốn mời chú đóng cho một bát.
Thẩm ngẫm nghĩ. Minh lại nói:
- Thì cũng như tiền chú để dành, mà là chú giúp tôi. Tôi sẽ có đồng ra đồng vào, rồi chỗ lãi lời, tôi lấy để bù đắp vào những món thiếu thốn hàng tháng; nếu không thì lấy đâu mà tiêu pha cho đủ!
Thẩm châm thuốc lá, thở dài. Minh lại nói:
- Tôi muốn mẹ không nói tôi vào đâu được. Mẹ vẫn mạt sát bọn gái mới, cho là một hạng hư đốn, công việc làm ăn không biết một tí gì. Vì vậy, nhân dịp này, tôi quyết làm mẹ phải ngạc nhiên.
Thẩm đáp:
- Nhưng chị tính lương của tôi có mấy chục đồng bạc, nếu đóng họ thì lấy gì mà tiêu?
Minh cười, nằn nì:
- Chú có phải ăn tiêu gì đâu. Lo liệu công việc nhà, thì đã có bà. Bất quá chú chỉ chơi bời phung phí hết. Thì trước là chú giúp tôi, sau tà ngoảnh đi ngoảnh lại chú có một món tiền để dành mà.
Thẩm thở dài, rồi đáp:
- Nhưng tôi sợ nhà tôi biết rằng tôi đóng họ.
Chắc rằng Thẩm sợ nàng nói chuyện với Oanh rằng Thẩm có tiền riêng, sợ Oanh lấy mất, nên nàng nói:
- Không, chú chẳng nói tôi cũng phải giữ kín. Cô ấy với tôi như mặt trăng mặt trời. Tôi sẽ không nói rằng chú đóng họ cho tôi. Mà đến cả việc dựng họ, tôi cũng giấu hết mọi người. Rồi khi dốc ống, tôi cứ đưa riêng cho chú thôi.
Đắn đo một lúc, Thẩm không đáp. Minh nằn nì:
- Họ hàng nhà anh Cả, tôi chẳng dám hy vọng vào ai. Dựng bát họ này, tôi chỉ mời các bạn cũ của tôi, và những người hiểu tôi như chú. Nếu chú hờ hững mà không giúp tôi, thì thật là một điều không may cho tôi.
Thẩm động lòng:
- Nhưng chị có cam đoan rằng chị giấu cho tôi không?
Nghiêm nét mặt, Minh đáp:
- Chú bảo tôi mách ai? Có bao giờ tôi nói với cô ấy để cô ấy khinh tôi? Mà chẳng lẽ tôi muốn im lặng để cho mẹ ngạc nhiên, tôi lại phun ra cho mẹ biết rằng tôi phải dựng họ để lấy tiền chi tiêu hàng tháng à? Chú nhận lời tôi nhé.
Thẩm ngẫm nghĩ. Minh nói luôn:
- Thì cũng như chú nhịn tiêu một món chứ gì. Nhịn tiêu để giúp một người, tôi tưởng việc nghĩa ấy, những người có tâm huyết không khi nào bỏ qua.
Thẩm đáp:
- Vâng, tôi xin nhận. Nhưng chị nên đến tận nơi đây mà thu tiền, chứ tôi không gửi ai đưa đến đằng nhà được đâu.
Minh về, rất vui vẻ. Vừa ngồi xe, vừa ngẫm nghĩ đến thân thế nàng, nàng cho rằng sự sướng khổ của người ra, là do ở thói quen cả mà thôi. Cái gì nó làm cho ta bằng lòng hơn hay kém sự thường, thì ta thấy sướng hay khổ. Thế thì sướng hay khổ là do lòng người ta thấy như thế. Ta dùng đèn điện quen, thì khi làm việc dưới ánh sáng ngọn đèn dầu, ta thấy khó chịu; nhưng ta chưa hề ước ao có một mắt nữa ở đằng sau gáy, để tiện nhìn về phía sau, là hỏi ta chưa quen có. Thế thì đời, người nào ít thói quen nhất, là những người được nhiều điều vừa lòng nhất.
Bỗng phu xe quát một tiếng "ếp" làm nàng giật mình, chú ý nhìn. Tự nhiên nàng đỏ bừng mặt. Nàng nhác thấy Nhã đang lững thững đi bộ ở trước mặt.
Nhã quay lại gặp nàng.Nàng cuống quýt mừng rỡ, toan đập chân xuống sàn xe, bảo đứng dừng lại. Nhưng vụt nghĩ ra, nàng vội quả quyết quay đi, trống ngực thình thình, run lên.
Xe chạy được mươi bước, Minh vẫn hồi hộp vì hối hận đã quá lãnh đạm với Nhã. Bỗng nàng nghe tiếng đánh huỵch, tiếng xe đạp đổ, và tiếng người chạy. Ngoảnh cổ lại nhìn, nàng thấy một lũ người túm tụm ỡ giữa đường. Chột dạ, nàng bảo xe đổ lại và tò mò lắng tai nghe. Nhưng người phu xe cứ thản nhiên như không, cứ gò lưng để miết:
- Ô, đám đanh nhau, bà xem làm gì!
Minh càng bối rối:
- Hãy gườm.
Phu xe toan đặt xe xuống, thì bỗng Sanh đến trước mặt, làm cho nàng thất vọng. Nàng vờ trỏ bảo Sanh.
Sanh nhăn mặt, lắc đầu:
- Hơi đâu, rồi lỡ ra phải làm chứng thì lôi thôi.
Rồi chàng tiếp:
- Lại một đám móc túi chứ gì!
Thế là nàng bị chồng dẫn về mà không thể làm gì được. Nàng quyết không phải đám đánh nhau, mà cũng không phải đám móc túi. Nàng đoán rằng đó là cái nạn xe đạp. Nhưng ai bị nạn? Hay là Nhã, thì thương hại thay! Nàng phân vân hậm hực và ân hận, vì có lẽ nàng đã quá lạnh lùng với Nhã, mà chàng tủi thân đến nỗi hoa mắt ù tai chăng.
Rồi đến hôm sau, một tờ báo đăng tin sau này:
ÔNG TRẦN VĂN NHÀ BỊ THƯƠNG
"Tối hôm qua, trong khi đi phố, ông Trần Văn Nhã, biên tập tờ "Tuổi trẻ" bị một cái xe đạp phóng nước đại văng mạnh vào mạng mỡ, ngã bất tỉnh nhân sự. Cả cái xe đạp lẫn người ngồi xe cùng lăn ra đường. Người ta vực ông Nhã vào nhà thương để điều trị. Chúng tôi có đến thăm ông ngay tối hôm qua, xem ra ông bị thương nặng ở cánh tay phải và vẫn còn đau tức ở cạnh sườn. Hỏi ông thì ông không nhớ gì hết. Ông chỉ mang máng rằng lúc cái xe đạp bấm chuông ở sau lưng, thì ông có nghe tiếng, nhưng không hiểu sao, ông không nghĩ đến việc tránh, và ông chịu hoàn toàn lỗi ở ông.
Chúng tôi lấy làm lạ, sao ông Nhã lại có cái chút vô ý và đãng trí đến như thế. Vậy xin chúc ông chóng bình phục".
Đọc xong, Minh rớt nước mắt, lả đầu vào lưng ghế, ngồi thần ra đến hàng giờ.
Minh không sao can nổi mẹ chồng, nàng đã giảng rõ cho bà biết rằng chẳng qua chồng nàng phải cảm, chỉ cần luộc quả trứng để tránh gió, hoặc đun nồi nước để xông, hoặc nữa, mua dăm xu chè giải cảm để uống cũng có thể khỏi được. Nhưng mà bà Tuần nhất định không tin thế, bà cả quyết rằng vì Minh mà Sang bị ốm, rồi bà lo lắng, cuống queo, trịnh trọng sắm đồ lễ, làm cho Sanh cũng tưởng mình ốm nặng thật…
Nguyên mấy hôm trước, bà Tuần cho Sanh và Minh cùng với vợ chồng Trí đi chùa Hương để cầu tự, vì bà rất nóng ruột có cháu nội để ẵm. Nàng từ chối không đi vì nàng không tin nhảm, mà nhất là thấy Xuân nói chuyện rằng Nhã cũng muốn tổ chức cuộc đi ngoạn cảnh chùa Hương, nàng muốn tránh khỏi gặp Nhã, nàng muốn quên Nhã để yêu Sanh và yêu gia đình Sanh. Hồi Nhã bị thương ở cánh tay, nàng đã có thể lãnh đạm mà không có một nửa lời hỏi thăm, thì nàng thấy rằng nàng có thể đạt được ý mình đã định. Thế là đi chùa Hương rồi lỡ ra gặp Nhã, có khác nào tự nàng làm hại nàng hay không.Nhưng bà Tuần có hiểu đâu, thấy nàng từ chối, bà mắng và diếc móc xa xôi là không nghĩ gì đến gia đình. Bởi vậy, Minh bắt buộc phải đi, mà chẳng những không sốt sắng, thành tâm như mẹ chồng và chồng, nàng cũng không dám coi như cuộc đi xem phong cảnh, vì lúc nào nàng cũng len lén như chuột ngày.
Cho nên, từ hôm về nhà, bà Tuần vẫn hậm hực, nhất là khi thấy Minh dọn cơm, mà quên không đặt thêm chiếc bát, đôi đũa, hoặc khi nghe Minh nói chuyện với chồng, khen một vài cảnh nên thơ của chùa Hương. Đến lúc Sanh kêu hâm hấp nóng đầu, thì thật không còn hối hận rằng mình quá thiên, bà đổ riệt cho Minh bang bổ.
Trước thì Minh buồn, cho rằng mình chỉ bị nói khó chịu đến lúc Sanh khỏi là cùng, vì Sanh cũng hơi sốt thôi.Nhưng sau, đầu Sanh nóng hơn dần, Minh thấy món tiền sắm việc lễ tạ to thì nàng giật mình. Đến lúc bà Tuần nghiến răng trỏ vào mặt Minh mà xói móc, thì Minh chỉ buồn cười thôi.
- Thật là mợ làm khổ chồng mợ nhé.
Nàng không nhận tội ấy vì nàng không làm tội ấy, cho nên nàng vẫn như không. Bà Tuần thấy nàng tươi tỉnh thì tức và nhắc lại câu ấy, kỳ đến khi nàng phát khóc thì mới nghe. Quả nhiên, Minh khóc và đáp:
- Bẩm mẹ, giá mẹ cứ nghe con cho nhà con uống thuốc có lẽ không tốn kém tí nào.
Cho là nàng dâu nhạo mình, bà đập tay xuống bàn:
- Mợ đừng nói láo. Mợ muốn giết chồng mợ thì mợ cứ báng bổ đi.
Minh quệt nước mắt, dịu dàng nói;
- Bẩm con tưởng nếu con chẳng thành tâm thì con bị trừng phạt, chứ thánh nào bất công lại bắt chồng con ốm bao giờ.
Bà Tuần không thể nhịn được, đứng phắt dậy:
- Nữ nhân ngoại tộc! Nữ nhân ngoại tộc! Mợ đã hiểu chưa? Đồ ngu! Mợ đã tưởng mợ hay ho lắm để các Ngài trừng phạt phải không. Đến ngay như ở nhà, mợ có điều gì phạm lỗi, thì tôi cứ căng xác cái thằng chồng mợ ra ấy, chứ tôi thèm nói đến cái thứ mợ à?
Minh ngắm nét mặt hầm hầm của mẹ chồng, nàng mỉm cười và càng dịu dàng:
- Bẩm mẹ, con thấy nhà con bảo vì trời nắng mà nhà con không có ô che, nên mới phải cảm.
Bà Tuần tức hơn, lắp bắp mấy tiếng, rồi tiếp:
- Thế sao tôi không phải cảm? Mợ không phải cảm?
Minh không muốn để mẹ chồng tức hơn nữa vì đuối lý, nàng trở vào buồng, vừa đi vừa nói:
- Chỉ tại mẹ, giá không vẽ ra đi chùa, thì việc gì Thánh phạt!
Lúc ấy Sanh đã thức dậy.Chàng chỉ chợp mắt được độ một lát khi trong nhà yên tĩnh mà thôi. Minh thương hại chồng, đặt tay lên trán chồng, và khẽ hỏi:
- Để tôi mời ông lang nhé?
Sanh đưa hai mắt mệt nhọc nhìn vợ, đáp:
- Nhưng nên giấu mẹ.
- Tôi tưởng cậu yếu mời ông lang đến chữa, thì cần gì phải giấu?
Giữa lúc ấy, bà Tuần vừa đến cửa buồng và đã nghe thấy hết cả, bà vội nói:
- Thôi ạ, mợ để mặc tôi ạ. Thầy lang chữa được bệnh chứ nào chữa được mệnh.
- Nhưng bẩm mẹ, nào Thánh có phải là ông lang, chẳng qua những người mê tín bắt Thánh làm thêm việc ấy.
Tức thì một quyển sách lẳng suýt vào mặt Minh.
- Này lý sự này!
Minh tránh được, chạy ù ra mất. Sanh sợ, tái mét mặt lại, giượng ngồi nhỏm dậy. Bà Tuần gục vào bàn, khóc:
- Rước những ngữ này về thực là khổ. Dạy lắm cũng thế thôi!
Sanh nhăn nhó can mẹ:
- Thưa mẹ, con xin mẹ tha thứ cho nhà con.
- Khổ lắm, mẹ biết rằng con sẽ ốm thêm về vợ con.
Sanh an ủi:
- Không mẹ ạ. Mẹ không nghe nhà con thì thôi, việc gì mẹ phải khóc lóc, tức tối.
- Nhục nhã quá! Thế này thì cúng cấp ở nhà bằng không.
Nói xong, bà thở dài, uể oải đứng dậy, rồi gọi thằng xe kéo bà đi lễ.
Nhân mẹ chồng đi vắng, Minh vào buồng, buồn rầu than thở với chồng vải câu, rồi nàng quả quyết:
- Cậu ạ, tôi cứ đi mời ông lang đây. Rồi mẹ mắng chửi sao tôi cũng chịu. Tôi không thể làm thinh để mẹ nhắm mắt tin xằng được.
Sanh thở dài.Minh khép cửa cẩn thận rồi đi.
Một lát, ông lang đến bắt mạch kê đơn, đoạn Minh thân hành ra hiệu bào chế.
Nhưng trong khi sắc thuốc thì bà Tuần về. Bà trông thấy hỏa lò và siêu thì bà giận đầy ruột, bà giơ chân đạp vỡ tứ tung, và la ó rầm rĩ. Bà đã đi lễ về, bà đã xin cho con bà được một bát thuốc thánh.
Minh thấy vọng, lên gác ti tỉ khóc. Bà Tuần bưng bát tàn hương nước thải vào cho Sanh và âu yếm nói:
- Mẹ kêu mãi Ngài mới cho đây, con nên uống ngay.
Sanh nhìn bát nước lã ngần ngại nói:
- Con sợ nước lạnh lắm, mẹ ạ.
Bà Tuần dỗ:
- Con cố đi. Nó hay về cái lạnh. Con vợ con báng bổ, thế mà Ngài biết, sau mẹ lễ tạ mãi, Ngài mới ban cho đấy.
- Mẹ cho con uống thuốc chén, nếu không khỏi hãy hay.
Bà Tuần sợ hãi, trợn mắt:
- Chết! Sao con nói càn thế? Mẹ đã kêu rồi, Ngài không cho uống thuốc đâu.
Nói xong, bà Tuần bưng bát kề tận miệng Sanh. Sanh thấy nét mặt nằn nì của mẹ, chàng không nỡ từ chối, bèn ừng ực uống.
Nhưng một giờ sau, Sanh đâm lưỡi đen. Bà Tuần và Minh cuống quýt. Hai người cùng nước mắt chảy quanh.
Rồi nghĩ ngợi một lắt, bà gọi Minh, đập tay xuống giường, vật vã nói:
- Thôi phải rồi, chỉ tại mợ, tại mợ dám mời thầy lang. Ngày đã bảo không cho chữa với trần kia mà!
Minh chán ngán, gục mặt ngồi thừ ra. Bà lại gắt:
- Thế mợ không thèm cựa cậy phải không?
Nói đoạn, bà quẳng hai hào vào mặt Minh, sai đi mua vàng hương để bà đi lễ tạ.
Chờ bà ra khỏi nhà, Minh tức tốc đến mời một ông chú họ rất giỏi thuốc, nàng nói thật hết các chứng bệnh, và cách chữa của mẹ chồng, để ông kê đơn khác. Nàng khuyên chồng:
- Hễ chốc nữa, mẹ có cho cậu uống gì thì cậu chớ nghe nhé.
Sanh nhọc mệt, nói líu ríu:
- Tôi có muốn nghe cậu đâu!
Rồi Minh lại đi sửa soạn đồ đạc để sắc thuốc. Nàng căm giận sự mê muội đó làm cho bà Tuần không biết suy xét gì. Nàng lại lo nỗi lỡ ra Sanh có mệnh hệ nào, thì không biết người ta đổ cho ai là thủ phạm.
Nàng đun thuốc rõ mau, để chồng uống trước khi mẹ về. Thì may quá, nàng được toại nguyện.
Minh bưng thuốc lên, thấy mặt chồng lợt lạt. Nàng đỡ chồng dậy, và vui vẻ nói:
- Cậu nên uống ngay, kẻo mẹ về.
Sanh bưng bát thuốc, vừa để kề miệng thì tiếng giầy của bà Tuần đã lẹp kẹp ở nhà ngoài.
Minh giục:
- Uống đi.
Nói đoạn, nàng đưa chồng cầm bát, chạy vội ra ngoài, lên gác trốn biệt.
Bà Tuần cũng bưng một bát nữa vào cho Sanh. Khi bà thấy hơi thuốc sặc sụa và Sanh đương ngửa cổ để uống, bà kinh ngạc chạy vội lại giật ra và hỏi:
- Đứa nào cho con uống thuốc đây?
Rồi bù lu bù loa, bà thét gọi Minh, nhưng Minh nhất định không thưa. Bà khóc:
- Nó cố làm hại con mà con không biết.
Sanh đáp:
- Mẹ đừng nên nghĩ quá. Mẹ yên cho con uống nốt vài ngụm nữa.
Bà Tuần giữ chặt lấy bát:
- Thế này rồi mẹ cũng đến ốm mất.
Sanh đáp:
- Thưa mẹ, mẹ cứ yên lòng.
- Không, Ngài quở, Ngài phạt mẹ. mẹ đắc tội với Ngài.
Sanh mệt quá, từ từ nằm ngả xuống. Bà Tuần nói:
- Ra con không vâng lời mẹ, mà nó bảo con gì con cũng nghe. Bệnh này uống thuốc thì oan gia.
Nói đoạn, bà gí bát thuốc gần mũi, bỗng bà đổi sắc mặt, gọi:
- Sen!
Con Sen hớt hơ hớt hải chạy vào. Bà giục:
- Mày đi cạo tí mùn thớt, mang lên đây cho tao.
Sanh nói:
- Thôi, mẹ đừng bắt con thế.
- Để nôn thuốc ra, mà uống cái này.
- Mẹ cho con uống gì?
- Ngài cho chứ mẹ biết gì mà cho.
Sanh gượng ngồi dậy. Bà Tuần lại ngửi thuốc rồi ngờ ngợ, nói:
- Quái mùi nó thế nào ấy.
Rồi bỗng lo sợ, bà vật vã:
- Con dại dột, quá nghe vợ con. Con ấy chúa là độc ác mà con không biết. Thế nó mời ông lang nào cho con?
- Thưa mẹ, ông Bảy là chú nhà con.
Bà trợn mắt:
- Phải rồi, thôi, nguy đến nơi rồi. Thế con không biết nó không thiết đi cầu tự à? Nghĩa là nó không muốn có con. Nghĩa là nó muốn cho nhà ta tuyệt tự, nghe chưa.
Sanh buồn bã, thở dài. Bà Tuần lại cạo mùn thớt và nói với Sanh:
- Vả con cũng bạo lắm. Con không biết chú cháu nó bảo nhau cho con uống thuốc gì à?
Sanh ngạc nhiên, nhìn mẹ. Bà nói:
- Giá là thuốc chữa bệnh thực, thì cũng phải chính tay mẹ sắc, mẹ mới dám cho con uống.
- Sao ạ?
Bà Tuần cười thương hại, rỉ tai con:
- Mẹ nghi lắm. Sao nó không mời ông lang, lại nhờ chú nó, tất cả là có sự bí mật.
Sanh ngớ mặt, bà lại nói:
- Biết nó là thuốc gì? Ngộ là thuốc độc thì sao?
Sanh xám ngắt lại, nằm lả xuống giường. Bà Tuần sụt sịt, rồi chợt nghĩ ra, bà bảo:
- Được, để mẹ thử xem.
Dứt lời, bà gọi Minh.Minh ở trên gác, rón rén xuống.bà Tuần ngọt ngào nói:
- Cậu nó yếu, mà mợ trông nom săn sóc, thật là tốt bụng.
Nhưng đổi ngay sắc mặt giận dữ, nghi ngờ, bà hỏi:
- Thế những bã thuốc, mợ có giữ lại không?
Minh ngạc nhiên đáp:
- Bẩm mẹ, con đổ cả đi rồi.
Bà Tuần liếc nhìn Sanh, kinh hãi, rồi đứng phắt dậy, bà trỏ bát thuốc và bảo Minh:
- Thế thì mợ uống nốt ít thuốc đi cho tôi xem.
Minh thấy chồng trông mình chòng chọc và có vẻ sợ hãi, thì càng ngơ ngác:
- Bẩm mẹ, thuốc của nhà con chứ có phải thuốc của con đâu ạ?
Bà nhìn Sanh, khóc:
- Đấy, mẹ đoán có sai đâu?
Đoạn bà xám xịt mặt lại, quát:
- Mợ phải uống, để tôi xem mợ cho nó thứ thuốc gì nào! Cho mợ biết tay tôi.
Minh hiểu ý, nhìn mẹ, mỉm cười, rồi uống tự nhiên như không.
Bà Tuần và Sanh nhìn Minh, rồi nhìn nhau.
Vậy mà thấy Sanh uống mùn thớt lại không nôn được thì bà vẫn lo, lo suốt cả đêm, đến nỗi nằm ngử bà giật mình thon thót, lo đến tận hôm sau Sanh cất cơn.
Thỉnh thoảng, nàng nghe lỏm thấy những người họ nhà chồng nói chuyện với mẹ chồng khen nết ăn ý ở của nàng, và một đôi khi, Trí cũng ca tụng đức tính của nàng với Sanh, thì nàng thấy vui sướng lạ lùng. Nàng mỉm cười nghĩ:
“Chỉ cầu được cái vui sướng về tinh thần mới khó”.
Bởi vậy, nàng không hề để ý đến những điều cư xử trái ngược của mẹ chồng nữa.Nàng cần suy xét xem bà phải hay trái.Có thế thôi. Nhiều lúc nàng lấy việc suy xét làm tiêu khiển.
Nàng cho là ở đời không có việc gì khó cả. Đối với mẹ chồng cay nghiệt, nhỏ nhen như bà Tuần, mà nàng còn chịu được, còn thắng được, thì nàng mới thấy sự nhẫn nại đáng quý biết chừng nào. Nếu nàng không nhẫn nại, có lẽ cuộc đời nàng đã xoay ra mặt khác. Mà dù nàng có được sung sướng ra chăng nữa, chắc rằng nàng chỉ sung sướng lấy riêng mình, chứ không ai được vì nàng mà sung sướng. Nhưng nay, một vài người họ đã bằng lòng nàng mà quý mến nàng. Oanh đã cảm thương nàng. Sanh đã không ngờ vực nàng. Thế là đủ. Dù bà Tuần có ghét, có nghi nàng, nhưng nàng không quan tâm lắm. Bà là người phái cũ, cái óc cổ hủ khó lòng gột rửa được, thì nàng cũng không cần. Vả nàng không đáng ghét, không đáng nghi, thì nàng còn e ngại nỗi gì?
Nhưng đối với con dâu, bà Tuần vẫn không bỏ được cái lối làm mẹ chồng của bà. Bà vẫn than vãn với người khác là Minh hư đốn, không biết gì cả.
Một hôm, đi phố bà bắt gặp Minh đương rảo cẳng, ra ý hớt hải, thì bà giận lắm. Một lát sau, bà bắt thằng xe kéo theo để dò xem Minh đi đâu mà dám tự do thế, nhưng bà không thấy hút nàng đâu nữa.
Song, khi Minh về nhà, bà vẫn như không, không hề đả động đến việc ấy. Bà nghi cho con dâu có nhân tình tên Nhã. Bà vẫn dò la, nhưng chưa bắt được quả tang.
Hôm sau, nhân Minh đi chợ, bà gọi Oanh về, và cùng cả Sanh lên gác bàn việc. Bà buồn rầu hỏi Sanh:
- Tối hôm qua, mợ ấy đi đâu, cậu có biết không?
Sanh ngơ ngác:
- Con không biết.
- Không thể thế được. Mẹ hỏi con Vú, nó nói là mợ ấy về nhà mợ ấy, nhưng không phải. Mẹ gặp mợ ấy ở Hàng Đồng.
Sanh cắn môi, nghĩ ngợi. Oanh hỏi:
- Thế hôm qua, anh không có nhà à?
Sanh đáp:
- Anh đi chơi với anh Trí.
Bà Tuần cười lạt, mát mẻ:
- Con mà cứ tin con mẹ ranh ấy, có ngày thì mất vợ, con ạ.
Sanh ngậm ngùi, nói:
- Mẹ nghĩ quá, chứ đời nào. Nhà con có người bạn tên là Xuân, có lẽ lại chơi đấy.
Bà Tuần gật gù:
- Con Xuân thỉnh thoảng đến đằng này ấy phải không? Mẹ xem nó không tốt, con phải cấm nó không được bạn bè với con Xuân nữa.
Oan can:
- Mẹ nghiệt quá thế.
- Mày đừng dạy khôn tao. Về mà dạy mẹ chồng mày.
Oanh cười:
- Tại mẹ nghiệt với chị Cả, nên con phải trả nợ cho mẹ đấy.
- Láo nào!
- Con thấy chị Cả cũng khá, tốt bụng. Vả chị ấy làm dâu mẹ đã lâu rồi, thì mẹ chớ nên hà khắc quá, kẻo họ càng kêu.
Bà Tuần mắng:
- Chúng bay cứ bênh nó, rồi tao tìm được chứng cớ, lúc bấy giờ chúng bay mới trắng mắt ra. Tao báo nó có nhân tình. Chính con Đốc nghe thấy nó gọi nhau, thế mày cãi nữa đi. Độ này tao xem ý nó khác lắm, như mưu mô làm việc gì kín.
Oanh cười, không đáp. Sanh ngồi vắt chân chữ ngũ, chống tay vào trán, trầm ngâm. Rồi bỗng thở dài, Sanh đứng phắt dậy, đi bách bộ quanh phòng. Bà Tuần nhìn theo con, đắc chí, bèn đi xuống nhà dưới.
Trên gác, còn một mình Sanh và Oanh, im lặng. Hai người cùng buồn bã. Một lát, Sanh hỏi:
- Cô nghĩ thế nào?
- Em không ở nhà luôn, nên không thể biết đích xác được.
- Anh không muốn nói với mẹ những điều anh biết về chị, vì anh thấy mẹ nhiều lúc trái quá.
- Anh biết những gì?
- Anh không hiểu làm sao, một hôm anh thấy chị ấy có hai chục bạc trong túi.
Oanh cau mặt nghĩ ngợi rồi nói:
- Sao anh không hỏi?
- Có, chị ấy bảo của cô Xuân gửi.
- Thế thì vô lý thật. Chị ấy làm gì mà có tiền?
Sanh gật đầu:
- Phải, thế thì tiền ấy ở đâu? Anh đã hỏi dò ý mẹ, nhưng không thấy mẹ mất mát gì cả.
Oanh yên lặng một lát, rồi thở dài:
- Nếu thế thì chị ấy…
Rồi sực nhớ ra, Sanh nói:
- Cô ngờ không oan đâu. Một hôm chị ấy buồn quá, anh hỏi cái gì cũng không nói. Thì ra bây giờ anh mới đoán ra là cái thằng Nhã ấy đã gặp chị ấy ở phố mà quyết rằng hai người nói chuyện với nhau.
Oanh giật mình:
- Vậy à? Anh bắt được.
Sanh vừa nói vừa nghĩ, để khớp những mẩu chuyện con thành một chuyện dài có đầu có đuôi:
- Anh không bắt được, vì anh không ngờ. Anh chắc rằng lúc ấy hai người đang tình tự cùng nhau, thì thằng Nhã nhác trông thấy anh, vội vàng ù té chạy, đến nỗi đâm cả vào xe đạp người ta, mà bị thương.
Oanh gật gù:
- Thế thì còn phải nghi ngờ gì. Sao anh để yên được đến bây giờ mà không nói?
- Tại anh tin chị ấy quá, nên không nghĩ ra. Hôm nay nhân mẹ nói, anh mới nhớ lại việc cũ. Bởi vì hôm sau, anh thấy chị ấy buồn, mà ở nhật trình thì đăng có người tên Nhã bị thương ở tay. Nhã đây làm ở báo “Tuổi trẻ”, là tờ báo có bài thơ Khóc bạn, mà tác giả là Trần Văn Nhã đó. Anh quyết hai việc có liên quan với nhau.
Nói đoạn, Sanh xuống buồng lục đống nhật trình cũ, đưa Oanh xem bài thời sự ấy. Đọc xong Oanh thở dài:
- Phải rồi. Nhật trình người ta nói rõ quá. Cứ xem câu này thì biết.
Rồi Oanh đọc to:
-“Ông chỉ mang máng rằng lúc cái xe đạp bấm chuông ở sau lưng, thì ông có nghe tiếng, nhưng không hiểu sao, ông không nghĩ đến việc tránh, và ông chịu hoàn toàn lỗi ở ông. Chúng tôi rất lấy làm lạ sao ông Nhã lại có cái phút vô ý, đãng trí đến như thế?” Phải, thì nó hoảng nên cuống lên mà lại! Thế lúc gặp chị ấy, anh thấy nét mặt chị ấy thế nào?
Sanh cố nhớ lại việc cũ, đáp:
- Phải, chị ấy hớt hơ hớt hải, mà thằng xe thì chưa kịp chạy một bước nào.
- Thế hẳn chị ấy mới bước lên xe.
Sanh gật đầu. Oanh hỏi:
- Anh trông thấy chị ấy từ đằng xa chứ?
- Không, anh vô tình nên lúc đến trước mặt chị ấy, anh mới trông thấy.
- Em như anh thì em vờ trốn đi.
Sanh nhăn nhó giậm chân xuống ván gác:
- Khổ quá, nào ai ngờ. Hôm ấy, mẹ cho chị lại đằng nhà cô, gọi cô về có việc, mà trong khi ấy, thì tự nhiên cô đã về đây rồi. Thấy chị đi mãi mẹ mới bảo anh đi tìm, đến giữa đường anh gặp chị ở đấy, nện vội bảo về ngay.
Oanh thở dài:
- À, ra từ hôm ấy. Gớm, ra họ coi trời bằng vung thật. Hẳn ra họ dắt nhau đi ra phố, rồi cái nghề gian giảo thì hay phòng xa, nên họ trông thấy anh, một đằng chạy, còn một đằng nhảy lên xe, cho mất tích. Ra họ khôn nhưng không ngoan, sao không dắt nhau đi phố vắng nhỉ.
- Mà giá lúc ấy, xe chị ấy đang chạy, thì anh không ngờ, và có lẽ anh không trông thấy nữa.
- Lúc anh gặp, chị có nói gì không? Ta có thể suy câu nói ấy thì biết.
Sanh nghĩ ngợi một lát, bỗng trợn mắt:
- Thôi, đích rồi. Anh thấy chị ấy có vẻ luống cuống, đang quay mặt nhìn chỗ xảy ra nạn xe, và thằng phu xe thì nói câu gì về cái nạn ấy, anh quên mất. Chị ấy, thấy anh, vờ vô tình, bảo anh lại chỗ đông người xem cái gì.
- Nhưng anh không lại?
- Không.
Rồi yên lặng một lát, Sanh tiếp:
- Mẹ bắt gặp chị ấy hôm qua. Mẹ lại bảo độ này xem ý chị ấy khác, như mưu mô làm một việc gì kín. Anh cũng thấy thế.
- Anh thử nghĩ kỹ lại xem nào.
Sanh đau đớn cắn môi, rót nước, vừa lờ đờ nhìn lên trần, rồi nói:
- Hôm nọ, chị ấy bảo anh rằng xin phép mẹ cho chị ấy đi dạy học tư.
Oanh xua tay:
- Chớ! Chớ! Thế anh có bẩm mẹ không?
- Có.
- Mẹ bảo sao?
- Mẹ bảo để xem đã.
- Thôi. Rồi em bẩm mẹ mới được. Đang lúc thế này, còn thả chị ấy tự do đến đâu nữa.
- Chị ấy thỉnh thoảng thấy mẹ kêu túng, thì anh cho là muốn đỡ mẹ.
- Không phải đâu.
- Hơn tuần lễ nay, anh thấy chị ấy hớn hở, vui vẻ lắm. Chị ấy bảo có một chuyện muốn bàn với anh, nhưng rồi lại thôi.
Lắng tai nghe, Oanh cau mặt:
- Rồi anh thử gạn hỏi xem là chuyện gì nhé.
- Anh đã cố nhiều lần, nhưng chị ấy cứ cười, không nói.
- Vậy anh phải giữ gìn kiển thận. Chị ấy nói câu ấy từ hôm nào?
- Sau hôm bão vài ngày, anh còn nhớ.
- Thấy bão mà chị ấy hớn hở, vui vẻ được à? Người ta thì đổ cửa đổ nhà, đói rét, mà chị ấy cười! Cười cái khổ sở của người khác! Sao anh không đưa cho chị ấy xem những ảnh chụp bão đưa lên báo?
- Anh định đưa, nhưng tờ báo ấy vì có đăng kết quả cuộc xổ số, nên rồi ai mượn, anh quên đi mất.
Oanh thở dài:
- Nếu chị ấy hư, thì thật nhà ta đốn quá.
- Nhiều khi, chị ấy bảo anh rằng thỉnh thoảng chị ấy có đi chợ lâu về, mà mẹ mong thì nhờ chống chế hộ.
Oanh trơn mắt:
- Ồ, đấy.
- Chị ấy lại nói nếu khi nào chị ấy đi đâu có việc riêng, mà mẹ hỏi, thì anh nói dối hộ là anh bảo chị ấy đi.
Oanh nghĩ ngợi một lát rồi đáp:
- Được, ta cứ lờ đi như không biết, đừng cho chị ấy thấy ta nghi ngờ gì, thì mới dò dễ.
Rồi Oanh rỉ tai nói nhỏ với Sanh. Sanh nghiêm mặt, gật gù. Đoạn Oanh nhìn sang Sanh, nói to:
- Anh cũng khuyên cả mẹ thế nhé, thế nào cũng mắc.
Vừa nói xong, bà Tuần ở dưới nhà gọi:
- Cô Đốc đâu rồi! Chị Cả mua rau non đáo để.
Oanh thấy Minh hỏi giọng mừng rỡ:
- Cô Đốc đâu?
Oanh nhìn Sanh:
- Gớm không? Khôn khéo chưa?
Rồi thở dài. Oanh nói to:
- Em đây, chị đi chợ về đấy à.
Oanh thong thả xuống nhà, thì Minh chạy vội lên gác.Sanh ngồi tựa lung vào ghế, gục mặt xuống, căm hờn.
- Tôi trốn mẹ đến đây, để nói với chú một việc.
Thẩm ngạc nhiên, hỏi:
- Việc lành hay dữ, chị cứ nói.
Minh làm bộ mừng rỡ, đáp:
- Việc lành cho tôi mà chẳng lành cho chú.
Rồi Minh nghiêm lại, nói:
- Chú ạ, đáng lẽ tháng sau dốc ống họ, tôi phải chồng cho chú bốn trăm, nhưng mà…
Nàng thở dài, ngậm ngùi nhìn Thẩm, Thẩm vẫn yên lặng. Nàng nói tiếp:
- Nhưng mà, chỗ chú với tôi, tôi mới dám thế, chú cho tôi chịu được không?
Thẩm nhăn mặt. Minh nói:
- Chú lạ gì cái cảnh đi làm dâu của tôi. Mẹ bắt tôi trông nom cơm nước và mua bán những thứ vặt vãnh trong nhà, mà chỉ cho tôi có hai mươi đồng một tháng, chú tính làm sao đủ được. Thành thử tháng nào tôi cũng phải bù ngót mười đồng.
Thẩm có ý giận:
- Chị nói dối, mẹ đằng nhà thiếu gì của. Vả chị tiêu gì hết cả bốn trăm?
Minh lại thở dài:
- Nếu mẹ như người ta, tôi đã làm gì đến nỗi. Giá tôi vẫn được đi làm, có đồng ra đồng vào chắc tôi chưa phải nhỡ nhàng như thế này. Từ ngày tôi hai bàn tay trắng, thì xảy ra ở bên nhà tôi nhiều việc chi tiêu bất thường quá. Vừa rồi có người bà con bị bão làm khách kiệt gia tài, tôi phải giúp đỡ nhiều ít. Cho nên cả bát họ của chú, tôi trót tiêu hết.
Thẩm im lặng một lát, rồi ngẩng đầu lên hỏi:
- Hay là nhà tôi biết mà đòi chị, nên chị giấu tôi?
- Không phải, tôi có nói cho cô ấy biết tý nào đâu. Chính là tôi tiêu hết nếu chú không thương tôi, mà mách mẹ, hay làm tình làm tội gì, tôi cũng đành phải chịu.
Thẩm ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Chị cũng nên biết rằng tôi nợ.
Minh đáp:
- Có, nhưng mà đó là vì chú chơi bời. Bây giờ tôi xin chú bớt chơi bời mà cho tôi vay, để tôi làm những việc không trái với lương tâm tôi. Thôi cũng như chú bớt tiêu phí mỗi tháng một tý, để giúp tôi làm những việc có ích đôi chút.
Thẩm vẫn ra dáng không bằng lòng, đáp:
- Chị ạ, bất nhật tôi sẽ phải ngồi tù nợ và mất việc làm.
Minh kinh ngạc:
- Chú nói đùa?
- Thật vậy, chị biết đâu, tôi tai hại vì nhà tôi. Nhà tôi làm tôi điêu đứng, làm tôi không biết cái thú gia đình là gì nữa. Mà càng ngày càng tệ. Chỉ vì tôi có đôi chút lương tâm nên không nỡ xử tàn nhẫn, chứ như gia đình nhà khác, cứ những thói đài các chua ngoa, nhà tôi hẳn được nhiều bài học nên thân rồi.
Minh lắc đầu:
- Chú chỉ ghét cô ấy về cái xấu, không biết ăn mặc. Còn tính nết, chú không thấy cô ấy khá hơn trước hay sao?
Thẩm gật:
- Có, nhưng chỉ có được từng lúc. Tôi chán quá. Tôi sở dĩ sinh ra chơi bời quen thân, là do ở vợ tôi. Bây giờ tôi nợ nhiều nếu chị tiêu mất món tiền của tôi, thì tôi làm thế nào được.
Minh cười, nói đùa:
- Vừa rồi, tôi nghe chú trúng số kia mà!
- Nào có trúng!
Minh lại nghiêm trang:
- Nhưng giá chú có tiền, chắc gì chú dùng để trả nợ. Thà rằng chú cho tôi chịu lại để tôi đỡ lo. Cảnh chú cũng như cảnh tôi. Hai người bị đau đớn, không biết thương hại lẫn nhau hay sao?
Thẩm cảm động, không đáp. Minh vui vẻ nói:
- Chú bằng lòng vậy nhé.
Thẩm cười lạt:
- Chả bằng lòng, tôi làm gì chị.
- Vâng, thật đấy, chú muốn bỏ tù tôi thì bỏ, chứ bắt tôi chống họ, thì đến một trinh tôi cũng không còn.
- Nhưng chị hẹn tôi đến bao giờ?
- Tôi chưa dám hẹn trước, sao không có ngày tôi nộp chú phân miêng. Nếu chú tin tôi, rồi tôi dựng bát họ sau này, chú cứ đóng cho như trước.
Thẩm không trả lời, nghĩ ngợi một lát rồi hỏi:
- Mẹ có lắm tiền không hở chị?
- Tôi không rõ. Hẳn là cô ấy biết hơn tôi.
Rồi nàng lại kéo chuyện vào đầu đề:
- Chú cứ đóng nối họ cho tôi nhé.
Thẩm nghĩ ngợi:
- Thật không ai lại vô ý hơn tôi. Đối với mẹ vợ, tôi không thò ra một đồng xu nhỏ, mà đối với chị dâu vợ, tôi để cho tiêu ba bốn trăm.
Minh mỉm cười:
- Tôi biết lòng chú đối với tôi, tôi rất cảm động. Ở bên nhà, tôi cũng duy chỉ trọng có một mình chú.
Nói xong, Minh vui vẻ cáo từ ra về.
Đến nhà, nàng thấy chồng đương ngồi với Trí.Hai người nói chuyện với nhau về cuộc xổ số tuần lễ trước. Việc không can thiệp đến nàng, vả Trí không cùng đến với vợ nên nàng chỉ chào qua bạn chồng rồi đi tuột vào buồng giở bút giấy ra, tính toán các việc. Nhưng ở nhà ngoài, Sanh và Trí cười nói ồn ào, làm cho nàng cũng phải lắng tai. Hai người đương phệnh phạo đặt mình vào địa vị những người trúng các số lớn.
Bỗng Trí hỏi:
- Thế mà còn số trúng một vạn, không biết về ai. Báo đăng chưa thấy người nào ra lĩnh món tiền ấy.
Minh mỉm cười một mình rồi đứng dậy đi ra. Trí thấy nàng, nói đùa:
- Tôi tưởng anh chị trúng số một vạn, tôi lại mừng đây.
Bởi Trí đi lại với Sanh rất thân, nên từ bà Tuần cũng coi như người nhà, vì vậy Minh không phải e lệ lắm, nàng bèn đáp:
- Vâng, nếu chúng tôi được số, hôm nay anh đã chẳng tìm thấy chúng tôi.
Sanh cười. Trí bảo:
- Anh chị đi đâu?
- Nghĩa là chúng tôi giàu, chúng tôi phải tránh hết các bạn nghèo.
Nói đoạn, cùng trỏ vào Sanh và Trí nhìn nhau cười ngặt nghẹo.
Minh lên gác, thấy bà Tuần ngồi ngục vị, hai tay chống cằm, chăm chú nghe Oanh đọc tờ báo Tuổi trẻ. Nàng vừa đến nơi, thì Oanh im. Lâu nay, nàng vẫn nhận được báo Tuổi trẻ, nhưng nàng không đọc. Nàng chỉ nhìn qua các đầu bài và tên soạn giả, nàng vẫn thấy có tên Nhã, và một trang đăng tên các nhà từ thiện đã có hảo tâm cúng tiền để làm Dạ Lữ Viện ở Hải Phòng, song nàng không hề xem một bài báo nào. Nàng lại nghe Xuân nói chuyện Nhã độ này hay đua anh em chơi bởi, nay nhảy đầm, mai cô đào, mà chỉ thích cờ bạc, thuốc xái, nên nàng cũng thương tình. Nhưng biết làm thế nào? Người ta có thể vì cảnh ngộ mà đổi tính, song có phải vì nàng mà Nhã sinh ra thế không? Nàng đã nghĩ ngợi suy xét. Nàng quyết là không. Vì nếu bảo Nhã tuyệt vọng vì không kết hôn được với nàng, chắc chẳng đợi đến bây giờ Nhã mới đâm hư được.
Minh đến gần Oanh, thân mật hỏi:
- Cô đọc chuyện hầu mẹ đấy à?
Bà Tuần lãnh đạm nhìn Minh, chẳng nói chẳng rằng. Bà Tuần nhỏm dậy, bảo Oanh:
- Thế nào, cô đọc lại chỗ ấy, mẹ nghe lượt nữa.
Minh hơi chột dạ. Oanh nói:
- Chị ạ, bài này người ta viết khéo đáo để.
Liếc mắt nhìn, Minh thấy đầu bài là Ông giáo Oanh và tác giả là Trần Văn Nhã. Nàng lặng người. Giữa lúc ấy bà Tuần và Oanh đưa mắt trông nàng. Nàng phải cố điềm nhiên. Oanh đọc:
“ Giá tôi làm giáo học, thì vợ tôi, người ta không gọi là mợ Cả, mà gọi là bà Giáo. Thì danh tôi có, vợ tôi cũng được thơm một phần, lương tôi lĩnh, vợ tôi cũng được tiêu một nửa. Song, cho vợ được nên bà nọ, bà kia, tôi phải hò hét vất vả lắm.
Nhưng giả tôi không làm giáo học, tôi cứ lười biếng học hành và trượt thi, mà cố xoay xở kết hôn được với cô Giáo, thì người ta không gọi tôi là cậu Cả nữa, mà gọi là ông Giáo. Thì danh vợ tôi có, tôi cũng được che tàn, gạo vợ tôi kiếm, tôi cũng ăn ghẹ để cho no một đời. Vậy tôi được công thành danh toại, mà không phải học hành vất vả, không phải hò hét sái quai hàm.
Ông giáo Oanh, không những thứ năm ông nghỉ, chủ nhật ông nghỉ, mà thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ sáu, thứ bảy ông cũng không đi ra trường, vì bà Giáo nhà ông, đã dạy học ở trường con gái.
À, bây giờ tôi gọi là Me-xừ Nam, thì tôi đố các ngài biết tôi nói ai đấy? Nhưng mà nói tên Ông Giáo Oanh, thì hẳn ai cũng quen tai mà biết ngay là ông chồng Cô Giáo Oanh.
Ông giáo Oanh không năng đi lại với các bạn đồng nghiệp ở bên trường con trai, vì ông cho là các ông ấy là ông giáo khác ngạch. Cả ngày, ông săn sóc, dọn dẹp các việc trong cửa trong nhà, trông nom con cái. Thường ông tự bái phục ông là người nội trợ giỏi…”
Minh không dám ngồi lâu, bèn đứng dậy, Oanh nói:
- Hãy nghe nốt đoạn dưới, chị!
Minh mỉm cười:
- Tôi bận, cô ạ.
Oanh liếc bà Tuần, rồi nói:
- Mẹ ạ, sao người ta lại lấy tên con nhỉ? – Đoạn, nàng cười:
- Gớm! Giá chị Cả còn đi dạy học, chắc người ta gọi là anh Cả là Ông giáo Miêng đấy nhỉ?
Minh biến sắc mặt. Oanh nói lại:
- Nhưng mà người ta nói cũng có lý lắm.
Không muốn nghe thêm. Minh xuống dưới bếp rồi ra gác sân đứng. Nàng không dám ở dưới nhà, vì nếu ngồi trong buồng, nàng sợ bà Tuần ngờ nàng trốn việc đi nằm, dù có khi chẳng có việc gì; nếu nàng ngồi nhà ngoài, thì ở đó chồng nàng đang có khách, tuy Trí là bạn thân, và ít lâu nay, có vài bận Sanh bảo nàng tiếp Trí hộ, để chàng lên gác có chút việc bận; nhưng lần này nàng không dám quá tự do.
Đứng ngoài sân, nàng thờ thẫn nhìn cảnh bao la, mà thần trí man mác. Vùng trời xanh, những đám mây bạc lơ lửng rồi tan hợp. Mái nhà xám, chiếc cao, chiếc thấp, trông cứng cỏi mà buồn rầu. Nàng chán nản. Ít lâu nay, nàng ước mong được thấy phong cảnh chốn thôn quê, một cánh đồng ruộng bát ngát, im lặng đưa quanh mình những mùi bông lúa thơm ngào ngạt. Nàng thích nghe những tiếng sột soạt của đàn châu chấu nhảy cọ càng vào lá. Nàng thèm ngắm cái rặng núi biếc lô nhô ở chân trời mà tà dương nấp ở sau, tóe ra những tia hồng hình rẻ quạt.
Nhưng tưởng tượng đến cảnh bão vừa rồi, ruộng nương nhà tan tành, nàng động lòng thương những người bị nạn.Nàng lấy làm giận Nhã không để thì giờ viết phiếm mà hô hào tổ chức những việc nghĩa.Nàng thở dài. Song, nghĩ đến món tiền bốn trăm của Thẩm mà nàng nói là trót tiêu, nàng mỉm cười phục Thẩm có lòng tốt, đã chẳng giận dữ nàng một chút nào.
- Thôi, bận sau thì đừng cố dại mà cho người ta vào nữa. Cứ bảo mẹ đi vắng.
Sanh an ủi:
- Thì việc nghĩa, mẹ tiếc làm gì! Cũng như mẹ bỏ ù một ván thôi mà!
Bà gắt:
- Nhung bỏ ù còn được đánh, Chứ cho thế này thì được đánh ai?
- Bẩm mẹ, đó là việc phúc đức, như đi lễ vậy.
Bà càng tức:
- Đi lễ còn được phúc Phật, chứ đằng này thì được phúc gì! Thôi tôi không cho cậu lấy vé đi xem diễn kịch nữa.
Sanh cười:
- Người ta còn cúng trăm cúng nghìn cũng không tiếc, mà mẹ bỏ ra mới có một đồng bạc mà mẹ đã kêu ra kêu vào!
- Vì người ta ngốc! Cậu nghe chưa?
- Con tưởng nhờ trời nhà ta có của, thì mẹ nên làm những việc nghĩa vừa được phúc vừa được tiếng.
- Phúc gì? Vả ai khen?
- Thưa mẹ, hôm qua các báo vừa đăng rằng hội đồng cứu tế mới nhận được cái măng-đa năm nghìn của người vô danh ở Hà Nội cũng giúp dân bị bão. Đấy mẹ xem, người ta còn cao thượng thế được kia mà.
Bà chép miệng:
- Bà mà có năm nghìn, thì bà không dại thế. Bà mà bỏ ra năm nghìn, thì bà làm cho cả nước biết tên! Mà kinh tế này, chắc gì có người bỏ ra một lúc đến năm nghìn để làm việc không đâu thế? Chẳng qua báo họ đăng vậy, cho người khác tưởng thật làm theo, chứ ai lạ gì!
- Bẩm mẹ, người ta có biên cả số măng-đa, bịa sao được? Người vô danh ấy mới đáng phuc.
Rồi chàng nhắc mẹ:
- À, thưa mẹ, lại còn hội đồng dựng Dạ Lữ Viện ở Hải Phòng cũng vừa viết giấy quyên tiền ban sáng, mẹ nên giúp một chút, kẻo người ta kêu.
Bà Tuần bĩu môi:
- Tao không hiểu chúng mày sao lại hèn nhát được như thế? Kêu thì kêu cái gì mới được cơ chứ? Đem tiền làm những việc không đâu, tao không dại!
- Thì nhà ta là đại gia ở ngay kề Hải Cảng, người ta trọng người ta mới quyên.
Bà nghĩ ngợi rồi hỏi:
- Cậu định cho độ bao nhiêu?
- Báo đăng Dạ Lữ Viện đã làm xong, nay chỉ cần ít tiền để mua các thức dùng, và đồ chi tiêu sau này mà thôi. Vậy con xin mẹ cúng một trăm là ít.
Bà Tuần giật nảy mình, tròn cả mắt lẫn mồm, xua hai tay rối rít:
- Ồ! Gớm! Cậu làm như tiền là vỏ hến không bằng. Thôi, không cúng đồng nào nữa.
- Bẩm mẹ, nhiều hay ít mẹ cũng nên cúng, kẻo người ta cười cho.
- Cười hả mười cái răng! Làm việc gì mà tao hay con cháu tao không được hưởng thì rao không làm!
- Chẳng một trăm thì mẹ cho vài chục vậy!
- Thôi đi! Đừng sĩ diện hão...
Đang nói dò câu, thì mắt nhìn ra ngoài, bà Tuần thấy Oanh vào. bà vui vẻ vẫy:
- Kìa, cô Đốc, may quá, một suýt mẹ mất mẻ trộm to!
Oanh không để tai vào lời của mẹ, mắt nàng như nặng trĩu những vẻ đau đớn. Nàng vừa ngồi, đã ôm mặt sụt sịt khóc. Bà Tuần và Sanh chẳng hiểu sao, cùng ngạc nhiên và cùng thương hại. Oanh nói:
- Bẩm mẹ, mẹ cứu con...
Bà Tuần nghiêng cổ nhìn con gái như có ý hỏi. Oanh
ttếp:
- Chủ nợ nó đòi, và dọa kiện nhà con!
Bà Tuần co hai cẳng để ngang tay lên đầu gối, đáp:
- Mặc xác nó, thằng Thẩm ở tù, bà mát ruột.
- Nhưng mà mất việc?
- Cho nó biết thân!
Thấy mẹ sắt đá quá, Sanh dịu dàng hỏi Oanh ;
- Thế bây giờ cô về xin mẹ à?
- Vâng. Mẹ không cho thì em khổ.
Sanh cười lạt. Bà Tuần đập bàn tay xuống chiếu:
- Thế mẹ chồng mày không lo cho chồng mày được à? Cái gì khổ cũng chuốc vào cho tao. Từ ngày mày đi lấy chồng, tao không lúc nào không phải lo nghĩ về mày.
Oanh nũng nịu:
- Thì tại mẹ chứ tại ai?
Sanh nói:
- Nhưng chủ nợ đòi thật, hay Thẩm nó nói dối để lấy tiền?
- Thật, hôm nọ nó đến thúc, em có được xem văn tự. Vừa rồi nó đến, nhất định sáng mai làm đơn kiện.
Sanh lãnh đạm:
- Lạ quá. Thế mà bà ấy với chú ấy không lo ngay từ hôm nọ, lại để nước đến chân mới nhảy?
Oanh chấm nước mắt:
- Anh có biết đâu? Đẻ em đằng nhà mấy hôm nay chạy không thiếu chổ nào, nhưng không được một xu nhỏ.
- Thế chú Đốc?
- Cũng vậy, rồi vì phải chửi phải mắng, nhà em ỳ ra, bảo rằng đành chịu ngồi tù vậy.
Bà Tuần và Sanh cảm động, thở dài.
Minh đi chợ về. Thấy cả nhà có chuyện buồn bã, nàng đứng cạnh để nghe chuyện.
Bà Tuần nhìn con gái, đay:
- Thế đến lúc này, nó còn hờ hững với mày nữa hay thôi!
Oanh lắc đầu, chán nản:
- Nhà con hối hận về sự chơi bời, mấy hôm nay chỉ khóc, và bảo với đẻ con rằng vì đã dại dột mà mắc nợ, tội đáng ngồi tù, nhà con không dám ân hận gì cả.
Minh cười đau đớn, hỏi:
- Thì ra chú ấy tuyệt vọng về tiền tài như thế à?
Oanh đáp:
- Chị tính còn đồng xu nào, vả vay được ở đâu mà không tuyệt vọng?
Minh thương hại, hỏi thử:
- Tôi tưởng ít ra chú ấy cũng phải có một vài trăm thì phải. Hay cô không biết đó?
- Hình như có. Nhưng nhà em bảo món ấy giúp một người mà không nỡ đòi.
Minh cảm động, hỏi:
- Tội gì lại không đòi? Giúp ai, cô có biết không?
- Không. Nhà em chỉ bảo rằng tiền ấy không thể mất được, mà dù có mất cũng vui lòng không tiếc, cho nên nhà em kể như không có món ấy.
Minh sợ lộ nét mặt cảm động quá, bèn đi vào bếp. Bà Tuần hỏi:
- Hay là nó giúp cho hội kín nào?
Sanh nhăn mặt, thở dài:
- Chơi bời, hư thân hư đời như nó, thì còn gì là tâm huyết mà hội kín với hội hở.
Bà Tuần hỏi Oanh:
- Thế nó định thế nào?
- Nhà con đành ngồi tù, mà ngồi tù thì...
Oanh ngắt lời, rồi ôm mặt khóc nức nở. Minh lẳng lặng, lại ra, hỏi:
- Cô Đốc! Cô không nên buồn chán quá. Chú ấy có tốt bụng đối với người ta, thì chắc chú ấy không gặp vận hạn đâu.
Oanh vắt mũi, tựa cằm vào đầu gối, đáp:
- Em chỉ biết rằng rồi em khổ. Nhà em chửa nói ra, nhưng đẻ em thì nhất định quy cả tội vào em. Đẻ em bảo nhà em ngồi tù thì cửa nhà tan nát.
Bà Tuần nghiến răng:
- A, con mẹ ấy nó dọa! Nó dọa nó bỏ mày phải không? Được! Cho nó bỏ!
Oanh nằn nì:
- Con xin mẹ chớ nóng. Nếu việc ấy mà đến thế, chỉ con là khổ nhất mà thôi.
- Việc gì mà khổ! Biết thế thì ngày trước tao cứ gả mày cho thằng Trường cho xong, thì bây giờ mày cũng được làm bà Huyện!
Oanh nhìn mẹ, thở dài. Một lát, nàng nói:
- Nhà con hối hận lắm rồi, chắc lần này, thì cạch đến già, chẳng dám chơi bời nữa.
Sanh gật đầu:
- Có lẽ, mà xong việc này có mới ở yên được với nhà ấy. Nhưng từ khi cưới cô, mẹ đã tốn kém bao nhiều rồi, bây giờ cô lại xin mẹ nữa hay sao?
Oanh yên lặng, không đáp. Minh nhìn chồng, căm giận cái thói ích kỷ nhỏ nhen về tiền tài, nàng bèn nói:
- Nhưng bỏ tiền ra để mua lấy sự hòa thuận của cô và chú Đốc, tôi tưởng không phải vô ích.
Sanh lườm vợ. Oanh nói:
- Bẩm mẹ, con xin mẹ lần này là lần cuối cùng. Đẻ con ghét bỏ con, nhà con hất hủi con, nhưng đến lúc thấy con mang lại được cái hạnh phúc gia đình mười mươi mất, thì quyết là phải hồi tâm nghĩ lại.
Bà Tuần bĩu môi:
- Quyết! Cô dám quyết như thế?
- Vâng, con quyết như thế.
Sanh nói gạt:
- Nhưng phận ai người ấy có rồi. Cô nói khó nghe lắm. Vả có muốn xin mẹ, thì chú ấy phải đến đây, lạy sứt trán chưa chắc mẹ đã cho nữa là. Bẩm mẹ định thế nào?
Bà Tuần đáp quả quyết:
- Chứ như tao, thì tao cho mà tan tành. Nó bỏ thì mày về.
Vẻ vui sướng hiện trên mặt Sanh, nhưng trái lại. Oanh khóc:
- Thì con tự tử!
Minh thương hại, thở dài, nói đỡ:
- Bẩm mẹ, mẹ nên thương cô Đốc.
Sanh lại lườm vợ và hỏi Oanh:
- Thế chú ấy nợ ai và bao nhiêu tiền?
- Nợ có bốn trăm, nhà Cự Phú trên Hàng Nón.
Sanh đưa mắt nhìn Minh, nói khẽ:
- Đấy! Bốn trăm thì thành ngót năm trăm.
Oanh nói:
- Vâng, bốn trăm bảy mươi hai đồng.
Sanh nói to:
- Thế là chết! Dây với lão Cự Phú thì phải biết với nó.
Minh thấy chồng xấu hung, nàng bực mình lắm, hèn nói:
- Bẩm mẹ...
Nhưng Sanh gắt:
- Thôi, mợ vào thổi cơm ăn xong, tôi còn phải đi đằng này.
Minh ngậm ngùi, đi lảng vào trong buồng để nghe cho rõ câu chuyện kết liễu ra làm ra sao. Nàng rất phục bụng Thẩm đối với nàng. Phục Thẩm bao nhiêu, nàng lại căm giận chồng bấy nhiêu...Nàng đoán trước rằng dù bà Tuần có muốn cho tiền Oanh để trả nợ cho Thẩm, nhưng chồng nàng chắc không bằng lòng, vả độ này bà rất túng, làm gì có một lúc đến ngót năm trăm đồng bạc để cho Oanh được.
Nhà Cự Phú, nàng cũng biết tiếng xưa nay là hay lật mặt. Thế thì Thẩm hẳn chả yên được với nó. Nó kiện Thẩm. Nó bỏ tù Thẩm. Nó làm cho gia đình Thẩm tan tành. Ấy thế mà món nợ ấy trả xong, Oanh sẽ được sung sướng. Nghĩ đến từng ấy điều, nàng thở dài, lắng tai nghe thấy Oanh khóc lóc, và chồng nàng cứ một mực khuyên can mẹ mặc kệ.
Nàng không đang tâm để cái cảnh bất bình ấy diễn ra mãi ở cạnh mình, nàng bèn vào bếp, và sai con Sen ra mời Oanh vào nàng hỏi.
Oanh lử thử, vừa đến, Minh hỏi ngay:
- Cô cứ về yên tâm, chú ấy không việc gì đâu. Cô không phải lo một tý nào nữa.
Oanh chán nản lắc đầu:
- Có mẹ, mẹ không bênh, có anh, anh mặc kệ, em còn hy vọng nỗi gì!
- Không việc gì mà hết hy vọng, vì cô còn chị dâu!
Oanh lắc đầu, như mỉa mai cái thế lực của cô chị dâu hợm. Song Oanh cũng ra ý nhã nhặn, đáp:
- Vâng, nếu chị có phép tiên!
Minh cười, nói:
- Hai giờ chiều nay chú và cô ở nhà, có người bạn đến chơi.
Oanh cũng chẳng buồn hỏi xem người ấy là ai, bèn gật đầu:
- Vâng, người ấy đến để gặp nhà em và em lần cuối cùng!
Thấy Oanh thổ lộ những lời tuyệt vọng, Minh nước mắt chảy quanh. Nàng giục:
- Cô về đi, cứ vui vẻ mà ăn cơm như thường. Không hơi đâu mà buồn, vô ích.
Rồi Oanh ra nhà ngoài. Minh nhìn theo, thở dài.
Cái kết quả của việc làm của Minh ngày hôm ấy thật là lạ lùng.
Vào lúc hơn hai giờ, trong khi bà Tuần thấy Minh đi vắng đâu đã lâu mà không xin phép bà, bà tức giận và bắt Sanh nạy hòm nàng để khám xem có tang vật gì về việc ngoại tình hay không, thì ở ngoài đường Thẩm và Oanh xuống xe, hớn hở chạy vào, cuống quýt hỏi dồn:
- Bẩm mẹ, chị Cả đâu! Chị Cả đâu! Con không ngờ!
Rồi Oanh móc túi lấy ra cái văn tự.
Bà Tuần thấy Oanh hỏi chị Cả càng giận, song bà ngạc nhiên. Oanh nói:
- Chị Cả cứu cả nhà con! Chị ấy làm cho chúng con sạch nợ.
Đoạn cảm động quá, Oanh ôm bà Tuần, nức nở khóc. Thẩm bẽn lẽn, hỏi Sanh:
- Chị đâu anh?
Oanh nói:
- Em không ngờ đâu nhà ta có phúc được chị Cả làm dâu!
Bà Tuần thấy Oanh cứ khen Minh hoài, bà hất Oanh ra, tức tối hỏi:
- Thế nào, đầu đuôi ra sao?
- Nhưng thưa mẹ, chị con đâu?
- Nào tao biết được!
Thẩm bẽn lẽn nói:
- Thưa mẹ, vì con trói dại dột chơi bời, ăn tiêu vung không biết tiếc của, nên một hôm chị Cả đến đằng con, nói khó với con rằng đóng giúp cho chị một bát họ. Con vẫn cảm cái bụng tốt của chị con, nên vui lòng nhận lời đóng mỗi tháng hai chục. Rồi đến ngày dốc ống, chị con đến nằn nì với con rằng trót tiêu hết cả tiền, và xin con hoãn vậy. Con rất ân hận, vì hôm ấy có hơi tỏ ý giận chị. Nhưng thấy chị con kể tình cảnh, con tưởng thật, con thương hại, đành chịu vậy, và cũng kể như không có món tiền bốn trăm ấy. Nào ngờ chị con làm cách để dành tiền cho con, mà đến hôm nay chị mới cho con hiểu.
Bà Tuần vẫn chưa hiểu, cau mặt, hỏi:
- Thế chị ấy làm rhế nào?
- Chị con lấy tiền của con đóng họ, đến nhà Cự Phú, trang trải món nợ cho con.
Bà Tuần nghe chừng đã hiểu. Bà gật đầu, Oanh nói
tiếp:
- Thế mà chị con không ra mặt trả nợ cho nhà con. Hai giờ hôm nay, con thấy có một đứa bé mang cái phong bì lại nhà con, trong có cái văn tự.
Sanh sung sướng. Bà Tuần nói:
- Nhưng lấy lẽ gì cô bảo là chị Cả trả nợ?
- Vì ban sáng chị con hẹn giờ ấy có người lại chơi, và bảo nhà con với con đợi ở nhà, và nhà con đóng được bốn trăm tám mươi đồng, thì trong phong bì có cái văn tự và tám mươi đồng bạc. Nhà con đoán là chỉ có chị Cả làm việc này chứ không ai.
Bà Tuần lặng người, nghĩ ngợi. Oanh hỏi:
- Thưa mẹ, chị con đi từ bao giờ?
- Từ lúc một giờ.
Rồi bà hỏi nhỏ Sanh:
- Trong hòm nó có gì không?
Sanh móc túi lấy tờ giấy con ra, đưa mẹ:
-Thưa mẹ, có cái này.
Oanh ngạc nhiên, rú lên:
- Cuống măng đa năm nghìn? Chị ấy gửi cho ai?
Bà Tuần nghi ngờ:
- Quái, tiền đâu thế nhỉ?
Thẩm đưa mắt nhìn vợ. Nhưng Oanh hiểu ý mẹ, chắp tay vái lấy vái để:
- Con lạy mẹ, mẹ đừng ngờ oan chị con. Nhà ta ăn ở kém. Phải biết phục người ta mới được.
Thẩm nhìn kỹ mảnh giấy, rồi cau mặt, nói:
- Số cuống măng đa này là số cái măng đa gửi cho hội đồng cứu tế vừa rồi. Hay cũng chị ấy gởi ở đây?
Cả nhà im lặng. Sanh hớn hở lắm. nhưng vẩn vơ đáp:
- Không có lẽ, nhà tôi làm gì có tiền?
Thẩm chợt nghĩ ra:
- Thôi phải rồi, báo đăng không biết ai được số một vạn, hay là chính chị chăng?
Giữa lúc hàng trăm câu hỏi đương vặn vẹo óc mọi người, thì Minh về, nét mặt vui vẻ. Oanh mừng rú chạy vội ra, vồ lấy chị dâu, nức nở khóc. Nàng khóc thậr to, to đến nói không nói được ra tiếng nữa, mà bà Tuần, Sanh và Thẩm thì nước mắt chạy quanh.
- Tiếc thay, trước thầy mẹ cứ khinh rẻ chữ tây, không cho em đi học!
Nhưng Minh càng nhũn nhặn và càng cố gắng ăn ở cho thật hoàn toàn.
Bà Tuần đã biết bụng Minh, nhưng động có ai nói chuyện nàng cư xử với Oanh ra người kẻ cả và khen nàng, thì bà cũng cố lắc đầu, và thở dài:
- Biết có thế được mãi không?
Oanh lấy điều đó làm bất mãn. Nhiều khi Oanh đã nói rõ những cách ăn ở bất công của bà cho bà nghe, nhưng bà mắng:
- Đừng trứng khôn hơn vịt. Mày đã làm mẹ chồng đâu mà mày biết!
Vì vậy, Oanh thường an ủi Minh, khi Oanh thấy người nhà đầy tớ kể lại những chuyện Minh phải mắng oan.
Sanh thật biết quý vợ. Chàng lấy làm kiêu ngạo được người vợ như Minh. Thỉnh thoảng chàng thấy mẹ tỏ ý nghi ngờ vợ có ngoại tình, thì chàng vẫn can, nhưng bà quắc mắt, mắng:
- Chúng mày độ này ăn phải bùa phải bả nó hay sao, mà tao thấy bênh nó chầm chập.
Rồi bà nói tiếp:
- Tao tức lắm. Mày không biết. Ờ, bụng dạ nó khá, đã đành, nhưng sao thỉnh thoảng tao cứ thấy nó trốn nhà này đi đâu mà không xin phép?
Sanh gạt đi:
- Đi đâu thì đi, chứ người ấy, bụng dạ ấy, con chẳng ngại gì cả.
- Chẳng ngại gì! Thế mà tao ngại đấy. Tao ngại nhất là nó với thằng Trí. Tao thấy mày cứ để cho nó tiếp chuyện thằng Trí, tao gớm lắm. Như vậy, lửa gần rơm, có ngày mất vợ, con ạ.
Sanh cười:
- Thưa mẹ, trước kia, con có nghi nhà con thật, song cũng là tại mẹ. Cho nên con để nhà con tiếp anh Trí, là con dịnh thử bụng nhà con đấy.
Bà Tuần vụt nghĩ ra một ý, nói:
- Được, phải rồi.
Rồi ghé tai Sanh, bà nói:
- Chốc nữa, cậu vờ đi vắng, Tôi tôi chui vào tủ áo này. Tôi sai cả thằng Xe, con Sen, con Vú, đứa thì đi về Hà Đông, đứa thì lên cô Phán làm giúp, rồi cậu xui Trí lại đây. Lúc ấy nhân chỉ có một mình mợ ấy có nhà, Trí thử giở lối trêu hoa ghẹo nguyệt xem mợ ấy làm ra làm sao!
Sanh nhăn mặt:
- Con tưởng chả nên làm thế. Lỡ ra nhà con nhẹ dạ thì...
Bà Tuần ngửa người ra, trỏ vào Sanh, vênh váo nói:
- Đấy. thì chính cậu cũng nghi chứ ai? Nó mà không phải lòng thằng Trí rồi thì mẹ cứ xin đi bằng đầu!
- Bẩm mẹ, ấy là con muốn nói người ta ít ai tránh khỏi lưới tình. Mà nhất là đàn bà.
- Cậu lại nói thế! Chỉ những hạng tây học lăng nhăng mới thế, chứ ai cũng thế à?
Sanh bực mình đáp:
- Mẹ nên hiểu rằng mỗi thời buổi một khác, bây giờ trai gái cũng có khi cần phải giao thiệp với nhau. Họ giao thiệp chỉ có bề ngoài, chứ ta không nên ngờ họ có tình.
Bà Tuần lắc đầu.
- Cứ như mẹ, một đứa con trai với một đứa con gái mà nói chuyên với nhau, thì không khỏi được tình tứ.
Sanh cười:
- Mẹ cổ quá! Thế mẹ không thấy hàng ngày ở các hiệu bán buôn, ở ngoài phố, ở các chỗ hội hè, trai gái họ gần gũi, chung đụng với nhau là gì!
- Mặc kệ họ, tôi chỉ xem xét tính nết vợ cậu thôi, chốc nữa nếu cậu không muốn tôi nghi vợ cậu, cậu cứ nghe tôi làm như thế. Bà mà bắt quả tang, thì bà xé tan xé nát nó ra!
Sanh thở dài, phải nghe lời mẹ, và rất lo cho vợ.
Ăn cơm xong, Sanh thi hành đúng như lời mẹ dặn. Chàng cho kê cái tủ áo cũ gỗ tạp ở nhà trong ra chỗ tiếp khách, vì cái tủ gụ hẹp quá, bà Tuần đứng không vừa. Bà lại bắt tháo tấm ván ngăn tủ ra, để chỗ đứng được rộng. Rồi bao nhiêu người nhà, đầy tớ đi vắng hết cả. Sanh đi tìm Trí.
Lúc ấy trong nhà vắng vẻ. Minh ngồi một mình tay cầm tờ "Tuổi trẻ'’, nàng vơ vẩn nghĩ đến gia đình Thẩm. Nàng vui sướng vì được thấy mọi người hoà hợp. Rồi liên miên, nàng nghĩ đến Nhã. Nàng không hiểu sao trước kia nàng yêu Nhã quá thế, đến nỗi suýt nữa nàng làm tan tành gia đình chồng nàng. Nàng cố nhắc lại những cảm tình của nàng trước kia đối với Nhã, nhưng đã lâu không nghĩ đến Nhã, nên những cảm tình ấy hầu như đã lạt. Nàng đọc văn của Nhã, mà không thấy đậm đà nữa. Nàng nhớ lại một lần, Xuân nói là giận Nhã nhưng nàng hỏi thì Xuân không giảng cho nàng biết vì lẽ gì. Hay là Nhã không tốt đối với Xuân. Hay là Nhã định lừa nàng chăng? Nhã ít lâu nay thành ra chơi bời. Thế thì quyết là Nhã quên nàng rồi. Hay vì Nhã quên nàng, mà Xuân giận? Chẳng có lẽ, Nhã định đi chùa Hương. Nhã làm bài chế giễu Ông Giáo Oanh, Nhã ngã bị thương giữa phố. Nhã đem ô tô đến đón nàng khi nàng định đoạn tuyệt với gia đình cũ, Từng ấy cách cử chỉ, là do bụng Nhã thế nào? Nàng lấy Sanh, quyết là Nhã buồn. Nhã buồn vì Nhã yêu nàng. Đã yêu thì phải ghen, thì sự Nhã ghét Sanh, tất là phải có. Bài Ông Giáo Oanh quả là Nhã ám chỉ chồng nàng. Nhã vẫn khuyên nàng nên lìa bỏ gia đình Sanh, viết báo để khêu gợi lòng phẫn uất của nàng. Thế thì Nhã vẫn muốn cho nàng bỏ Sanh. Vậy Nhã vẫn mong lấy nàng, và mong nàng nhớ Nhã luôn luôn, cái chứng cớ có phải ở những câu lâm ly thống thiết trong bức thư Nhã viết cho Xuân không? Nhã đã đem ô tô đón nàng, mà khi nàng không đi, thì Nhã tức mà nói xấu Sanh trong bài Ông Giáo Oanh chăng? Nhã bị nạn xe, thật hay dối? Không có lẽ là việc dối dá. Nhưng hẳn vì Nhã tức nàng lãnh đạm. Thế là Nhã tuyệt vọng, mà đâm ra chơi bời.
Minh đắn do, tự hỏi, tự trả lời, rồi lại hối hận rằng đã phụ lòng Nhã mà nghĩ cho Nhã những điều xấu. Người ấy có phải xấu đâu. Chẳng qua hay là bây giờ nàng không muốn yêu Nhã nữa nên suy xét như vậy.
Hôm nay trời râm mát, chậu hồng, hoa đỏ thắm như điểm vào cảnh cho mắt nàng được vui hơn. Nàng định ra đóng cửa nhà ngoài để đi nằm một lúc buổi trưa cho đỡ mỏi, thì Trí vào.
Trí ăn mặc rất lịch sự, nàng tươi tỉnh, chào, rồi nói:
- Thật chẳng may cho anh, nhà tôi về Hà Đông.
Trí đứng dừng lại, rồi tiến vào, và ngồi trên ghế. Minh thật thà, nên tự nhiên như mọi ngày, nàng rót nước mời Trí. Trí hỏi:
- Anh ấy về Hà Đông bao giờ ra?
- Có lẽ chiều tối.
Trí móc túi lấy cái ví ra,bóc tập giấy bạc thật dày để lấy một tờ, nói:
- Thằng Xe đâu? Nhờ chị bảo nó mua cho tôi cái này.
- Nó đi vắng anh ạ.
- Chị sai con Sen, con Vú cũng được.
- Chúng nó đi vắng cả.
Trí làm bộ ngạc nhiên hỏi:
- Bà đâu?
- Mẹ tôi đi đánh tổ tôm.
Trí sửng sốt:
- Thế cả nhà đi vắng à!
Minh mỉm cười, gật đầu:
- Phải, chỉ có một mình tôi coi nhà.
Trí vờ nhìn ra sân:
- Tha hồ tự do nhỉ.
Minh gật:
- Phải, hoàn toàn tự do. Ở đời những lúc này mới khó kiếm.
Nói đoạn, nàng cười khanh khách. Bỗng ở mé tủ áo, có tiếng đánh kịch một cái. Hẳn bà Tuần tức bực mà cựa.
Trí nhìn Minh bằng hai con mắt lẳng lơ:
- Chị ở nhà một mình thì buồn lắm nhỉ.
- Phải, buồn lắm. Chả có ai nói chuyện cả.
- Tôi ngồi đây có tiện không, hở chị?
- Tiện lắm, có hề chi. Anh cứ nói chuyện đi.
Trí cười, vui sướng, đứng dậy ra khép cửa ngoài lại, và nói:
- Lỡ có ai trông thấy thì chết!
Đoạn, Trí nhìn Minh rất tình tứ. Minh vô tình, không để ý đến cử chỉ của bạn. Bỗng Trí ngồi xích lại gần Minh, bả lã, nói:
- Chi ạ, nhân hôm nay cả nhà đi vắng, tôi mới có thể ngõ với chị một đôi lời, chị nghe nhé.
Vẫn vui vẻ. Minh đáp:
- Vâng, xin vui lòng.
- Chị ạ, tôi không yêu nhà tôi,
Minh đùa:
- Thì cứ cố mà làm ra đáng yêu.
- Bụng không yêu, thì làm ra đáng yêu thế nào được?
- Cứ làm ra đáng yêu, tự khắc anh thấy bụng yêu.
Trí buồn bã đáp:
- Không thể. Vì tôi trót yêu vụng nhớ thầm một người khác.
Minh nhìn Trí, thở dài. Ở tủ. lại có tiếng kịch. Trí nói:
- Mà người khác ấy, không biết có yêu tôi hay không? Minh cười:
- Anh yêu người ta, chắc rằng người ta phải yêu anh chứ?
chứ?
Trí vui vẻ, cười cợt:
- Nếu được thế thì còn gì bằng. Tôi chưa dám chắc, vì người ấy đã có chồng.
Minh yên lặng, Trí lại nói:
- Nhưng anh chồng thì xấu xí lắm kia.
Minh hỏi:
- Anh muốn một người có chồng yêu anh? Vậy anh yêu người ta về nỗi gì?
- Người ta đẹp. Người ta có học. Người ta mười phần hơn vợ tôi cả mười.
Tò mò, Minh lại hỏi:
- Người ấy bao nhiêu tuổi?
- Trạc tuổi chị.
- Thế chồng người ấy anh có quen không?
- Là bạn thân của tôi. Nhưng cần gì!
Nói xong, Trí lại xê ghế gần Minh. Minh đứng dậy, nói:
- Mời anh xơi nước.
Trí đứng theo, lại gần Minh, và nồng nàn nhìn Minh:
- Chị ơi, chị cho tôi nói thực. Tôi yêu chị.
Biến sắc mặt, Minh quắc mắt, mắng:
- Đổ vô lễ!
Rồi nàng quả quyết, trỏ tay ra cửa.
- Đồ vô lễ, ra ngay! Vô liêm sỉ!
Trí nằn nì:
- Chị ơi! Xin chị thương tôi, tôi yêu vụng nhớ thầm chị từ lâu, chị đã làm cho tôi mê mệt...
- Câm ngay! Anh này vô đạo thật, anh dám hỗn với vợ bạn!
Trí tiến lại gần, toan ôm lấy Minh:
- Chị ơi! Ta nên tự do mà thố lộ can trường.
Minh tránh, trợn mắt, cầm cả cái đĩa chén toan quật vào Trí, nhưng lại thôi.
Trí vẫn kiên tám, nói:
- Chị cứ ác mà cự tuyệt tôi hay sao! Chị không cứu tôi, cứu một người đã đem hiến cả tâm hồn để thờ phụng ái tình chị hay sao?
- Này, tôi bảo. anh còn nói nhảm nữa, tôi quyết không tha đó!
- Chị ơi, chị lấy anh Sanh thật phí cả cành mai cho cú đậu.
Minh tức giận đập chân xuống đất:
- À, ra tôi không ngờ anh súc vật đến thế. Chồng tôi không ra gì cũng là chồng tôi. Anh đẹp, anh giàu, tôi thây xác anh. Anh đừng tưởng ai anh cũng có thể lấy lời ngon ngọt cám dỗ được Tôi quen tự do, nhưng cái tự do của tôi là tự do có giáo dục.
- Chị ở đây khổ mà chị không biết hay sao? Chị làm phí cái tuổi xuân của chị là tuổi được hưởng bao sự sung sướng. Chồng chị ghét chị. Em chồng chị bắt nạt chị. Mẹ chồng chị ác nghiệt với chị.
Minh trợn mắt, nghiến răng:
- Anh không được nói động đến chồng, em chồng, mẹ chồng tôi. Tôi ăn ở hoà hợp với chồng, với em chồng, không việc gì đến anh.
Ngắt lời, Trí cười lạt:
- Nhưng mẹ chồng ấy thì chị chịu sao nổi!
Minh căm hờn, rơm rớm nước mắt:
- Chịu được hay không, anh không có phép biết. Tôi hẹn cho anh một phút, anh phải ra khỏi nhà này. Rồi tôi sẽ mách chồng tôi cho anh một bài học. Mẹ chồng tôi là mẹ tôi, hể anh nói động đến, tôi không để anh yên nữa. Mẹ tôi là một người hiền hậu nhân từ, mẹ tôi là người đã rèn cặp cho tôi nên người.Suốt đời tôi, tôi tìm những dịp để báo hiếu còn chà đủ, nữa là anh lại xui tôi oán mẹ chồng tôi. Anh định phá tan gia đình tôi! Anh định làm hại gia đạo tôi!
Nàng nói đoạn, thì Trí ôm choàng lấy nàng. Nhưng nhanh như cắt, nàng hung hăng, cầm cái ghế mây quật vào đầu Trí một cái. Trí sợ hãi chạy biến ra cửa mất.
Giữa lúc ấy thì cửa tủ áo mở toang ra, huỵch một cái, bà Tuần ngã đồng kềnh: cái ván dưới sàn gãy sụn. Bà lóp ngóp dậy, lach hạch chạy đến Minh, xua tay, run run nói:
- Thôi, thôi, được rồi! Được rồi! Mẹ lầm, con ơi! Mẹ sướng quá!
Rồi ba ôm lấy nàng đâu, cười khanh khách. Minh vừa cảm động, vừa căm giận vì bà, nhưng khi trông thấy cái nụ cười thành thực cùa bà loé trên môi xám xịt, và giọt nước mắt nó thấm trên ngực áo bà lấm những đất, nàng trống ngực thình thình, nở nang từng khúc ruột.
Bà thấy Minh thản nhiên như không, và lại săn sóc đến bà quá, nên bà càng ân hận. Suốt đêm, bà nghĩ ngợi, thở dài luôn. Rồi đến gần sáng, trong khi bà đang nằm yên. Minh rón rén đến gần. Bà vờ ngủ, nhưng lim dim con mắt để xem con dâu làm gì, thì ra Minh ghé tai nghe, chắc rằng xem bà ngủ có ngon giấc hay không, rồi lại sẽ sàng ra đi. Vì vậy, bà rất cảm động, không thể nằm yên mãi, bà ngồi nhỏm dậy gọi:
- Mợ Cả!
Minh dịu dàng đáp. bà Tuần mỉm cười nói:
- Mợ Cả, mẹ trách mợ một điều...
Nói đến đó, bà im, để xem nét mặt con dâu, nhưng Minh vẫn vui tươi, nói:
- Thưa mẹ, con có điều gì, xin mẹ cứ bảo.
Bà Tuần sung sướng:
- Mẹ trách mợ một điều, là mợ đã làm mẹ phải ốm vì ân hận.
Minh dào dạt cả người, đứng lặng, rơm rớm nước mắt. Bà Tuần nói:
- Con chớ giận mẹ nhé. Từ nay mẹ thề có Trời Phật là mẹ ăn ở lại cho con vui lòng.
Minh ngăn:
- Chết! Sao mẹ lại nói thế!
Bà Tuần nhảy xuống đất, chẳng xỏ chân vào giầy chi cả, nắm chặt lấy tay Minh:
- Mẹ được con, mẹ vui sướng không kể xiết. Trước kia, mẹ lầm quá! Con đừng giận mẹ nhé.
Thấy nét mặt thật thà của mẹ chồng, Minh rất động tâm, bèn đáp:
- Bẩm mẹ, con đâu dám thế.
- Không, mẹ hôm nay trở đi, không như mẹ hôm qua và từ trước đâu. Mẹ biết mợ quá rồi, song mẹ rất bực mình, vì mẹ biết mợ sau cả họ hàng!
Minh chùi nước mắt.
Rồi cả hai mẹ con âu yếm, chuyện trò cho đến tận sáng. Nàng thấy trong gia cảnh có vẻ hoà hợp, nên nàng như được tự do, ăn nói không cần phải giữ kẽ như trước. Bà Tuần mở tủ lấy ra những văn tự ruộng đất nhà cửa và chùm chìa khoá để giao cho Mình giữ, vì bà bảo cho Minh được toàn quyền trông nom coi sóc gia đình.
Về phần Minh, nàng càng lấy việc đó làm lo lắng, vì nàng thấy cái bổn phận của nàng rất to, dường như nàng là chủ cái hạnh phúc của nhà chồng vậy. Nhưng nàng không hề ngại ngùng về cái trọng trách ấy, từ trước đến nay, nàng chẳng vẫn cố gây hạnh phúc cho gia đình Sanh hay sao.
Rồi đến độ mười giờ sáng, Sanh tiếp được một bức thư từ Hải Phòng đề tên bà Tuần.
Trong khi thấy chồng đang ngơ ngác ngắm nghía cái phong bì, Minh hiểu ngay là một tin làm vinh dự cho mẹ chồng, và là một việc làm rõ rệt bụng dạ quân tử của nàng ra.
Cái thư ấy là của ban tổ chức Dạ Lữ Viện mời bà Tuần xuống Cảng khánh thành Viện và cảm ơn bà vừa mới cũng món tiền năm nghìn.
Cố nhiên là bà Tuần và Sanh phải ngạc nhiên. Hai mẹ con đoán mãi không rõ ban tổ chức lầm tên, hay là người ta nhạo bà vì bà đã chẳng cúng một đồng xu nhỏ. Hai người bàn bạc với nhau mãi, toan không dám đi, nhưng Minh nói:
- Mẹ cứ đi, đó không phải là lầm hay nhạo chi cả.
Sanh nhìn vợ, và bà Tuần cũng nhìn con dâu.
Mình thổn thức. Nàng cho rằng từ nay trở đi, đối với nhà chồng, nàng không nên làm những sự cao thượng bất ngờ như thế, nên vội vàng thưa:
- Bẩm mẹ, vì con thấy công cuộc làm Dạ Lữ Viện rất chính đáng, nên con trót giấu mẹ cúng món tiền đó.
Bà Tuần và Sanh cùng trố mắt nhìn Minh, nét mặt vừa ngạc nhiên, vừa kính phục, vừa cảm động. Một lát, bà nói:
- Thế mà mợ lấy tên mẹ.
Minh tươi cười đáp:
- Vâng, bởi vì tuy là tiền con, nhưng trên còn mẹ.
Bà Tuần lặng người, lấy vạt áo chấm mắt, rồi nhìn Sanh thở dài, hỏi:
- Ra mợ có riêng một vạn bạc để làm hai việc nghĩa?
Chàng có ý tiếc, nhưng bà Tuần kinh ngạc, cứ há hốc mồm ra để nghĩ rồi hỏi:
- Một vạn bạc để làm hai việc nghĩa? Trời ơi!
Mỉm cười, Minh gật đầu:
- Bởi vì một vạn ấy, con không phải đổ mồ hôi nước mắt mới kiếm được.
Sanh thở dài, buồn bã, hỏi:
- Mợ được số à?
Bà Tuần nhìn Sanh, lại nhìn Minh, cũng hỏi:
- Thế nào? Mẹ chưa hiểu.
Minh đáp:
- Bẩm mẹ, con được số đấy ạ.
Nói đoạn, nàng sung sướng cười khanh khách.
Bà Tuần gật gù:
- À, mẹ hiểu rồi, thế ra mợ được số. Năm nghìn ấy với năm nghìn này...
Nhưng bà vẫn ngơ ngát, đoạn một lát, bỗng bà cười rất to, như điên cuồng:
- Mẹ hiểu thật rồi!
Rồi rối rít, bà hỏi:
- Thế Dạ Lữ Viện mời mẹ, mẹ xuống là phải đấy nhỉ?
- Vâng.
Nhưng tự nhiên, bà lại ngơ ngác hơn, hỏi:
- Con được số thật hay bỡn?
- Thật ạ.
-Thế thì con kín đáo quá.
Minh cười đáp:
- Bẩm mẹ, nào có phải con dám giấu mẹ cái tin con được số đâu, nhưng thật thì con cũng không biết. Để chốc nữa, con bẩm mẹ nghe.
Bà Tuần nóng ruột, giục:
- Không, mợ nói ngay cho mẹ biết kia!
Vừa lúc ấy, Oanh về chơi nhà. Bà Tuần mừng rỡ, kể chuyện cho Oanh nghe, rồi mắng Oanh:
- Trước tao không bằng lòng, vì mày hay hỗn với chị Cả.
Oanh ngượng, nhưng Minh gạt ngay đi. Oanh hỏi:
- Thế chị nói đi, chị được số thế nào?
Minh nhìn bà Tuần, thân mật nói:
- Thưa mẹ. con không nhớ từ ngày nào, chị Xuân con có vay của con một đồng bạc. Độ nọ, chị ấy thấy con túng quá, mới nhắc con và trả con món tiền mà chính cả con lẫn chị ấy cùng quên bẵng đi. Con không nhận là chị ấy nợ con, mà chị ấy thì cứ quyết rằng vì lâu ngày nên con lãng mất. Con nhất định không cầm tiền, chị ấy bèn bảo; "Thế thì tôi cứ mua cho chị một phiếu xổ số". Con tưởng chị ấy nói vậy rồi bỏ qua đi. Ai ngờ chị ấy mua thật, và đến hôm mở số chị ấy hớn hở, vui mừng lại tìm con, bảo con trúng một vạn.
Bà Tuần ngửa mặt lên nhìn con dâu để nghe chuyện. Bà run lên, hỏi:
- Thế ai giữ lá phiếu này?
- Chị Xuân ạ.
- Ồ! Thế giá phải người khác, thì cứ bỉm đi, ai biết đâu nhỉ?
- Bẩm chúng con chơi với nhau, cốt thật thà làm đầu.
Bà Tuần há miệng to, gật gù, khen nức nở:
- À, ra các cô tốt bụng thật! Quý hóa quá!
- Vâng, mà những tiền phí tổn gửi măng-đa, cũng do chị Xuân bỏ ra cho con, chị nói cũng như món tiền thêm vào làm cho việc nghĩa.
Bà Tuần lặng yên một lát, rồi bùi ngùi, thở dài với Oanh:
- Người thế mà ế chồng, hoài nhỉ.
Minh mỉm cười. Oanh đáp:
- Không phải ế, chắc người ta nghĩ thế nào mãi chưa muốn lấy chồng, chứ người đẹp mà giàu thế, thiếu gì người hỏi.
Bỗng bà Tuần nghĩ được một ý hay, bà "à" một tiếng rồi nói với Minh:
- Mợ ạ, mẹ nói phải thì mợ nghe, mà nói trái thì mợ đừng nhớ nữa nhé. Hôm nào rỗi, con gạn lời hỏi thử xem cô Xuân có muốn làm lẽ con không...
Nói đoạn, bà đắc chí, cười như nắc nẻ, làm cho Sanh bẽn lẽn, thẹn đỏ mặt.
Oanh cau mặt, xua tay:
- Chết sao mẹ gàn thế, sao mẹ nghĩ quẩn thế. Không, chị chớ nói đến tai người ta, rồi người ta cười cho đấy.
Minh chưa trả lời thì bà Tuần nói:
- Mẹ yêu những người tử tế lắm, nên muốn ghem ghép cho người ta.
Minh đáp:
- Nhưng thưa mẹ, chị ấy gàn dở hơn con ấy ạ.
- Mợ thì gàn dở gì. Nhà có phúc mới lấy được mợ. Bây giờ mẹ yêu những người phái mới lắm.
Rồi bà nói đùa:
- Mợ coi, nay mơi mẹ cũng tân thời cho mà xem. Thôi, à mà mẹ không bắt ai kiêng tên nữa. Kiêng tên chỉ tổ cho người ta biết, chứ ích gì.
Đoạn bà đứng phát dậy giơ tay ra. Minh chẳng hiểu bà định làm gì. Bà bèn với lấy tay Minh, rung ba bốn lượt. Cả nhà cười ồ.
Minh cảm động vì thấy mẹ chồng phởn phơ quá. Nàng càng ngậm ngùi nhớ lại những việc xưa.
Bàn tán một lát về sự kiêng tên, rồi bà Tuần hỏi Minh:
- Mẹ muốn nhân tiện cuộc đi Hải Phòng mà về nhà quê hôm nay, để mơi, à quên mai, ra dự cuộc khánh thành, mợ tính có nên không?
Minh đáp:
- Bẩm cái đó tuỳ mẹ.
Oanh nói:
- Mẹ cho cả nhà về hầu mẹ, mẹ ạ.
Bà Tuần dài mồm nói:
- Vâng.
Sanh tán:
- Mẹ nên thuê chiếc ô tô mà đi cho sang trọng, chẳng lẽ mẹ đã cúng đến năm nghìn, lại đi xe kéo ra Dạ Lữ Viện, không coi được, mẹ ạ.
Bà Tuần lại dài mồm, đáp:
- Vâng.
Đoạn, Sanh khoái chí mặc áo, đi thuê xe. Minh đắn đo một lúc, rồi nói:
- Con xin phép mẹ cho con ở nhà, vì hôm nay con trót hẹn với chị Xuân một việc.
Bà Tuần cau mặt:
- Nhưng con không đi với mẹ thì mẹ không vui.
Oanh nói lời:
- Thật đấy. Mẹ thì cổ. Anh Cà thì ngớ ngẩn, Em thì bỡ ngỡ, rồi biết khi đến Dạ Lữ Viện, mẹ phải làm thế nào?
Minh đáp:
- Thế thì mai chị đi xe lửa thứ nhất xuống Cảng. Mãi bốn giờ chiều mới khánh thành kia mà!
Bà Tuần hỏi:
- Mợ cần ở lại thật à?
- Vâng.
Bà Tuần hoa tay:
- Thôi được, mợ muốn làm gì thì làm, mợ định thế nào mẹ cũng nghe theo.
Minh nhắc Oanh:
- Kìa, cô hãy về bên nhà, xin phép trước đã chứ!
Bà Tuần nhìn Oanh, nghiêm trang, mắng:
- Đấy, con bé!... Thật mẹ thấy mẹ con, vợ chồng, chị em, ăn ở với nhau như thế này, mẹ chắc mẹ còn được sống lâu.
Oanh về, bà Tuần và Minh sắm sửa hành lý.
Rồi trong khi Minh vào bếp giục người nhà làm cơm mau. bà Tuần lại gọi nàng lên, Bà trỏ vào mặt bà, và híp mắt cười, bảo:
- Đến chỗ rặt những người mới, mà mẹ cổ quá, không coi được. Mợ biếu mẹ tí phấn, thử xoa cho mẹ xem ra sao nào!
Minhbật cười, nhưng nàng rất sung sướng, vì không ngờ mẹ chồng nàng cũng chịu ảnh hưởng nàng mà chuộng mới đến thế. Bà muốn mới bề ngoài, thì rồi sau bà cũng mới cả bề trong. Năm nghìn bạc tình cờ nàng có, để làm vinh dự cho bà, chẳng qua chỉ giúp thêm cho mẹ chồng nàng phục nàng mà thôi, chứ trí nhẫn nại, lòng thành thực của nàng mới thật đã cho nàng cái phần thưởng rất quý.
Độ nửa giờ, Sanh đưa ô tô về nhà, rồi Oanh cũng vừa đến.
Ăn cơm xong, bà Tuần soi gương, đánh lại tí phấn, và tới tấp giục các con đi. Minh vui vẻ, ra cửa đứng để tiễn.
Chiếc xe mở máy chạy, Minh nhìn theo. Bà Tuần chỉnh chiện ngồi giữa, dòm qua mặt kính sau, gật gù với nàng dâu:
- Mai xuống xe lửa thứ nhất nhé.
Minh đáp to:
- Vâng.
Chiếc xe chạy xa dần. Nhưng sau lần mặt kính, Minh vẫn thấy mặt mẹ chồng, đầu thì gật lia lịa, miệng thì lắp bắp. Nàng hiểu rằng những câu bà dặn chắc không quan trọng gì, nên nàng cũng đáp:
- Vâng! Vâng!
Trong toa hôm ấy vắng khách, mà toàn đàn ông nên nàng không tiện làm quen để trò chuyện cho đỡ buồn.
Đoàn xe qua sông Nhị Hà, thì đã gần sáng rõ. Luồng gió nhẹ nhàng, mát mẻ làm cho nàng khoan khoái dể chịu. Trên phía chân trời đỏ ối một dải, mảnh trăng lưỡi liềm bạc phếch còn Iơ lửng sắp nhạt vào ánh sáng trắng của ban ngày. Rồi vầng thái dương chói lọi nhô lên mỗi lúc một cao, rải trên tấm thảm xanh rờn một màu vàng dịu. Mấy con cò trắng lượn từ đằng xa lại, là xuống ruộng bùn. Chỉ những chiếc diều sáo nâu, thả dong từ đêm qua, là còn đứng im một chỗ.
Minh nhìn qua cửa sổ, ngắm phong cảnh rộng rãi của tạo hoá, thấy lúa má tươi tốt, nàng vui vẻ trong lòng. Nhưng rồi nửa giờ, lại một giờ, phong cảnh trước mắt không thay đổi mấy, vẫn ruộng, vẫn làng, tự nhiên nàng thấy chán. Nàng vẩn vơ so sánh một đời người, nếu cứ phẳng lì từ bé đến già, thì bình tĩnh thật, song có lẽ không đáng cho người ta để ý đến. Phong cảnh phải có núi cao sông rộng, phải có cái gì đặc biệt, thì người ta ngắm mới thấy vui. Thì ở đời, ai có trải qua nhiều cảnh mới cho sự sống là không tẻ. Vả có khổ thì càng được rõ lúc không khổ là sướng, chứ nếu không gặp khổ, thì còn biết sướng là cái gì. Nay nàng được nhà chồng chiều chuộng, yêu quý, nàng thấy vui vẻ, vì trước kia nàng đã phải đau đớn ê chề. Nếu ngay từ khi làm dâu tới nay, nàng vẫn cứ được bình yên, thì làm gì họ hàng thương nàng, lại khen nàng, lại nói đến tai nàng rằng nàng đã khéo gây nên hạnh phúc.
Xe lửa đỗ ở Hải Dương, nàng đứng dậy nghiêng mình trông xuống sân ga. Nàng mải nhìn một người thiếu phụ, đương bả lả nói với một người trên toa. Thấy điệu bộ người đàn bà quá tự do, nàng muốn đoán xem là hạng nào.
Bỗng một tiếng còi huýt, xe từ từ chạy thì ở toa ấy một người đàn ông ngó đầu ra, nhìn trở lại người đàn bà đương lấy khăn mùi xoa để vẫy. Nàng hơi ngợ, rồi tự nhiên nàng rủn cả người. Người đó, nàng đã nom rõ, chính là Nhã vậy.
Minh ngồi xuống, tái mét mặt. Nàng liếc mắt thấy cửa toa nàng ngồi mở toang. Nàng toan chạy đến khép lại, nhưng sợ Nhã nom thấy. Nàng không muốn giáp mặt Nhã.
Vừa rồi Nhã nói chuyện với ai? Nàng tự hỏi và sực nghĩ đến lời Xuân, nàng đoán ngay ra tất đó là một người yêu của Nhã.
Minh vội trùm vạt cả trước của chiếc áo mỏng qua đầu, rồì tựa lưng vào ghế, trầm ngâm.
Bỗng ở phía cửa toa có cái bóng đen đen của người âu phục; nàng rào rạt, đâm ra lo sợ. Rồi nàng thấy rõ ràng Nhã đã tới cạnh nàng. Nàng càng nghiêm trang, vờ như không biết.
Ý chừng Nhã thấy trong toa có người đàn bà ngồi mội mình lại che mặt, nên càng tò mò, bèn đến gần và cố dòm vào mặt. Nhưng Minh kéo ngay vạt áo, đứng phắt dậy, cúi chào. Nhã giật mình, biến sắc mặt, ấp úng mấy tiếng chào lại. Nhã khác trước nhiều lắm. Chàng không ăn mặc xuềnh xoàng nữa. Tóc chàng chải rất mượt, mà hình như chàng hơi đánh phấn. Sau lượt phấn, nàng nhận thấy rõ một làn da xanh lợt.
vẫn rắn rỗi như xưa và tự nhiên như không, Nhã ngồi trước mặt Minh, tươi cười hỏi:
- Cô vẫn mạnh chứ?
Minh thành thực đáp:
- Cảm ơn anh, em vẫn bình thường.
- Cô đi Hải Phòng hay đi đâu?
- Vâng, em về quê nhà em.
Nhã mỉm cười đau đớn, chàng nhìn ra ngoài, hỏi vẩn vơ:
- Cái quả núi cao kia tên là gì nhỉ?
- Đó là núi Yên Phụ
Nhã gật gù:
- Đẹp nhỉ, những rặng núi đá lô nhô kia mới thần tình làm sao!
Không hiểu Nhã định nói ý gì, Minh hỏi:
- Anh cũng ở Hà Nội đi Hải Phòng đấy chứ?
- Không, tôi vừa ở Hải Dương lên.
- Anh vẫn bình thường như trước?
Nhã thở dài, không đáp. Một lát chàng cười sâu sắc, hỏi:
- Bao giờ tôi được tin mừng cô sinh cháu đây?
Minh thẹn thùng, vì nàng có mang thật. Nàng cho là Nhã hỏi đay nên không đáp. Nhã cười:
- Chóng thật, mới ngày nào, thế mà bây giờ cô đã sắp tay bồng tay mang. Vậy mà tôi cứ quen gọi cô như ngày cô chưa cưới. Xin lỗi cô nhé.
Minh mỉm cười, hơi buồn, nhưng nàng lại thản nhiên ngay. Nhã hỏi:
- Lâu nay tôi không hay đến Xuân, nên không được tin tức gì về cô. Chẳng hay cô có lại đó luôn không?
Biết rằng Nhã muốn nhắc lại cảnh bó buộc của người đàn bà có chồng cho nàng đau đớn, vì hẳn Nhã không rõ rằng hiện nay nàng được hoàn toàn tự do. Nàng vờ lắc đầu, buồn bả đáp:
- Tôi cũng vậy, không hay lại đằng chị Xuân.
Nhã thở dài:
- Tôi không ngờ từ hôm cụ mất trở đi, tôi không còn dịp nào được gặp cô nữa.
Minh cười lạt, quay nhìn ra cửa. Nàng cảm động lắm. Nhưng nàng cầm ngay được lòng, mà nghĩ ngay đến Nhã là cái trở lực suýt làm cho tan nát đời nàng, thì nàng thấy lòng nàng sắt đá hẳn lại. Nhã nói:
- Phải, vả có gặp cũng không ích gì. Gặp cô, mà tôi không tiện ngỏ những ý kiến về gia đình cùng cô, nên tôi không muốn gặp.
Minh nhìn kỹ Nhã, để dò ý tứ. Nhã hỏi:
- Những ý kiến tôi bày tỏ trong báo, về hai cái mới cũ, cô thấy thế nào?
Minh luống cuống, vì nàng có đọc tờ Tuổi trẻ nữa đâu. Nhưng muốn lấy lòng Nhã, nàng đáp:
- Rất chính đáng.
Nhã sung sướng, nói:
- Phải, bọn mới thì hợp tác sao được với bọn cũ.
Thấy Minh im, không đáp, Nhã tiếp:
- Bởi vậy chỉ nên phá hoại cáí gia đình cũ là xong. Dầu mình có nhẫn nại đến đâu cũng không thế cảm được những cái óc hủ bại, gàn dở. Thành ra sự hy sinh hạnh phúc của mình vô ích quá. Mình khổ, mà ta có được hưởng tí sung sướng nào đâu?
Mặc kệ cho Nhã nói, Minh chỉ đáp:
- Vâng.
Nhã lại nói:
- Làm được cho bọn cũ chịu ảnh hưởng của mình là một sự rất khó. Ở đời ta nên chọn cái dễ mà làm, chứ tội gì. Chẳng bằng mình sống cho mình, mình gây riêng hạnh phúc cho mình, mình nên xa lìa cái cũ ra, thế là yên. Chỉ vì có những tư tưởng ấy, nên tôi rất thích được sống tự do, rộng rãi.
- Thế anh chưa lập gia đình?
Nhã buồn rầu, đáp:
- Kiếm được người vợ hợp với ý mình, thật là khó. Tôi vì trước có một mối thất vọng to, nên bây giờ tôi vẫn lông ngông.
Nói đoạn Nhã nhìn Minh. Minh hiểu ý, thở dài khẽ, rồi rất ngượng nghịu. Nhã hỏi:
- Bây giờ đối với bên nhà, cô định xử trí thế nào?
Minh cười:
- Em cũng chẳng định xử trí thế nào cả. Thôi thì em cứ nhắm mắt đưa chân.
Nhã mỉm cười:
- Phải, thử xem con tạo xoay vần đến đâu, có phải không? Cô là con Tạo của cô, nếu cô chịu ép một bề, thì cô sẽ thấy cái kết quả.
Minh thở dài, tự nhiên thương hại Nhã. Nàng thương hại là chàng sẽ đau đớn mà thấy chàng lầm to. Nàng nói:
- Nhưng ít lâu nay, em chịu khổ đã thành thói quen đi rồi.
Nhã bực mình:
- Thế thì cô làm cho các bạn gái mới, mà cả phái cũ nữa, họ cười cô là không biết gì. Cô làm xấu hổ bọn mới.
Minh yên lặng, khó chịu. Nhã lại nói:
- Cô sợ gì ai chê mà cô nhút nhát thế. Cô phải hiểu rằng rồi cái mới phải thắng cái cũ, thì những người có tư tưởng mới, hành động lối mới, chỉ được người đời vỗ tay khen mà thôi.
Minh hỏi gặng:
- Thế có cách gì đối phó được với phái cũ nữa không?
Nhã lúng túng vừa châm thuốc lá vừa nghĩ ngợi. Minh vờ nom ra ngoài, nhìn chiếc buồm trắng ở chân rặng núi xanh rồi chỉ tay về phía trước, nói:
- Hải Phòng vào chỗ này, phải không anh?
Nhã gật, rồi nhìn tòa Thiên văn trên đồi Phù Liễn, với những quả núi lô nhô, chàng bèn lảng sang chuyện khác:
- Chốc nữa đến nơi, cô về ngay nhà bên quê à?
Minh đáp, nhân tiện thử bụng Nhã:
- Không, em còn ở Hải Phòng tìm nhà một người quen.
Hai mắt long lanh, Nhã mừng rỡ, hỏi
- Cô không về nhà ngay?
- Vâng, sáng mai em mới về. Lâu nay khát khao không gặp bạn, nên em nhân dịp đẻ đi chơi.
- Ở Hải Phòng, tôi không quen ai cả, nhà báo cắt tôi đi dự lễ khánh thành Dạ Lữ Viện để viết bài tường thuật trên báo ngày mai.
Minh vờ hỏi:
- Dạ Lữ Viện khánh thành vào giờ nào?
- Bốn giờ chiều nay.
Rồi cố lấy bộ mặt vẩn vơ lo lắng, Minh cười nói:
- Em cũng liều quá, ở Hải Phòng em không thuộc phố xá, mà dám mò đi.
Nhã vui sướng, vội nói:
- Không hối hận, tôi sẽ làm hướng đạo.
Minh hối hận vì đã trót nói lừa Nhã. Nhã nhìn Minh rất tình tứ:
- Từ bây giờ đến bốn giờ, tôi rất rỗi, nếu cô không ngại, thì mời cô đi xơi cơm với tôi, ta qua chơi vài phố, rồi tôi đưa cô đến nhà quen.
Minh vờ lắc đầu:
- Xin để bận khác.
Nhã nằn nì:
- Có lẽ trời xui khiến cho tôi gặp cô hôm nay, để ta nhắc lại chuyện cũ. Cô nỡ bỏ hoài dịp tốt hay sao? Tôi tưởng đời cô, đến hôm nay mới lại thấy tự do một ngày, vậy mà cô bỏ phí?
Thấy Nhã giở khoa tán, Minh giận lắm. nhưng vẫn dịu dàng đáp:
- Nhưng lỡ có ai trông thấy thì khổ em.
- Không, tôi sẽ mời cô đến một nhà ô-ten, ở trên phố tây, rất ít người qua lại.
Minh lửng lơ không đáp, Nhã lại giục:
- Gần đến nơi rồi, cô quyết định đi.
Tự nhiên, Minh ghét Nhã lạ. Thật đúng như lời Xuân nói, Nhã đã chẳng có bụng trung hậu ngày xưa, đời Nhã đã hoàn toàn những vật chất.
Xe lửa quá ga Vật Cách. Nhưng nhà ga san sát ngoài Cảng đã hiện ra trước mắt như chồng chất lên nhau. Khói nhà máy xi măng tuôn lên tựa làn mây xám làm mù cả một vùng, Nhã nóng ruột, lại giục nữa:
- Cô quyết định đi.
Minh vẫn yên lặng. Nàng càng bỉ bụng Nhã. Hẳn là Nhã muốn dắt nàng đi vào bụi chông gai. Nàng không ngờ Nhã định tâm lợi dụng cái cảnh ngộ của nàng thế. Nhưng thấy Minh ngồi yên lặng, có lẽ Nhã tưởng nàng sắp chịu lời nên chàng lại dỗ dành:
-Rồi tôi sẽ bày cho cô một cách để đối phó.
Minh ngước mắt, hỏi:
- Cách gì, anh thử nói qua?
- Dài lắm. Bây giờ không đủ thì giờ. Thật là một dịp mà cô sẽ thấy bao nhiêu lợi.
Xe lửa qua cầu, quành vào phố. Minh thở dài đứng dậy, sắp sửa hành lý, rồi nói:
- Thôi, em cảm ơn anh.
Nhã nhăn nhó:
- Không được, cô không dám quyết định, thì tôi quyết định hộ cô. Tôi không để cho cô khổ, tôi không để cho một người phái mới bị áp chế dưới chế độ gia đình cổ hủ.
Minh mỉm cười:
- Vâng, xin tùy ý anh.
Nói đoạn đứng dậy, nàng trông rõ nét mặt Nhã tươi tỉnh hẳn lên. Nàng càng hối hận, chốc nữa Nhã sẽ thấy một cảnh rất đau đớn cho Nhã mà chàng sẽ phải căm hờn nàng.
Chờ xe lửa đứng dừng. Minh bước xuống sân ga. Nhã sắp lại cổ áo, khuy áo, rồi xuống theo.
Minh đương nhìn để tìm xem cửa ra chỗ nào, thì bỗng có tiếng khê nằng nặc gọi to tướng:
- Đây! Đây! Mợ Cả!
Nhận ra tiếng bà Tuần, Minh tuy ngượng nghịu với công chúng, nhưng vì giận Nhã, nàng rất sung sướng, trống ngực thình thình. Nàng hồi hộp chạy mau để đến chỗ mẹ chồng.
Bà Tuần lạch bạch đến gần Minh, mừng rỡ âu yếm nói:
- Gớm, mẹ chờ đến nửa giờ.
Rồi vẫn nói to tướng, bà gọi:
- Chúng nó đâu cả rồi nhỉ?
Tức thì Oanh thướt tha đi lại, rồi lủn củn Sanh đến sau. Người thì giật lấy va li, người thì mang hộ không kịp đáp.
Nàng quay lại sau, thấy Nhã lạnh lùng, bẽn lẽn, đương rảo cẳng đi lảng xa. Nàng không muốn để lỡ dịp, bèn gọi Nhã, và nói với mẹ:
- Thưa mẹ, đây là ông Nhã. Bạn cũ của con.
Biết rằng không thể tránh mặt được, bất đắc dĩ, Nhã đứng lại, rồi đến gần, mỉm cười, cúi chào bà Tuần, Oanh và bắt tay Sanh.
Minh bảo Sanh:
- Ông Nhã làm báo, hôm nay xuống đây về việc khánh thành Dạ Lữ Viện.
Bà Tuần mừng rúm cả mắt lẫn miệng lại để cười cho tươi và nói to hơn trước để lấy sĩ diện:
- Thế à? Vậy mời ông lên xe ô tô một thể, về xơi cơm đằng nhà rồi chiều ta cùng đi. Viện mời tôi xuống dự lễ khánh thành đây ông ạ, vì tôi cúng vào Viện năm nghìn.
Nhã lúng túng, Oanh nhăn nhó, ghé vào tai bà Tuần, nói:
- Mẹ nói to quá.
Bà Tuần cau mặt, vẫn cứ nói thật to, để giục Sanh:
- Kìa cậu Cả, mời ông đi,
Nhã cầm mũ, lễ phép nói:
- Con cảm ơn cụ, xin để bận khác, vì con vội tí việc.
Minh hởi dạ, thật nàng đã trả lời Nhã bằng một cách rất hùng biện, nàng đay:
- Mời ông đến xơi cơm với chúng tôi cũng thế, ông nói chuyện vui lắm kia.
Sanh nhã nhặn mời:
- Chúng tôi thành thực mời ông.
Song, Nhã giấu sự thẹn thùng, chàng phải tươi cười đáp:
- Quả thật tôi vội, xin đến khi khác
Rồi Nhã chào mọi người, đi thật mau. Còn bà Tuần, Oanh và Sanh thì vừa đi vừa quây quanh Minh để hỏi dồn dập những chuyện, như người đã bị xa cách hàng tháng, hàng năm vậy...
Riêng Minh, nàng lạnh lùng nhìn Nhã xa dần…
-
1936. Cô giáo Minh (1935)
- Tiểu thuyết, Tiểu-Thuyết Thứ Bảy TTTB, số 79 (30 Nov. 1935), 80, 83, 84, 85, 86, 90, 92, 93, 94, 95, 96, 97, 98, 99, 100, 101 (1936)
- (NXB Tân-Dân, 1936 - 219 tr.) - 1990. Cô giáo Minh - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Cửu Long.
-
1998. (Tủ sách Nguyễn Công Hoan - Nhân kỷ niệm 95 năm sinh nhà văn)
- Cô giáo Minh - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1(?2)
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
Cô giáo Minh, truyện dài (NXB Tân-Dân, 1936 - 219 tr.) (Tiểu-Thuyết Thứ Bảy)
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
Tham khảo: Các bài viết liên quan
Trích:
Tính trào lộng (còn gọi là tính hài hước) trong văn phong Nguyễn Công Hoan có lẽ chỉ thua tác giả của truyện tiếu lâm Việt Nam. Nó được thể hiện rất sinh động, khi thì ở sự việc có tính trào lộng, khi thì ở ngôn từ có tính trào lộng, và thường thì ở cả hai hình thức nói trên phối hợp với nhau. Trong rất nhiều truyện dài và truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, người ta có thể dễ nhận thấy tính trào lộng rất đặc biệt và trường hợp điển hình:
[...]
I – Nguyễn Công Hoan viết nhiều truyện dài nhưng ít thành công.
[...]
Cô giáo minh (1935)
Thực ra cách giải quyết của ông là bảo thủ, mà sự việc xảy ra trong truyện lại không hề diễn biến theo sự phát triển hợp lí bình thường của câu chuyện chút nào. Ông đã cố tả bà mẹ chồng hết sức tàn nhẫn, cô em chồng hết sức đanh đá nhỏ nhen, người chồng hết sức đần độn ngu ngốc, không có tình cảm, không biết yêu đương. Thế mà lại cuối cùng, ông lại bắt Minh sau khi đã cương quyết ra đi, lại quay về sống trong gia đình đó, giữa những con người đó, nhẫn nhục, chịu đựng,
Xét cho cùng thì Nguyễn Công Hoan hay Nhất Linh cũng không thể giải quyết nổi vấn đề mới cũ, vấn đề hạnh phúc trong xã hội cũng như trong gia đình. Biện pháp nào cũng là giả tạo hết. Vấn đề lớn ấy chỉ có thể giải quyết trọn vẹn và triệt để bằng một cuộc cách mạng xóa bỏ hẳn chế độ thực dân phong kiến. Chỉ có trên một cơ sở xã hội tốt đẹp mới có thể xây dựng được quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Nguyễn Công Hoan hay Nhất Linh đều chưa thấy điều đó.
[...]
Tập Cô giáo Minh của ông là một tiểu thuyết tả những tục cổ hủ ở một nhà quan; ông đã đặt một cô gái tân tiến vào, để những hủ tục ấy nổi lên.
Vào hồi Cô giáo Minh ra đời (1936), báo Phong Hoá (số 180-ngày 27-3-1936) đã nêu lên "một vụ án văn" và bảo khi viết tập tiểu thuyết này, Nguyễn Công Hoan đã phỏng theo Đoạn tuyệt (Đời Nay - Hà Nội, 1935) của Nhất Linh.
Nếu đem hai tập tiểu thuyết đối chiếu, người ta thấy ở Đoạn tuyệt cái mới với cái cũ không thể dung nhau được; còn ở Cô giáo Minh, mới và cũ tuy có xung đột với nhau lúc đầu, nhưng rồi sau điều hoà cùng nhau, và điều hoà trong phạm vi luân lý và lễ giáo.
Cố nhiên, trong Cô giáo Minh, rút cục cá nhân bị xoá nhoà, để cho đại gia đình chiếm đoạt hết cả; còn trong Đoạn tuyệt, cá nhân kết cục được trội hơn lên và có sự chia rẽ.
Đó là toàn thể hai tập tiểu thuyết, còn nếu xét riêng từng nhân vật, người ta thấy ở cả hai tập,
Nhưng có một điều khác nhau rất quan hệ là ở tiểu thuyết Cô giáo Minh, người con gái tân tiến là người không mơ mộng và bao giờ cũng được chồng yêu, tuy anh chồng là người nhu nhược, hết sợ mẹ quá đáng lại hay nghe em gái xui xiểng; còn ở tiểu thuyết Đoạn tuyệt, người con gái tân tiến là người mơ mộng rất nhiều, và người chồng bao giờ cũng vào hùa với mẹ để trị vợ mình. Có lẽ vì thế mà một đằng, mới cũ có thể điều hoà (cái tình yêu nồng nàn của chồng thật là mối dây khó gỡ cho người vợ) còn một đằng có thể dứt đường ân ái mà đi đến chỗ "đoạn tuyệt".
Còn như bảo Nguyễn Công Hoan phỏng theo Đoạn tuyệt, tôi cho là không đúng. Bảo tác giả Cô giáo Minh viết phản lại, có lẽ đúng hơn. Hai quyển tiểu thuyết đều tả những phong tục cổ hủ trong những gia đình thuộc giai cấp phong lưu Việt Nam, nhưng nếu đem so sánh với nhau thì cả hai đều là hai tập luận thuyết. Một đằng kết luận: Mới cũ không điều hoà được; còn một đằng cãi: mới cũ có thể điều hoà được.
Cô Giáo Minh
Bước Đường Cùng,
Cô Giáo Minh,
Lá Ngọc Cành Vàng
(NXB Thanh Niên 2003 - Nguyễn Công Hoan - 649 Trang)
Ông bắt đầu viết văn rất sớm, ngay từ khi còn đương học ở trường Bưởi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông là Kiếp hồng nhan xuất hiện năm 1923, khi ông tròn hai mươi tuổi. Từ đó ông viết nhiều truyện ngắn và truyện dài đăng trên các báo đương thời. Năm 1932 ông bắt đầu được bạn đọc chú ý khi cuốn truyện dài Những cảnh khốn nạn ra đời và nổi tiếng sau khi ra tập Kép Tư Bền (1935).
Link Download
eBook có trong tuyển tập DVD Tác Phẩm Kinh Điển
http://tvdt.langson.gov.vn/DataFile/73260.pdf
Mời xem thêm: Vụ án Cô Giáo Minh và Lá Ngọc Cành Vàng - Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 - 2
Mời xem tại ISSUU
0 comments:
Đăng nhận xét
[im]your image url..[/im]
[youtube]your video url..[/youtube]
[si="10"]your text[/si]
[co="red"]your text[/co]
〈div style=""〉 TEXT〈/div〉