2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
4. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
Mời đọc Bản đánh máy
Bà chủ
(1903-1977)
Trong: Ông chủ bà chủ, những truyện thực từ mười năm về trước (NXB Đời Mới, 1944 - 213 tr.)
Để đọc, xin nhấp chuột vào chương muốn xem.
Không có lẽ ban "Chấn hưng đạo đức" của làng V.N. từ ngày lập ra đến giờ, lại không làm việc, để đỡ mang tiếng cho hội đồng cải lương là hay bày vẽ. Nhưng nếu ban ấy có đủ thế lực, thì hẳn cô Minh nhà ông nghị Mai đã bị trừng phạt biết bao lần rồi. Ở làng bao giờ cũng vậy, người ta đối với nhau bằng lý, mà người ta lại đối với nhau cả bằng tình. Bà Trưởng ban Chấn hưng đạo đức bị ức mà tha cho cô Minh, thì bà nhăn mặt, thở dài, và phàn nàn to với người khác:
- Nếu lần sau, hội đồng không cho tôi tự quyết, làm việc thẳng tay, thì tôi cũng chẳng tham gì mấy đồng bạc lương, tôi sẽ xin từ chức để đỡ bị cười là ăn hại.
Nhưng đến khi người ta bắt được quả tang vợ anh bếp Nhã tự tình với trai ở đầu cầu, thì hội đồng nhất định nhận thực là chị ta hiện lúc ấy ở nhà.
Bà Trưởng ban lại nhăn mặt mạnh hơn, thở dài lâu hơn và phàn nàn với người một câu ngắn hơn và khẽ hơn rằng:
- Nếu lần sau, hội đồng cứ ăn tiền tư vị, thì tôi quyết xin từ chức.
Nhưng trăm bó đuốc cũng vớ được một con ếch, thì trong trăm lần sau sao chả có một lần làm cho bà hài lòng.
Năm nay bà độ ngót bốn mươi tuổi, góa chồng sớm mà không có con. Giá như ai kia, bà đã bước đi cầu nữa, tội gì lôi giài sự sống bằng những ngày quạnh hiu. Nhưng bà thì không, bà rất khinh những bọn gái góa có đủ điều kiện về vật chất và tinh thần mà còn cho sự lấy chồng nữa là cần thiết. Bà chê:
- Đời ai lại dại như con mẹ Dậu trên ngõ Cả bao giờ, bỏ con bỏ của mà đi lấy thằng lính khố đỏ.
Bà thì khôn. Bà nhất định thờ chồng cho đến ngày đầu bạc răng long, và chiều chiều, bà vẫn lên chùa tụng kinh niệm phật.
Vì bà nghĩ sống mà làm ích cho đời thì không là sống thừa, cho nên thỉnh thoảng tiếp đàn bà con gái trong làng, bà hay nói chuyện đạo đức và ca tụng chữ tiết chữ trinh. Cả làng tặng cho bà cái tên là "bà Phật" không phải là quá đáng.
Bà rất nghiêm nghị. Bà là một nhà đạo đức đúng khuôn. Đố ai thuộc được trên mặt bà nét răn cười ở chỗ nào. Từ ngày được ứng cử Trưởng ban thì lúc nào bà cũng hết sức lo làm cho tròn bổn phận. Bà mơ màng đến cái quả phúc xinh xinh sau này.
- Đạo đức của bọn trẻ em làng ta, lời ông chánh hội nói, là ở trong tay bà. Bà nên vì danh dự làng ta, mà dắt họ theo chân nối gót bà đi vào con đường thẳng.
Rồi ông đưa cho bà quyển sách dầy nói về quyền hạn của viên Trưởng ban Đạo đức.
Người ta chép thêm ra một bản gián ở cửa đình.
Nhưng tạo hóa dù không có trí khôn cũng không hề làm ra cái gì thừa, huống chi là người, gia dĩ lại một đống rặt những người.
Ban Chấn hưng đạo đức của làng V.N. chờ mãi cũng có việc mà làm.
Thì đây có một buổi tối. Buổi tối hôm ấy mặt chị Hằng buồn rưn rứt như cô con gái muộn chồng, uể oải cố thả cho xong nhưng ánh nhợt nhạt xuống đất rồi lảng đi ngả lưng phía chân trời. Bác Khán Tý tình cờ thấy ở sau đình, trong bụi cây có tiếng động. Cố giữ lương tâm nhà nghề, bác đánh bạo dừng bước lại nghe, vừa nghe vừa lo trong tay không cầm khí giới. Nhưng đó chỉ là những tiếng nỉ non mê hồn của cặp trai gái đương tình tự. Bác bèn can đảm, ùa vào định bắt sống, thì rủi cho bác cái bóng quần trắng rẽ lá biến nhanh như điện, bác quờ tay theo thì may sao, bác vớ được nạm tóc dài.
- Cháu lạy bác... Cháu lạy bác...
Nghe tiếng quen quen, bác nhìn kỹ vào tận mặt người bị nạn. Thì đáng kiếp chửa, ra con Thanh, con thằng mõ trong làng.
- Cháu lạy bác, bác tha cho cháu.
Bác khán giữ thế công, quắc mắt nói:
- Mày nói chuyện với đứa nào? Đi theo tao về điếm.
Ánh trăng chiếu vào mặt con Thanh càng thêm nhợt nhạt. Bác khán lôi tà áo nó đi. Đến điếm, bác đánh một hồi mõ, đoạn trói gô con bé khốn nạn vào cột.
Nửa giờ sau, người ta kéo đến đã đông.
Ông thư ký muốn cho giản tiện để về hút nốt mấy điếu nữa, trách bác khán.
- Nó là con thằng mõ, thì bắt nó làm gì. Nó có phải người làng mình đâu mà mình trị.
Nhưng ông chánh hội vừa tới, dõng dạc nói:
- Để hội đồng giao cho ban đạo đức. Thật là một cái xấu.
Ông phó hội tiếp:
- Đuổi cổ bố con nó đi là hơn.
- Không được. Không được.
Nhiều người nhao lên, nói thế, cho ban đạo đức có việc mà làm, chứ không trị đám này còn trị đám nào.
Trước mặt mọi người, thằng mõ lạy như tế sao. Con Thanh thì cúi gầm mặt, ra vẻ hối hận. Nó biết nó đã lép vế lại còn làm càn, thì đời nào người ta ngơ đi cho nó. Mấy anh tuần tinh nghịch, ngắm con Thanh từ trên chí dưới rồi bĩu môi bàn tán với nhau:
- Quên không hỏi bác khán xem chúng nó nói chuyện với nhau ở chỗ nào.
Rồi len đám đông, bà Trưởng ban Chấn hưng đạo đức thong thả nghiêm nghị đến.
Người ta im phăng phắc, xem các cụ phân xử ra làm sao. Người ta nhìn chòng chọc vào bà. Người ta tưởng như một vị thần minh cứu thế mới đến.
Bà Trưởng ban nhăn mặt, liếc mắt nhìn con Thanh một cách rất thương hại rồi cất tiếng:
- Thưa các cụ, các cụ cho gọi chúng tôi ra có việc gì?
Ông chánh hội mời bà vào trong điếm nói:
- Đây, hội đồng giao cho bà con bé này. Ban nãy, khán thủ vừa bắt được nó trò chuyện với giai.
Bà Trưởng ban sửng sốt, cau đôi lông mi và thở giài chán ngán.
Ông chánh hội lại tiếp:
- Mà chúng nó dám hỗn xược là giắt nhau đến sau đình.
Bà Trưởng ban giật mình:
- Giời đất ơi!
- Cho nên hội đồng quyết thẳng tay trừng trị, chứ không vì một lẽ gì mà tha được.
Bà Trưởng ban ngạc nhiên hỏi:
- Bẩm các cụ, nó là con nhà ai?
Ông phó hội nói:
- Nó là con Thanh, con thằng mõ.
- Vâng.
- Vậy bà chớ ngại.
- Vâng.
- Bây giờ hội đồng làm biên bản để giao cho bà. Bà nên lấy tài đức mà cảm hóa nó.
- Dạ xin vâng.
Rồi bà dỉ tai hỏi bác Khán Tý:
- Chính bác bắt được?
Bác Khán tươi tỉnh, nét mặt quan trọng như người mới làm được một việc phi thường, đáp:
- Vâng thưa bà, cháu rình chúng nó đã lâu lắm, hôm nay mới bắt được.
Ông chánh hội quay ra nói:
- Ta khen cho chú có công, nghe chưa!
Bác Khán mủm mỉm, chắp hai tay đáp:
- Dạ.
Đoạn ông chánh hội bảo bà Trưởng:
- Bà định làm thế nào, bà có thể nói qua loa cho hội đồng nghe được không?
Nghĩ ngợi một lúc, bà đáp:
- Thưa trình các cụ, ban Chấn hưng đạo đức mục đích là làm cho những hạng con gái đã mất nết, biết bỏ đường cong mà đi đường thẳng. Chúng nó sở dĩ hư, là do tư tưởng nó xui nên, cho nên không thể phạt bằng tiền hoặc phạt đánh đòn được. Bệnh tinh thần có thuốc tinh thần.
Thì chúng tôi tính phải nên ôn hòa, lấy lời lẽ ngọt ngào mà khuyên bảo nó. Đá kia dẫu rắn, một vết móng tay không đủ vạch nên hằn, thì trăm nghìn lần, vạn ức lần, ắt phải thành một vệt. Vậy xin các cụ cứ giao con Thanh cho tôi, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc sửa đổi tâm tính nó.
Giọng hùng biện như rót vào tai mọi người.
Ông chánh hội gật gù. Ông phó hội lim dim. Ông thơ ký khoanh tay trước ngực. Bác Khán và anh em tuần sờ mó hết đoạn cột nọ đến đoạn cột kia. Bà Trưởng lại nói tiếp:
- Nhưng chúng tôi muốn xin các cụ một điều, là chúng tôi muốn cho ban đạo đức làm việc được toàn quyền để lấy tiếng với làng khác. Vậy muốn bài trừ hẳn cái tệ hư đốn của con em trong làng, thì trên tôi xin các cụ một mực công minh, dưới tôi nhờ bác Khán với anh em nên chịu khó đi lùng bắt cho riết róng. Mà các ông các bà trong làng cũng vậy, tôi xin rằng hễ ai nghe nói con cái nhà nào hư, thì cứ lẳng lặng đến bảo nhỏ tôi, tôi sẽ cho người đi dò la để biết hư thực. Như vậy một sự chấn hưng đạo đức không ai nên coi như việc của một người mà nên nhận là việc chung tất cả làng mới được.
Lời nói phải bao giờ cũng dễ lọt tai. Những ý kiến của bà Trưởng ban được ai cũng hoan nghênh lắm. Con Thanh bị cái im lặng nó đè nén mỗi phút một nặng thêm. Nó chỉ muốn cho người ta đem nó đi một chỗ nào vắng, rồi tha hồ muốn làm tình làm tội gì thì làm cho xong đi. Chứ hàng mấy trăm con mắt đổ dồn cả vào nó như từng ấy mũi tên cắm vào làm cho nát ruột nhầu gan.
Trong khi nó đang mơ màng thì bà Trưởng lại gần, cởi trói cho nó và tươi tỉnh ngọt ngào nói:
- Nào, chị đi theo tôi về nhà tôi nhé. Chị này trước ngoan ngoãn lắm kia mà.
Con Thanh chán nản đứng dậy, theo bà Trưởng.
Bà Trưởng ghé tai thằng mõ dặn dò:
- Rồi ngày ngày cứ cho nó lại nhà tôi nhé. Đừng ngại. Nếu để nó hư, có ngày thì khốn đấy.
Thằng mõ chắp tay gật đầu:
- Dạ.
Rồi bà Trưởng và con Thanh cùng đi, đàn bà trẻ con theo sau. Nhưng lũ tuần quát:
- Còn gì nữa mà xem!
Ông chánh hội dọa:
- Thôi, ai nấy đi về nhà ngủ, nếu không bị phạt hai hào!
Con Thanh theo bà Trưởng về nhà. Nó bẽn lẽn ở hè, chờ bà đánh diêm và thắp đèn.
Khi trong nhà có đủ ánh sáng, con Thanh liếc mắt nhìn, nó thấy trên tường treo tranh đức Phật bà Quan Âm mà nó giợn cả tóc gáy.
Bà Trưởng ngồi trên ghế, rót nước uống rồi gọi:
- Nào chị Thanh vào đây, tôi hỏi. Chị chỉ làm rầy rà cho tôi thôi. Thế nào lại dại dột làm vậy?
Con Thanh cúi mặt, không đáp.
Nghiêm trang, bà Trưởng hỏi:
- Các cụ đã giao cho tôi thì chị không nên dấu diếm một điều gì. Các cụ muốn cho chị hay, mà tôi đây nếu làm cho chị đổi tâm tính, tôi cũng được hả dạ. Chị chẳng mất gì mà tôi cũng chẳng được gì. Vậy chị nên nói thực nhé?
Con Thanh cảm động, khẽ đáp:
- Vâng.
- Ừ thế tôi hỏi, chị nghĩ thế nào mà chị lại dại dột làm vậy?
Lên giọng run run, con Thanh đáp:
- Bà tha cho con, quả là con dại dột.
- Ừ chị nên thú hết cái dại dột của chị cho tôi nghe.
Con Thanh hu hu lên khóc. Nó khóc đến năm phút, đến nỗi bà Trưởng phải thở dài và lắc đầu. Rồi nén mãi nó mới nói:
- Thưa bà, con dại dột, vì chẳng nghe anh ấy mà ngồi ở mé góc đình bên kia!
Bà Trưởng cau mặt nói:
- Không, tôi không hỏi thế. Việc ấy chị phải nên hối hận mới phải.
Con Thanh nhìn bà Trưởng, tỏ vẻ ngạc nhiên.
Bà Trưởng hỏi:
- Tại làm sao chị lại quá nghe một người con trai thế?
- Lạy bà, bà tha cho con, tại con yêu anh ấy.
- Chị yêu anh ấy. Tại làm sao chị lại yêu anh ấy?
- Bẩm bà, tại anh ấy yêu con.
Bà Trưởng lắc đầu nói:
- Không được, thế đời chị quý nhất cái gì?
- Bẩm con quý nhất anh ấy.
- Ồ chị này vẫn còn mê muội quá. Đàn bà con gái không gì quý bằng chữ trinh chữ tiết. Người ta bảo chữ trinh đáng giá nghìn vàng, chị có nghe thấy câu ấy chưa?
- Bẩm bà có.
- Thế mà chị nỡ nghe những lời đường mật, của bọn con giai tơ, họ chỉ cố lừa dối mình, để họ dắt mình xuống hang sâu vực thẳm. Đàn ông là hạng người chí bạc, bạc không kém gì đàn bà đâu. Chị tưởng chị tin được họ đấy hẳn. Bây giờ tôi cho chị nghĩ lại những người bị trai lừa dối, xem đến bây giờ, họ còn được sung sướng như lúc mới nữa không.
Trầm ngâm, con Thanh đáp:
- Bẩm bà nói rất phải.
Bà Trưởng cười:
- Đó, xưa chị ngoan ngoãn ngần nào. Ấy thế mà chỉ lầm lỡ một chút, là bị hại cả một đời. Chị nên biết hối mà sửa lại tính nết. Tôi sẽ giúp chị một tay. Rồi ngày ngày chị cứ đến đây. Tôi chỉ coi chị như người em út. Tôi sẽ nói rõ bụng dạ của người đàn ông thế nào cho chị nghe. Chị nên coi họ như kẻ thù. Chỉ người nào cha mẹ ta gả cho ta, mới có quyền được ta yêu.
Rồi che tay lấp ngọn đèn cho khỏi chói mắt, bà nhìn ra sân nói:
- Thôi bây giờ chị đi về đi. Từ mai trở đi, ngày nào chị cũng phải đến đây, vào lúc nào cũng được. Tôi sẽ nói chuyện cho chị khôn người ra.
Con Thanh vui vẻ, nhìn bà Trưởng bằng đôi mắt âu yếm. Giờ thì nó không sợ bà nữa. Nó thấy bà ngọt ngào, dễ dãi thì chỉ có bụng kính mến mà thôi, nên nó đáp:
- Lạy bà, con xin về, rồi bà mở mày mở mặt cho con trong lúc mê muội.
Bà Trưởng cảm động, đứng lại gần nó vỗ vai đáp:
- Chị cứ tin cậy vào tôi, từ mai ta sẽ bắt đầu.
Nói đoạn con Thanh ra cổng, bà Trưởng nhìn theo thở dài...
Cạnh nhà bà Trưởng ban Đạo đức là nhà cháu bà, gọi bà là cô, tên là Xương, trạc độ hai mươi tuổi, và chưa vợ. Xương không cùng chủ nghĩa với cô, nghĩa là ở trong làng, Xương vào đảng phá hoại đạo đức.
Từ ngày Xương thấy Thanh thường ra vào nhà cô, thì dò ngay được những lúc Thanh qua cửa nhà mình.
Bởi vậy, lần nào Thanh đến nhà bà Trưởng để nghe giảng đạo đức, cũng thấy Xương đứng ở trong cổng, mắt lấm la lấm lét.
Lần đầu, Thanh thấy Xương mỉm cười gật gật, thì Thanh lấy làm ngượng và thẹn. Lần thứ hai, Thanh đã hơi quen cái gật đầu và cái mỉm cười. Lần thứ ba, Thanh mỉm cười, để đáp lại tấm thịnh tình của người tri kỷ. Nhưng mà mỗi bận Thanh được nghe bà Trưởng giảng nghĩa lý, thì linh hồn như được khoan khoái, tơ lòng đứt ngẫm đến bộ mặt nhăn nhở của Xương mà tởm, mà kinh.
Thế nhưng mà mỗi bận Thanh về qua nhà Xương, thì cái đuôi mắt, cái nhếch môi của Xương lại làm cho Thanh thấy nhẹ nhàng, phân vân, rồi trong cái óc cỏn con, biết bao nhiêu tư tưởng tranh nhau ngôi bà chủ. Những cái làm cho người ta được trông thấy sự sung sướng ngay trước mắt bao giờ cũng dễ được người ta chuộng hơn; bởi vậy, Thanh thấy tơ lòng vẩn vương, coi bà Trưởng như một con ma dại.
Vì lẽ ấy, Thanh năng đến nhà bà Trưởng, chẳng phải Thanh ưa nghe những lời nghĩa lý vàng ngọc, nhưng mục đích chỉ để được nhận lấy những lời ong bướm ngọt ngào của Xương.
Rồi dần dần Thanh nói chuyện với Xương. Nói chuyện ban ngày, nhiều nhất là một câu, nên Thanh muốn nói từ hai câu trở lên, bèn bằng lòng nói chuyện với Xương lúc tối.
Bởi vậy, ngoài những buổi đến nhà bà Trưởng để nghe bà chau dồi đạo đức, Thanh còn đến cả nhà bà vào lúc chập tối, để lẻn sang với Xương, nghe Xương chau dồi ái tình.
Bà Trưởng tưởng Thanh chăm chỉ thì ngạc nhiên và khen:
- Tốt lắm, tôi mừng cho chị đã cải tâm, cải tính. Thế là việc làm của tôi đã có kết quả.
Mặt bà Trưởng vừa nghiêm trang, vừa vui vẻ. Thanh nhu mì ngồi cạnh, thỉnh thoảng lại liếc mắt lên đồng hồ.
Bà Trưởng nói:
- Nếu ai cũng dễ dạy như chị, thì đáng mừng cho tương lai phụ nữ làng ta.
Rồi bà thở dài, cau mặt:
- Chúa hay đổi bụng là cái giống đàn ông đấy, chị ạ.
Thấy Thanh rất chú ý, bà Trưởng tiếp:
- Đàn bà mình thì hay nhẹ dạ, dại dột. Bởi vậy, ta nên coi họ như con rắn độc, ta chớ đến gần họ và cho họ đến gần. Ái tình là một bãi chiến trường, ít kẻ được hoàn toàn không bị thương. Thường thường, cả đôi trai gái cùng bị đau đớn ngang nhau.
Thanh cũng thở dài:
- Thưa bà, có nên coi đàn ông như bậc thang không?
Bà Trưởng nghĩ ngợi, hỏi:
- Bậc thang đưa ta đến đâu?
- Đưa ta đến chỗ giầu sang phú quý.
- Nếu vậy, nghĩa là chị muốn có mới nới cũ...
- Mà cái mới tất phải hơn cái cũ.
Bà Trưởng nhăn mặt, lắc đầu:
- Nhưng nếu chị được lên về mặt vật chất, ắt chị phải xuống về mặt tinh thần. Người con gái quý chữ trinh thì người đàn bà quý chữ tiết. Ta chỉ có thể hơn đàn ông được cái ta không đổi bụng bao giờ. Chị xem, chị nên lấy tôi làm gương. Nếu tôi không giữ tiết thờ chồng, sao tôi được làng ta kính trọng, sao tôi được hội đồng hương hội trọng dụng như thế này? Đó cái lợi đó. Cho nên tôi muốn khuyên ai ai cũng nên bắt chước tôi.
Đồng hồ điểm tám tiếng. Thanh nhìn ra, ngoài sân tối mịt. Bà Trưởng tiếp:
- Bao giờ ở đời, người ta biết chuộng tinh thần thì...
Bỗng Thanh đứng phắt dậy:
- Thưa bà con xin phép về, kẻo tối.
Bà Trưởng ngần ngừ:
- Được, thế nhưng mà...
- Nhưng mà, thưa bà, ngày mai và tối mai con lại xin đến hầu chuyện bà.
- Được thế nhưng mà...
Thấy bà Trưởng cau mặt, Thanh đỡ lời:
- Vâng, con xin đến luôn.
Bà Trưởng nắm tay Thanh, nghiêm trang nói:
- Thôi, chị không cần đến đây buổi tối.
Thất vọng, Thanh buồn rầu:
- Con tưởng đến buổi tối vẫn hơn.
- Nhưng chị là con gái mà...
- Vâng, xong con đến hầu bà, thì còn sợ chi nữa.
- Thôi, vả buổi tối tôi bận. Có khi tôi đi vắng, thì chị không gặp được đâu. Ừ mà tối mai tôi phải đi đằng này kia mà.
Thanh chào bà Trưởng, đi ra. Cái bóng đen chạy vụt ra cổng, rồi biến, lẩn vào trong quãng tối như mực.
Nhưng cái bóng ấy không biến mất. Nó lại hiện ra dưới mái cổng nhà Xương.
Xương dắt tay Thanh đi, len lén theo hàng rào, rồi ra vườn. Hai người ngậm miệng nín hơi.
Đến gốc cây nhãn, Xương bảo Thanh ngồi xuống và hỏi chuyện. Thôi thì anh chị tha hồ mà cởi gan cởi ruột. Một lát, Thanh nũng nịu, bảo Xương:
- Tôi tiếc rằng những buổi vui vẻ này rất hiếm.
- Sao?
- Tại tôi...
- Không, xưng là em kia mà, gọi anh là anh kia mà, quên mãi.
- Tại em...
- Ừ, thế có thân thiết, đằm thắm hơn không nào. Tại em làm sao?
- Tại em không được phép bà Trưởng.
- Không được phép thế nào?
- Bà bảo em chớ nên đi tối, vả buổi tối bà hay đi vắng.
- Thì em cứ vờ vào đấy, rồi em sang đây với anh.
Thanh nắm tay Xương đáp:
- Anh ơi, nhưng mà vì bà đi vắng, em phải về ngay. Lúc ấy ngoài đường còn đông. Em lẻn sang đây, sợ người ta bắt được lượt nữa thì chết.
Lặng yên một lúc, Xương nói:
- Thế bà giảng giải, em có thích nghe không?
- Việc bà nói để lấy tiền, thì bà cứ nói, mà việc em nghe để lấy tiếng thì em cứ nghe. Còn như thích hay không, cái đó tự trong bụng.
- Thế bụng em?
- Bụng em ấy à? Anh hỏi dở thế? Nếu em thích nghe bà, sao em còn đến đây nghe anh?
Rồi hai người rúc rích cười. Xương nói:
- Nhưng em có làm ra vẻ thích nghe không?
- Cái đó tất nhiên thế. Bà yêu em lắm. Như thế bà mới không ngờ em.
- Vậy em khôn khéo lắm nhỉ!
- Thì anh tính ở đời có trải mới khôn. Đã dại lần trước, thì lần sau phải rạng chứ! Ở đời này, cứ thật thà mãi sao được.
- Thế mai, em lại đến đây với anh nhé!
- Khó lắm, em không muốn đi đằng cổng.
Xương nghĩ ngợi, rồi đáp:
- Được rồi. Em có biết bên nhà bà Trưởng, có cây đu đủ không?
- Có, ở góc nhà.
- Cạnh gốc cây có lỗ chó chui, em có nhận thấy không?
- Chả, anh bắt em làm chó à?
- Làm chó một tí để sang với anh, để hưởng sự sung sướng kia mà. Đi đường của chó, chứ có làm chó thật đâu mà sợ.
Thanh cười ngặt nghẽo, đáp:
- Được.
- Vậy mai, em cứ vờ vào nhà bà Trưởng; khi bà không có nhà, thì em đến gốc đu đủ, rồi sang đây với anh. Anh sẽ chờ ở đó.
- Thế ngộ bên ấy có người biết.
- Không khi nào. Đày tớ nó ở cả dưới bếp. Nó sợ bà Trưởng, vì bà đứng đắn lắm.
- Em cũng sợ bà, em nhìn bà như nhìn đức Phật vậy.
- Chính anh cũng sợ cô anh. Cô anh mà biết anh em ta gian díu với nhau, thì cô anh không tha đâu.
- Anh ạ, nhưng anh đoan với em rằng anh sẽ không nói chuyện em với ai cả.
- Thế em còn nghi anh hay sao?
Thấy Xương dằn dỗi, Thanh đáp:
- Không, là dặn anh thế.
- Phải em ạ. Không ai kín chuyện cho bằng anh. Mà anh chỉ sợ em bô bô cái mồm, thì thật chết.
- Vậy, anh lại ngờ em sao?
- Thôi, thì anh em mình tin nhau là hết.
- Đàn ông hay đổi bụng lắm. Đàn ông khó tin lắm.
- Cũng như đàn bà mà thôi. Thì miễn là chúng ta yêu nhau.
Rồi đằng đông, đám trời đen đã nhuộm màu sữa. Đám mây đã lờ mờ rõ. Thanh cáo từ Xương:
- Em về nhé.
Xương ngần ngừ:
- Em về, trăng sắp mọc rồi, anh ạ, ở đây lâu, lúc ra không tiện.
Xương thở dài, Thanh thở dài. Hai người dắt tay nhau, đứng dậy. Thanh theo Xương lẩn lút dưới các bụi cây, rồi đi ra, rất êm ái.
Thanh đi trên đường cái, trong lòng hồi hộp. Nghĩ đến những phút êm ả cùng Xương mà oán những ai đặt ra những cái then chốt để khóa đàn bà một cách vô lý. Ai sống thế nào thì sống, mình như có hại gì đến ai?
Suốt năm canh, Thanh mong đến sáng, để qua nhà Xương. Rồi ngồi đối diện bà Trưởng, Thanh mong chóng được về, để gặp người yêu lần nữa.
Rồi mặt trời tà. Mặt trời lặn. Vầng trăng đỏ dần dần biến từ màu lửa ra màu tro. Cảnh vật nhá nhem tối.
Thanh nóng lòng, nóng ruột, chải lại tóc ba bốn lần, thắt giây lưng đến sáu bảy lượt, trời mới sập tối.
Lúc ra đi, Thanh dặn cha:
- Con đến bà Trưởng, vì bà dặn thế.
Rồi thoăn thoắt, Thanh ra đường cái, quên cả bỏng chân. Trong lòng Thanh khấp khởi. Thanh vừa đi, vừa ngẫm nghĩ nhớ lại buổi gặp Xương lần đầu. Thanh được sống lại những phút vui sướng, đến nỗi bên mình, Thanh không trông thấy ai nữa.
Rồi rẽ vào ngõ, Thanh gặp bà Trưởng. Bà Trưởng hỏi:
- Chị đi đâu?
- Thưa bà, con vào trong nhà bà Lý mượn cho thầy con cái nồi.
- Thế chị không vào nhà tôi chứ?
- Bẩm không ạ.
- Được, chớ vào. Bởi vì tôi đi vắng, lỡ chị đến, mà mai con vú nó thấy mất cái gì, thì nó đổ cho chị đấy.
Nói xong, Thanh chào bà rồi đi.
Bà Trưởng đứng lại nhìn theo Thanh. Thanh biết, nên qua cổng bà, Thanh phải đi thẳng.
Thanh vào mãi cuối ngõ, rồi mới dám quay gót trở ra. Đến nhà bà Trưởng, Thanh chạy tọt vào sân, nhanh như chớp.
Trời tối như mực.
Thanh yên chí bà Trưởng đi vắng, nhưng cũng cứ làm như không biết, để che mắt con vú. Thanh bước lên thềm, vào trong nhà.
Yên lặng.
Thanh khẽ đằng hắng. Nhưng chẳng thấy ai hỏi han, Thanh ngồi xuống ghế, vui sướng.
Vẫn yên lặng như tờ.
Đứng chờ cho định tinh thần, nghe ngóng bốn bên một lát, Thanh mới bước ra hiên.
Bỗng thình lình Thanh giật mình, rú lên kêu: Ối! Thì ra cái cánh tay ôm choàng lấy Thanh, rồi một cái miệng đầy những râu ria áp vào má Thanh.
Thanh suýt ngã, trống ngực thình thình.
Thanh giẫy giụa, cố nhìn. Nhưng trong nhà tối như hũ nút. Thanh bối rối, không còn thần trí để nghĩ được cái áp má ấy nghĩa đen có là cái hôn hay không?
Sáu tháng về sau, người ta gập con Thanh ăn mặc rách rưới, nét mặt ủ rũ, tiều tụy, cắp khăn gói đi ra khỏi làng.
Khi tới đường cái, nó vừa quay lại, vừa nước mắt chạy quanh.
Đến ga, nó lấy vé về Hà Nội, rồi vào nhà dì họ nó ở ngõ Hàng Bún.
Đầu tiên, dì nó thấy nó lần mò được đến nhà mình, thì rất ngạc nhiên. Sau, dì nó ngắm mãi cái bụng nó, bèn nói:
- Phỉ hổ, mày dẫn xác đến nhà tao, để đem cái nợ này đến cho tao hay sao?
Con Thanh khóc lóc, lạy van dì nó, nói:
- Lạy dì, thầy cháu không ra đây để nói chuyện với dì được, thật là không phải quá. Nhưng u cháu mất đi, chỉ được có mình cháu. Họ hàng nội ngoại, trông đi trông lại, còn có mình dì, nếu dì không cho cháu nương tựa thì cháu liều...
- Dì nó chẳng động lòng, nói đay:
- Cho mày nương tựa thì nương tựa cái gì? Sướng lắm thì khổ nhiều con ạ. Có đường có nẻo thì bước, tao không chứa!
- Lạy dì.
Con Thanh nức lên khóc:
- Lạy dì, nếu dì hắt hủi cháu, thì cháu đành liều.
- Mày định tự tử phải không? Đẹp chửa, gái tơ mà sao ngứa nghề thế! Mày để nhục để nhã cho họ hàng. Con Thanh vùng vằng, cầm khăn gói đi ra. Song dì nó gọi:
- Này tao bảo, ngồi đây. Cất quần áo vào kia, bà cô ạ. Rồi ra tao hỏi.
Con Thanh rất chán chường. Nó bẽn lẽn đi làm các việc, rồi đến đứng gần dì nó. Dì nó hỏi:
- Thế nào, tao nghe nói mày vẫn đến cái nhà bà gì để bà ấy dạy mày kia mà, sao bây giờ mày lại đổ đốn ra như thế này?
Con Thanh đưa mắt nhìn cái bụng. Nó thở dài, rồi kể cho dì nó nghe:
- ... Thật tối hôm ấy, cháu tưởng cháu chiêm bao hay bị ma làm. Cả một nạm râu rậm quệt vào má cháu, cả hai cánh tay rất khỏe ghì chặt lấy má cháu. Nhưng chẳng hiểu sao, tự nhiên cháu được thả ra. Trống ngực cháu thình thình. Cháu đánh bạo cố tìm xem đó là cái gì, thì thình lình bà Trưởng về. Cháu sợ quá, lẩn vào só cửa chỗ tối, định chờ dịp để luồn ra ngoài. Nhưng bỗng cháu đụng phải rõ ràng một người. Cháu dương mắt cố nhìn cho rõ, thì quả là người thật.
Người ấy cứ chắp hai tay, quay về phía cháu vái lấy vái để.
Cháu không hiểu đầu đuôi thế nào cả. Cháu chỉ mong trốn được ra ngoài ngay. Cho nên tiện lúc bà Trưởng bước chân vào nhà, là cháu bước chân ra hè, rồi lui lủi quanh vách, cháu đi thoát.
Hôm sau, cháu đến nhà bà Trưởng cháu lo lắm. Cháu chỉ sợ bà ấy biết cháu đã không nghe lời bà ấy. Nhất là lúc ấy trong nhà bà ấy có chứa một người đàn ông. Nhưng may, bà ấy không biết, vì bà ấy vẫn nghiêm chỉnh như thường, bà ấy giảng:
- Tôi lại phải nhắc cho chị luôn luôn rằng đàn bà con gái quý nhất ở trinh tiết. Không gì nhục cho ta bằng cái tiếng bất chính. Tôi thấy ít người kiên gan như tôi.
Bà ấy còn giảng nhiều điều hay và hợp lẽ phải nữa kia. Nhưng mà, thưa dì, lúc ấy cháu mới hiểu, sở dĩ bà ấy được làm Trưởng ban Đạo đức chẳng qua chỉ tại bà ấy nhân tình với cụ Chánh hội. Người có nạm râu xồm, chẳng là cụ Chánh hội thì còn ai. Thì ra ban ngày bà ấy giảng đạo đức trinh tiết cho cháu nghe, mà đến tối thì cụ Chánh hội đến với bà ấy. Từ đó cháu tức quá. Sao mà làng cháu không cho ngay cháu làm Trưởng ban Đạo đức có hơn không. Nếu được làm, cháu chẳng hẹp hòi gì mà không làm vừa lòng cả hội đồng Hương hội.
Dì con Thanh mỉm cười, đáp:
- Phải gió!
- Vâng, thưa dì làm thế nào kiếm được tiền thì làm, chứ cần gì. Tối hôm sau cháu gặp cụ Chánh hội vẩn vơ ở gần ngõ nhà bà Trưởng. Cháu chắp hai tay, khép nép chào cụ, thì cụ khẽ gật đầu thôi. Nhưng khi nhận ra cháu, thì cụ gọi:
- Thanh con đấy a?
Cháu làm ra dáng sợ hãi, khúm núm nói:
- Dạ, lạy cụ truyền gì ạ?
- Đi đâu thế chị?
- Bẩm cụ cháu đi đằng này có ít việc ạ.
Rồi trông trước trông sau, thấy đường xá vắng vẻ, cụ gọi khẽ cháu:
- Này! này! có rỗi đi đường này nói chuyện.
Cháu nhận lời, rồi đi trước đến chỗ cụ dặn, và chờ cụ ở đó.
Một lát, cụ đến. Cháu thấy cụ xử với cháu không có chút gì là xa cách nữa. Cụ làm ngay như vợ chồng. Cháu có ngờ đâu thế ấy. Cháu nhớ lại hôm nào cháu bị trói ở đình cụ bảo cháu những gì. Thì bây giờ cháu mới hiểu rõ cả cụ Chánh hội đồng Hương hội lẫn bà Trưởng ban Đạo đức.
Chuyện trò lâu, cháu mát mẻ bảo cụ Chánh:
- Kìa đến giờ rồi, bà Trưởng đang mong đấy.
Cụ bịt mồm cháu lại, giúi vào tay cháu một đồng bạc.
Thế là ngoài việc đi nghe giảng ban ngày, cháu còn phải cứ tối tối đi nói chuyện với cụ Chánh hội.
Rồi sau cháu thấy bà Trưởng có vẻ chán nản, buồn rầu lạ thường, bà hay kể xấu đàn ông, bà cho đàn ông là bạc. Thỉnh thoảng khuyên can cháu, bà động tâm quá đến nỗi khóc.
Cụ Chánh hội mê cháu bao nhiêu, thì nhạt bà Trưởng bấy nhiêu. Đã có một lần người làng nói chuyện rằng có lẽ Hội đồng hương hội bãi ban Đạo đức đi, vì cháu đã nên người đứng đắn, mà ở làng không xảy ra việc sửa phạt nữa. Từ hôm sau, cháu thấy bà Trưởng lo lắng, và hết sức kể tội cháu.
Nhưng cháu tỉ tê hỏi cụ Chánh hội rằng:
- Em nghe nói mình sắp đuổi bà Trưởng phải không?
Cụ gật đầu, đáp:
- Để con mẹ ấy ăn phí lương làng. Nó hãy dạy lấy nó trước.
Cháu nũng nịu, nói:
- Thế cho em làm thay bà ấy có được không?
Cụ Chánh hội nghĩ ngợi một lát, nói:
- Khó lắm, vì em đã trót tai tiếng mất rồi.
Cháu vùng vằng:
- Thế mình làm bù dìn ở làng này à?
Cụ Chánh hội nắm lấy tay cháu, đáp:
- Em để cho ta nghĩ kế đã. Khó lắm. Em không phải người làng này. Em không là con nhà danh giá. Em còn là con gái. Em lại trót tai tiếng. Nhưng mà được, muốn làm thì được, song em hãy chờ giăm bữa nửa tháng đã, được không?
Đáng lẽ cái chân Trưởng ban Đạo đức là về tay cháu. Vì bao nỗi khó khăn không hợp lệ, cụ Chánh hội đã vượt được cả. Cụ vận động hội đồng làng đổi mấy khoản trong điều lệ. Thành ra cháu rất hợp với những lẽ bắt buộc của một người xin ra Trưởng ban. Thật là cháu làm ăn không có số, không gặp dịp, cho nên cháu mới bị nhiều nỗi khó khăn. Nào ngờ đâu lúc cháu sắp được danh giá an nhàn, thì cháu có mang với cụ Chánh hội.
Con Thanh nói đến đó, thở dài. Dì nó hỏi:
- Đích mày có mang với nó đấy chứ?
- Vâng, nhưng cháu cũng không dám nói quyết.
- Lêu hổ!
Con Thanh đỏ mặt, nói tiếp:
- Bởi vậy cháu phải câm như hến.
- Mày dại nên mày chết con ạ. Sao mày không cứ đổ riệt cho Chánh hội, có phải mày được làm cô Chánh hay không?
- Thưa dì, cháu không nỡ, vì cụ cho cháu năm chục đồng bạc. Cụ cấm không được nói với ai. Cụ đe hễ ở làng có ai biết thì cụ nhất định đuổi thầy cháu đi. Bụng cháu càng ngày càng trông thấy rõ. Bà Trưởng trước còn bênh cháu, cãi lấy cãi để, rồi sau, bà không còn lý gì bênh nổi nữa, bà bèn trình làng, nhất định xin trừng phạt cháu một cách nghiêm ngặt. Cháu xấu hổ quá. Trong nửa tháng trời, cháu không dám ra khỏi nhà. Ngày nào hội đồng cũng bắt thầy cháu rao mõ khắp làng là cháu chửa hoang. Ai ai gặp thầy cháu cũng mai mỉa, cũng diếc móc. Thầy cháu thì mắng chửi cháu thậm tệ. Rồi kết cục, hội đồng làng xử cháu phải chịu một hình phạt rất nhục nhã, là ròng rã ba ngày, cháu phải đeo biển, mỗi ngày đi khắp làng hai lượt. Trong biển, có mấy dòng chữ, kể những tội hư của cháu. Cháu còn phải nộp vạ cho làng năm chục bạc nữa.
Những nỗi cực nhục, chẳng nói rõ thì dì cũng đủ hiểu cho cháu rồi. Duy cháu bị ức, mà cháu không thể đổ tội cho ai được. Cả làng về một hùa. Rồi người ta xin đuổi cháu ra khỏi làng. Hội đồng hương hội ưng thuận như thế. Nhưng nhất định cháu cứ ở lỳ. Chẳng lẽ làng lại giết cháu.
Nhưng rồi chẳng ai phải dục, tự cháu, cháu phải bỏ làng cháu đi. Vì giá có ở lại, cháu cũng không còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa. Họ coi cháu như cái gai, cái bướu. Thôi thì già, trẻ, lớn, bé, ai gặp cháu cũng chửi rủa, tìm những câu rất cay độc để xói móc cháu. Cái gì quen tai, quen mắt, cũng có thể coi làm thường đi được, nhưng đến câu chửi bới, thì cháu không thể nào làm lơ. Thầy cháu biết chuyện, thương cháu lắm, khuyên cháu:
- Thôi, mày không tài nào ở làng này được. Mày ở đây thì tao cũng đến khổ về mày. Rồi ngày nào chúng nó cũng nói, thì chết mất. Mày ra Hà Nội tìm đến nhà dì Ba, nói tử tế với dì, nhờ dì kiếm công ăn việc làm cho.
Dì con Thanh nghe tới đó, bĩu môi, nói:
- Kiếm công ăn việc làm cho mày! Mày chẳng có đồng trinh nhỏ nào để làm vốn thì làm ăn cái gì. Người ta có bột mới gột nên hồ, chứ cứ cái vỏ nhà quê tiều tụy, rách rưới thế này thì tao tính đi ở cũng chẳng đắt nữa là.
Con Thanh nhìn dì bằng đôi mắt nằn nì, yên lặng nghĩ ngợi.
Ở Hà Nội, Thanh thích nhất việc đi gánh nước. Mà cả ngày lúc nào Thanh cũng ngó thăm mấy vại nước, hễ vơi, là chẳng ai bảo, Thanh cũng quẩy đôi thùng đi liền. Cho nên những hôm mát trời, Thanh cũng cố rửa rội uồm uồm cho các vại chóng cạn.
Thanh coi sự gánh nước như một sự tiêu khiển, như ta đi xem chợ phiên, hoặc dự cuộc khiêu vũ vậy. Cho nên nếu ta phải chải chuốt cái đầu, nếu ta phải ngắm gương hồi lâu xem áo quần đã bảnh bao chưa, thì trước khi ra máy nước, Thanh cũng cần phải diện như thế.
Thanh ăn miếng trầu cho môi đỏ, cho má hồng, vén mái tóc cho mỹ miều, và xếp lại thắt lưng, để mặt còn mới lộ ra ngoài, cho bay phất phới.
Ra đến máy nước, Thanh được gặp những anh nhỏ, anh quýt đẹp đẽ và có duyên, được thấy các anh ấy trêu ghẹo đàn bà con gái, được nghe các anh ấy nói chuyện với các chị sen. Cũng có lúc Thanh được các anh ấy nói đùa, nắm tay và giẩy ngã. Cho nên Thanh chỉ muốn cả ngày được vui cười ở máy nước, chẳng mong tranh nước trước làm gì.
Một tối, Thanh để đôi thùng ở gốc cây, rồi theo anh bếp đến chỗ vắng nói chuyện.
Tối hôm sau, Thanh bằng lòng cho anh bếp dắt đi chơi xa hơn và nói chuyện lâu hơn.
Tối hôm sau nữa, Thanh chịu cho anh đưa đến một gian nhà ở xa hơn nữa và nói chuyện lâu hơn và khẽ hơn nữa.
Rồi một tối, Thanh đi suốt đêm. Sáng hôm sau, Thanh bị dì mắng tàn nhẫn và đuổi đi.
Thanh chẳng lo lắng, buồn bực hoặc oán thán gì, cắp thúng chào dì đi thẳng.
Thanh đến nhà anh bếp, nhắn anh ra đường để hỏi tí việc. Nhưng chờ mãi đến tối, anh chẳng được nhàn rỗi để được giáp mặt Thanh.
Thanh bèn vơ vẩn, đi lang thang hết phố đông ra phố vắng.
Thình lình, Thanh gặp một việc rất lạ lùng.
Một chàng trẻ tuổi mặc quần áo tây, nhìn vào tận mặt Thanh. Thanh hết hồn, cúi đầu và đi lảng xa.
Nhưng chàng gọi:
- Này!
Trống ngực Thanh đập mạnh. Thanh ngờ sẽ có việc chẳng lành.
Nhưng chàng rảo bước theo Thanh, rồi nắm lấy tay Thanh, nhìn Thanh bằng đôi con mắt dịu dàng và thân mật. Thanh hơi yên tâm! Chàng hỏi:
- Đi đâu thế, em?
Thanh thử ý, nhoẻn miệng cười để trả lời.
Chàng cũng nhoẻn miệng, hỏi:
- Đi đằng này với anh chốc lát có được không?
Thanh biết người này chẳng đáng sợ mà chỉ đáng yêu, bèn đi theo ngay. Đêm hôm đó, Thanh được nằm trong một cái buồng sang trọng, có đèn điện, có giường tây. Sáng hôm sau, buộc đồng bạc vào giải yếm, Thanh đi ra, lại bơ vơ suốt ngày.
Nhưng vài hôm sau, Thanh đã quen được một bà. Bà ấy mua cho Thanh đôi giầy cao gót. Mới đầu, Thanh sỏ chân vào, thấy nó cao lênh khênh, chỉ sợ ngã, nên cười sằng sặc. Bà ấy bắt Thanh mặc quần nhiễu trắng áo nhiễu trắng. Bà ấy dạy Thanh chải cái tóc như lối các cô. Rồi bà ấy đánh phấn và bôi môi son cho Thanh. Xong đâu đấy, bà ấy dắt Thanh đi chơi phố. Thật Thanh ăn mặc thế này, chính Thanh trông vào gương còn muốn ngắm mãi mình, huống chi người ngoài. Cho nên, đến phố nào, Thanh cũng thấy đàn ông họ nhìn, có người thì đi theo, có người thì gọi Thanh bằng bà, rất lễ phép.
Thanh sung sướng bao nhiêu, lại phiền cái bụng bấy nhiêu. Giá không có nó, thì Thanh chẳng kém gì các tiểu thư hơ hớ. Giá không có nó, thì Thanh cũng có thể nhận mình còn là con gái thanh tân.
Chẳng mấy lâu, Thanh đã quen nhiều bạn trai lắm.
Có người dắt Thanh đi coi chớp bóng. Có người rủ Thanh đi chơi mát bằng ô-tô. Lại có người làm thơ mới tặng Thanh in trên mặt báo.
Lắm lúc ngồi buồn, Thanh ngẫm nghĩ lại cái đoạn đời còn bé ở nhà quê, sao mà nó buồn tẻ hủ lậu thế. Giá Thanh không hư một dạo thì làm gì có lúc này được sung sướng, danh giá, văn minh? Thanh thương hại bà Trưởng ban Đạo đức làng V.N. chỉ vì chuộng cái danh giá hão huyền mà không dám hưởng sự sung sướng ra mặt. Thanh cảm ơn trời phật đã vạch sẵn cho Thanh một con đường phong quang.
Rồi Thanh cạo răng trắng, mặc áo dài liền gấu và bó lườn. Thanh đã có tiền sắm chiếc vòng vàng giả và sắm chiếc ví đầm sáng bóng.
Bây giờ thì đố ai dám bảo Thanh là con thằng mõ. Người ta chỉ bắt Thanh là người yêu của cậu Tín sinh viên trường luật, và bạn thân của cậu Lễ con cụ Tuần mà thôi.
Rồi Thanh học nhảy đầm. Rồi Thanh học đóng kịch. Ảnh Thanh người ta in trên báo dưới mấy hàng chữ: ngôi sao sáng trong làng kịch Việt Nam: bà Bạch Tuyết.
Thật vậy, giá tờ báo ấy mà "cố" mõ làng V.N. có xem đến cái ảnh, thì đố dám vênh váo mà nhận:
- Nó là con bé nhà tôi đấy mà.
Vậy mà cố đã làm bố vợ một số đông người mà cố không biết.
Hôm diễn kịch xong, người ta đem hoa đến tặng bà Bạch Tuyết, người ta bắt tay bà Bạch Tuyết, người ta đăng báo khen ngợi bà Bạch Tuyết rằng:
- Vai bà Tham khó đóng mà giá không được một bà thượng lưu khuê các như bà Bạch Tuyết nhận giúp, thì cứ con nhà nghề, ai đã lột được tinh thần bản kịch khó khăn này.
Thế nhưng sau khi ở nhà hộ sinh ra, Bạch Tuyết buồn rầu, khóc lóc với người tri kỷ:
- Nếu em kết hôn với anh, thì còn cái điều này, anh tính làm sao bây giờ. Thân thế em, cảnh ngộ em thế nào, chắc anh cũng biết, em chỉ buồn cho cái chế độ của xã hội Việt Nam mình.
Cái chế độ của xã hội bán khai, nó đã giết hại một đời em, một đời người con gái có óc mới, sống trong vòng gia đình cổ hủ. Cái chủ nghĩa của em chẳng giống chủ nghĩa của các cụ. Các cụ thì cứ ép gả em cho những nơi con giòng cháu giống. Các cụ không sao lìa bỏ được cái thuyết lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống. Mà khốn nạn, cái tông cái giống nó đang đối với tông giống gia đình nhà em, là cái tông giống của những gia đình vào thế kỷ thứ mười sáu! Tính em thì lãng mạn, chịu sao nổi những cảnh mẹ chồng nàng dâu. Em cực khổ với nhà chồng trong ngót một năm trời. Em là người có tư tưởng, có học thức, biết suy nghĩ, chứ nào có phải tuồng dại dột mà nghe chị nghe em họ xui làm càn làm bậy đâu. Em dứt áo ra đi, em cũng thương chồng em lắm. Em được chồng em rất thương yêu, em tưởng đời em rồi chứa chan hạnh phúc, đầy năm suốt tháng an nhàn mà hưởng lạc thú của ái tình, nào ngờ đến nông nỗi này...
Nói đến đó, Thanh ôm mặt, hai vai rung nức lên. Người tri kỷ nhăn nhó, đặt tay lên lưng Thanh vỗ về nói:
- Anh hiểu cả. Anh không muốn em nhắc lại chuyện buồn, vì bây giờ em đang non nớt. Anh đây là người đại lượng, gia đình anh là một gia đình biết theo thời.
Thanh ngửng mặt lên, lau đôi mắt đỏ hoe, nói:
- Vẫn biết anh đối với em chỉ biết có ái tình, sẵn lòng quên cái đời quá khứ của em. Anh sẽ sáng tạo cho em một nền hạnh phúc về tương lai, cái lòng của kẻ ra tay tế độ với người trầm luân của anh thật là đáng phục...
- Không, sao em lại tự nhận là trầm luân. Ở đời này, ai chẳng là trầm luân kia chứ!
Thanh nhìn người yêu, âu yếm, rồi đặt tay người yêu vào ngực, thổn thức nói:
- Anh có thấy trái tim em đập mạnh vì ai không?
Anh an ủi em. Em xin nguyền đem hết ái tình mà phụng sự anh.
Câu chuyện pha màu diễn kịch hồi lâu, người tri kỷ ngậm ngùi trở về. Thanh tiễn ra cửa, cũng ngậm ngùi nhìn theo và vẫy đến lúc xe đi khuất.
Xe đi khuất, Thanh mỉm cười trở vào, đem tập giấy bạc ra đếm. Thanh mừng rỡ, ngửa mặt lên trời thổn thức, cảm thương anh ngốc quá ngây vì tình.
Ba tháng sau, người ta thấy Thanh ngồi trên chiếc xe nhà bóng nhoáng, dạo quanh hồ Hoàn Kiếm. Người ta hỏi:
- Cháu có ngoan không?
Thanh lắc đầu đáp:
- Tôi giao trả nhà tôi rồi.
Người bạn lại hỏi:
- Thế nào, anh ấy có chiều chị không?
Thanh ngạc nhiên. Người bạn lại hỏi:
- Kìa, tôi tưởng chị kết hôn với đám ấy?
Thanh thản nhiên, bĩu môi đáp:
- Trăm hai một tháng, không sao đủ tiêu được chị ạ. Mà hắn có mẹ già, mình thì thích tự do, chịu sao nổi. Bởi vậy tôi có ưng lấy hắn đâu!
Độ này Thanh đương để ý đến chú bá chín Sềnh. Chú là người nước Trung Hoa, bố Trung Hoa, mẹ Trung Hoa, nhưng chú thì sinh trưởng ở Hà Nội. Chú chăm xem báo quốc ngữ nước Việt Nam và thích cầm ở tay tờ báo Việt bằng tiếng Pháp.
Mới nhìn, không ai dám bảo chú là khách trú, vì chú ăn vận tây, không có vẻ khách tí nào. Chú nói tiếng An Nam không phải nghĩ. Chú có thể tranh luận một vấn đề gì, hoặc cãi nhau bằng tiếng An Nam.
Nhà chú rất giầu, giầu có hàng vài mươi vạn. Ngày trước, thỉnh thoảng ăn cắp của cha mẹ, chú được một món tiền ăn tiêu vung phí trong hàng mấy tuần. Nhưng mà chú rất khôn ngoan. Chú chỉ chơi, chứ nhất định không yêu ai, vì chú biết rằng hễ yêu là mê muội, mà hễ mê muội là gái nó rút hết ruột lúc nào không biết.
Chú biết Thanh, là do một người anh em giới thiệu trong một tối nhẩy đầm nhà giáo sư Phụng trên Quan Thánh. Thoạt tiên chú Sềnh thấy Thanh, thì cũng coi như một người con gái thường. Nhưng Thanh để ý ngay đến chú, và sán lại làm quen thân với chú, và mời chú đến nhà chơi.
Chú vì muốn đáp lại cái nhã ý của Thanh nên mãi đến mấy ngày hôm sau mới đến.
Thế rồi bẵng đi đến một tháng, chú không gập Thanh mà Thanh cũng cố kiếm dịp gặp chú mà không được.
Song một hôm, Thanh đương ngồi trong nhà dặn thợ may xuống gấu mấy cái áo cho hợp thời, thì tự nhiên người nhà đưa tấm danh thiếp của chú Sềnh.
Thanh chợt nghĩ đến cái thời hiện nay rất trong sạch của mình - nghĩa là cái thời kỳ thất nghiệp về nhân tình - thì tiếp chú rất vồn vã. Thanh cũng thấy chú rất vồn vã. Hai người lựa tính nhau một lúc, câu chuyện thành hợp nhau. Rồi cuộc nói chuyện kéo dài ra đến bốn giờ đồng hồ.
Nhưng hôm sau, có người bạn gái đến chơi, bảo Thanh rằng:
- Thằng khách ấy chỉ bom xu gái, xưa kia thì nó dại, song bây giờ nó khôn rồi.
Câu ấy làm Thanh nghĩ ngợi. Người bạn lại bảo:
- Mày tưởng nó là cái mỏ vàng, thì nó cũng cho mày là mỏ bạc. Liệu mà lờ nó đi.
Thanh ngẩn ngơ, tiếc chai rượu bia và nửa cân nước đá hôm trước. Nhưng một lát, Thanh quả quyết nói:
- Để tao xoay nó cho mà xem. Mình là đàn bà yêu ai là sở thích của mình. Vả lại ái tình đối với tao bây giờ còn có nghĩa lý gì nữa.
Rồi từ bận sau, Thanh xem xét những câu chuyện của Sềnh, Thanh nhận thấy người bạn nói đúng.
Nhưng đã biết bụng Sềnh, Thanh nhất định không đả động gì đến chuyện tài lợi với Sềnh nữa.
Một hôm, Sềnh đến chơi, thấy Thanh có vẻ buồn bã, lo lắng, bèn hỏi, Thanh đáp:
- Tôi có người bạn bây giờ đang trù tính một việc mà sức tôi không thể giúp được. Tôi áy náy quá.
Sềnh cười, nói:
- Bà vờ. Bà thì làm gì chẳng giúp được người ta. Giả thử có ba bốn người bạn túng bấn, thì một mình bà, bà cứu cũng nổi.
Nghiêm trang, Thanh đáp:
- Thật vậy, tôi tiêu của người cũng nhiều song người tiêu của tôi cũng không phải là ít. Có người yêu tôi, bỏ ra cho tôi hàng nghìn hàng vạn cũng nên, mà có người tôi chẳng được tiêu xu nào, mà có khi tôi lại bù đắp cho nữa. Ông không nên coi tôi như những gái giang hồ khác. Giang hồ cũng có nhiều hạng. Chẳng thấy gái giang hồ mà làm cho chồng nên khanh nên tướng là gì. Còn như tôi đây, ai đã là tri kỷ, thì tôi không bao giờ kỳ quản một ly một tí gì hết.
- Thế người bạn của bà là thế nào?
- Là một người bao giờ cũng quẫn bách, nhưng tôi yêu anh ấy vì anh ấy hiền lành thật thà. Tôi cảm nhất là có một lần trong túi tôi không còn một trinh, tôi đi cầu cứu các bạn hữu lúc ngày thường, mà không ai dám bỏ cho tôi vay đến đồng bạc. Họ khốn nạn lắm. Họ chỉ thấy lúc nào mình giầu sang là bám, rồi lúc mình kiết xác thì tìm đường lảng xa. Lúc ấy, tôi đương bụng đói như cào, thì tình cờ đi phố, tôi gặp anh ấy. Tôi đem tâm sự ra kể lể cho bạn tôi nghe. Bạn tôi ngậm ngùi, móc túi lấy đồng năm xu đưa cho tôi và nói:
- Anh biết rằng ngày thường, có lúc em tiêu đến hàng trăm, hàng nghìn. Nhưng hiện nay, anh chỉ có thế này để cứu em, em cầm vậy.
Tôi cảm động vì lòng trung hậu của bạn, tôi cầm lấy tiền, về nhà gọi hàng phở mua ăn. Rồi ngờ đâu, lúc hỏi ra, tôi mới biết chính hôm ấy, anh ấy cũng đang mò đến hàng đông, ăn phở trừ bữa. Thì ra anh ấy nhịn cơm cho tôi ăn. Cho nên không bao giờ tôi quên được tấm lòng quý hóa của bạn. Mà chỉ vì có năm đồng xu hôm quẫn bách, mà tôi kính, tôi yêu anh ấy. Tôi đã để anh ấy tiêu mấy nghìn mấy vạn cái năm xu, nhưng chưa thấy món tiền của tôi nó có giá trị bằng một đồng năm xu đầu tiên của anh ấy. Bây giờ anh ấy muốn sang Pháp học, đã thu xếp gần xong, nhưng chỉ còn thiếu có mỗi một cái cỏn con; nếu tôi không giúp nổi nữa, thì tôi hèn lắm.
Sềnh ngồi ngẩn người ra nghe, rồi hỏi:
- Cái gì?
Thanh lắc đầu đáp:
- Thôi, ông không nên biết. Tôi nói vậy để ông hiểu bụng cho tôi, là tôi rất nghĩa hiệp với anh em đó mà thôi.
Sềnh gật gù, nhìn Thanh, ngây ngất. Chuyện trò hồi lâu, Sềnh cáo từ ra về. Vừa ra đến cửa, Sềnh gặp hai người thiếu niên đi thẳng vào nhà Thanh. Sềnh nhìn theo, cố nhận lấy mặt.
Thanh đang vơ vẩn suy nghĩ về Sềnh, thì lại phải tiếp khách. Thanh rất ghét các bạn cứ kiếm cớ đến tán chuyện hão huyền. Mà lần này, Thanh mới lại chán nản làm sao. Vì trong hai người, thì một người hơi quen Thanh, còn một người Thanh mới gặp là lần thứ nhất. Người này, trông bộ dạng còn ngây thơ, mà lạ nhất là từ lúc vào đến lúc ra, không hề hé miệng nói một tiếng, chỉ thỉnh thoảng nhếch một tí mép ra cười mà thôi.
Ấy thế mà lúc ra, người ngây thơ ấy lại để quên một cái phong bì chưa gián ở dưới đất.
Thanh tò mò, cầm phong bì, rồi rút thư ra đọc. Thì ra không phải thư viết cho Thanh.
Bẩm anh,
Từ khi anh lên huyện mới, em chưa được lên hầu, xin anh chị tha tội cho, vì độ này em bận quá.
Bẩm anh chị có được mạnh khỏe và các cháu có ngoan chơi không ạ?
Em muốn bẩm anh chị một việc rất cần, là việc nhân duyên của em.
Hôm nọ, mẹ lên trên này, ngỏ ý rằng thầy mẹ định hỏi cho em đám con ông Tuần Đồng Trụ. Mẹ khuyên em rằng hôm nào rỗi, đi hầu mẹ về Đồng Trụ mà xem mặt cô ấy. Nhưng bẩm anh chị, em đã muốn thành gia thất đâu. Cứ như nhà ta, thì thầy mẹ dâu gia với ông Tuần ấy rất là xứng đáng, nhưng em chỉ muốn bẩm thầy mẹ rằng em còn phải để thì giờ sửa soạn thi cái cử nhân luật nay mai, chứ người ta đã dúng vào cảnh vợ con, thì còn làm gì được nữa. Ý em muốn cứ để em làm tham tá, rồi độ vài năm nữa, thầy về hưu, sẽ vận động cho em ra tri huyện. Nhưng thật em không muốn làm như anh Phủ nhà.
Còn như việc hôn nhân, thì để khi nào em muốn lập gia đình, em sẽ xin chọn lấy.
Vậy em nhờ anh chị xuống tỉnh bẩm thầy mẹ hộ em, và anh chị bẩm khéo để thầy mẹ nghe ra, đừng để thầy mẹ tưởng lầm rằng em đã cưỡng lời thầy mẹ dậy bảo.
Em: Nguyễn Thượng Cát
Thanh xem xong, tủm tỉm cười, nghĩ:
"Sao lại có người con trai bền trí làm vậy. Mình là con quan, hai anh cũng làm quan, mà cha mẹ hỏi con gái ông Tuần cho, lại còn từ chối để thi cử nhân luật đã".
Rồi Thanh bật cười:
"Thôi, gia thế nhà anh chàng này cũng đăng đối với gia thế nhà mình đây. Anh chàng này tất là anh vô nghề nghiệp, có vợ rồi, nên mới cố bịa ra cái dòng dõi đầy những quan để lừa ta đây!"
Nghĩ vậy, Thanh bỏ thư vào phong bì, lại đặt xuống đất nguyên như cũ, và lấy gót guốc giẫm lên cho có vệt.
Quả nhiên hôm sau, ông Tham Nguyễn Thượng Cát đến nhà Thanh thật sớm để tìm thư.
Thanh làm bộ ngơ ngác, nhưng may quá, bức thư vẫn nằm nguyên đó. Thanh lấy lời lẽ khéo léo để xin lỗi vì đã vô tình xéo guốc lên trên mặt phong bì.
Rồi quả nhiên, ông Tham tá kể lể hết cả tâm sự như trong lòng thư. Thanh vờ chống tay vào má để nghe, rất cảm động. Đến khi ông Tham đứng dậy ra về, Thanh ngậm ngùi tiễn ra cửa, nhìn theo và dặn dò đến chơi luôn.
Nhưng khi quay trở vào, Thanh mừng thầm vì đã nghĩ được kế, là dùng anh Tham giả hiệu để chọi với anh Bá chín Sềnh. Thanh bèn gọi người nhà khênh hết cả bộ sa-lông vào nhà trong, và ở buồng khách, Thanh chỉ giải cái chiếu cũ rách. Rồi mở hòm, Thanh lục những cái áo may từ năm ngoái ra để mặc.
Với cái mặt không phấn, cái môi không son, cái áo tầu tầu cũn cỡn, Thanh có vẻ tiều tụy, khi đứng trong buồng khách trơ chiếc chiếu tàng.
Vì muốn lợi dụng Nguyễn Thượng Cát để lôi Sềnh vào "xiếc", nên hôm sau Thanh tiếp Cát rất lâu. Trong khi câu chuyện đã trở nên thân mật nồng nàn, Thanh mới cười ngặt cười nghẹo mà bảo:
- Tôi muốn kể với anh một câu chuyện tri kỷ.
Cát vui sướng, đáp:
- Tôi đã làm gì mà được chị nhận là tri kỷ sớm thế!
Thanh lặng cười:
- Nhưng ít ra tôi cũng là tri kỷ của anh. Này tôi hỏi thực nhé. Có phải hôm nọ anh vờ bỏ quên cái thư ở đây để cốt quảng cáo cái gia thế của anh đầy rẫy những quan là quan không?
Cát vờ, nhìn Thanh, nghiêm trang. Thanh lại càng cười:
- Giấu nhau làm quái gì? Đằng này cũng ba bốn lượt làm con quan rồi, còn lạ gì khóe ấy!
Cát ngượng nghịu, Thanh nói tiếp:
- Thôi, nhưng không hề gì. Ở đời này, ta nên bịp lẫn nhau. Ai khôn thì tránh được, ai dại thì mắc, ấy là ta lợi dụng được. Chẳng ai cười kẻ khôn ngoan, họ chỉ chê người ngu xuẩn. Vậy thì đây, anh cũng đã khôn, mà tôi thì không dại, cái đó rành rành ra đấy rồi. Thế nghĩa là chúng mình là "trai anh hùng, gái thuyền quyên" cả.
Cát cười, gật gù nhìn Thanh mà đắc chí. Thanh nói:
- Vậy chúng ta nên hợp sức lại mà làm việc thì hơn. Anh chẳng qua chỉ vì túng, muốn xoay tôi, nên mới bổ ông cha, anh em đi làm quan... Thanh cười. Cát cũng cười. Tiếng cười vang cả trong buồng.
- Mà anh thì tưởng tôi béo bở nên mới vác cuốc đến định đào mỏ. Nhưng mà, tôi có gì, tôi chỉ trơ có thần xác với bộ cánh dối đời mà thôi. Nghĩa là, tôi cũng như anh, ta chỉ lăm le dùng ngọn lưỡi để lừa phường ngu dại...
Cát ngắt lời:
- Vậy chị định đồng minh với tôi để làm việc gì?
Thanh đáp:
- Đây, anh coi, nhà tôi dọn hết cả đồ đạc đi, là tôi cốt mưu mô lừa một anh Khách. Chẳng hay anh có biết bá chín Sềnh không nhỉ? Cái người hôm nọ vào đây, mà anh gặp ở cửa ấy mà.
Cát nghĩ ngợi rồi nói:
- Được, thế nào nữa?
- Hắn giầu lắm, nhưng mà kiệt. Nói rằng kiệt cho nó xấu, chứ chính ra thì hắn khôn. Hắn khôn, vì hắn cũng như anh, và cũng như tôi, là chỉ thích đi bom xu của tình nhân. Sềnh con nhà giầu, xưa kia hắn chơi bời, coi đồng tiền như rác bã. Nhưng nay hắn lại muốn dùng cách chơi bời để kéo lại cái vốn cũ. Hắn thấy tôi hào nháng, cũng định xoay tôi. Song, may tôi biết nên quyết tôi xoay lại hắn.
- Kế của chị thế nào?
- Tôi nói dối hắn là tôi có một người bạn trai, rất thân, muốn nhờ tôi món tiền để kinh doanh một việc. Anh có thể đóng được vai người bạn ấy. Rồi tôi sẽ để anh và Sềnh gặp nhau tại nhà này. Tùy tài anh, anh sẽ là thầu khoán, là cử nhân luật, hoặc sinh viên trường thuốc. Anh sẽ phải ghen ghét hắn, coi hắn như kẻ thù. Trước mặt hắn, anh phải có một lần tặng tôi một cách kín đáo cái vòng kim cương, hoặc cuộn bằng cổ tay những giấy bạc, nghe chưa? Làm như vậy, là bảo cho hắn biết rằng hắn cũng nên theo gương ấy. Nếu hắn ghen tuông, tất hắn lại phải làm gương cho anh, mà phải làm cái gương sáng hơn.
- Nhưng kiếm đâu ra những vật ấy?
- Anh này vẫn còn thật thà. Thì cuộn giấy bạc của anh không thể là cuộn giấy nhật trình được à? Cái vòng kim cương của anh không thể là cái que uốn tròn mà anh đựng trong một cái hộp đẹp được à? Miễn là lúc trao cho tôi, anh cho hắn hơi biết một tí rồi tôi sẽ có cái nét mặt, cái con mắt nó giá trị ngang với thứ anh tặng tôi là đủ. Hắn tự đoán rồi tự hiểu lầm là được chứ gì. Thỉnh thoảng anh lại vờ gửi tôi giữ hộ độ giăm nghìn. Anh nói là tiền được lãi, tiền anh lấy cắp của cha mẹ, cái đó tùy ý.
Cát gật gù ra ý cảm phục lắm. Thanh nói:
- Nhưng tôi cất đồ đạc hôm nay, là muốn cho hắn tin rằng tôi giúp anh tức là giúp một người bạn thân mà tôi không tiếc gì cả.
Cát lắc đầu bảo:
- Không được. Thế thì hỏng việc. Sềnh sẽ thấy chị yêu tôi. Hắn sẽ nản chí. Hiện chị giấu bộ bàn ghế vào trong nhà à?
- Phải.
- Thế thì khi hắn đến, chị phàn nàn rằng tôi định nhờ chị một món tiền, mà chị thì không muốn bỏ ra cho tôi tiền. Như vậy, hắn mới có hi vọng cướp được trái tim của chị. Chị bảo hắn rằng sở dĩ chị giấu bộ bàn ghế vào trong nhà, là vì muốn giấu tôi. Chị muốn tỏ cho tôi biết là chị túng đến nỗi chị đã phải bán cả đồ đạc đi, thì còn tiền đâu mà cho tôi nữa. Như thế, đến lúc tôi tặng chị thứ nọ thứ kia, thì hắn muốn tranh chị, hắn mới tức khí được.
Thanh rũ ra cười, khen:
- Thế thì thần tình quá.
- Mà luôn luôn chị cho hắn biết là chị không yêu tôi, song chị không nỡ xử tàn nhẫn với tôi mà đoạn tuyệt tôi một cách gọn gàng.
Cát đắc chí, đứng giậy đi bách bộ vài vòng, để nghĩ thêm kế, rồi hỏi:
- Chị có thể không ở đây trong vài hôm không?
- Làm gì?
- Chị nên tránh nhà này, chị để tôi ở đây. Tất thế nào Sềnh lại đến thăm chị. Tôi gặp hắn, tôi sẽ tiếp hắn. Tôi nói rằng không biết chị đi vắng đâu và bao giờ về, mà không dặn gì người nhà. Tôi bảo hắn là có lẽ chị muốn trốn tôi, nên tôi cứ ở lì đây đợi chị. Độ ba hôm nữa chị viết cho Sềnh một cái giấy, cho hắn một chỗ hẹn. Chị bảo rằng chị rất khó chịu với tôi. Gặp hắn, chị nói chuyện tôi cho hắn nghe. Ấy đại khái như thế, thì hắn mới không nghĩ cách hành động của chị và tôi được. Rồi chính tôi lại vờ không biết Sềnh là Khách mà hỏi dò hắn một người Khách nhân tình của hắn. Như vậy, hắn mới cảm chị.
Thanh thích chí, nói:
- Khá lắm!
Tối hôm ấy, một mình bắc ghế ra ngoài góc sân, Thanh ngồi vơ vẩn nhìn trăng. Bóng trăng mờ lại nhắc cho Thanh nhớ tới cái đêm bị bắt ở góc đình. Rồi những đám mây tan hợp làm cho Thanh nghĩ đến những hồi lắm tiền nhiều bạc, những độ túng kiết đồng xu nhỏ chẳng có để tiêu. Bỗng Thanh tưởng tượng đến ngày sau. Thanh muốn để dành để dụm lấy cái vốn kiếm một người chồng tử tế. Chứ giang hồ mãi, thì long đong suốt đời. Sực Thanh nhớ đến bố, Thanh bèn nhân vài hôm sau, thì về nhà quê. Nhưng về nhà quê, có nên không? Bây giờ Thanh đã cạo răng trắng, ăn mặc tân thời. Vậy chẳng lẽ cứ lối điếm đàng thế này mà về làng à? Người làng thấy một cô sang trọng sẽ đổ ra xem. Nhưng đến khi nhận thấy Thanh, chắc họ cười cho chết vì cha Thanh là thằng mõ. Bởi vậy, hôm sau Thanh rẽ giữa, vấn cái khăn xa-tanh, mặc áo vải nâu, quần sồi thâm và dận đôi guốc Sài Gòn về làng.
Song, tuy vậy mà trông Thanh vẫn có dáng, cái dáng mềm mại của con người ăn chơi mà Thanh mới học được.
Về đến đầu làng, Thanh sợ người làng nhìn thấy bộ răng trắng, bèn lấy vạt áo che mồm.
Cũng có người gặp Thanh thì hỏi, nhưng phần nhiều khi trông Thanh ở đằng xa thì nhìn, nhưng lúc đã nhận ra Thanh thì quay đi. Rồi khi Thanh đã đi quá, thì lại nhìn theo, mà bĩu môi cùng nhau hoặc tìm những câu rất đau đớn để nói cạnh nói khóe.
Thỉnh thoảng, một vài câu mỉa mai có lọt vào tai Thanh, nhưng Thanh không giám giận, Thanh không giám nhìn lại xem ai đã chua ngoa.
Qua góc đình, qua ngõ bà Trưởng ban Đạo đức, qua nhà ông Chánh hội, Thanh thổn thức, rồi sượng sùng một mình.
Đến nhà, Thanh thấy cha già, còn khỏe mạnh, song vẫn tiều tụy hèn hạ như xưa. Thanh cảm thương, trong lòng thổn thức.
Cha Thanh gặp con, mừng rỡ, chuyện trò hỏi han Thanh về công ăn việc làm. Thanh nói thực cùng cha cái nghề hiện tại của mình, và hứa thỉnh thoảng sẽ gửi tiền về cho cha tiêu.
Sáng hôm sau, khi đang ngủ dở mắt, bỗng Thanh thấy lao sao có tiếng người ở ngoài ngõ.
Rồi cha Thanh hớt hơ hớt hải chạy vào bảo:
- Các cụ! Mày ơi, trốn đi.
Chẳng hiểu việc gì, Thanh vùng dậy, nhớn nhác thì đã thấy năm sáu bóng người lố nhố ở cửa ngoài. Cha Thanh mắt xám lại, đứng khúm núm nhìn Thanh ra ý bực mình lắm.
Ông Chánh hội, ông Phó hội, ông Thủ quỹ, ông Thư ký, ông Lý trưởng, bà Trưởng ban Đạo đức và Khán thủ cùng sáu anh em tuần giáo mác cầm tay, tiến vào. Thanh nhận ra vẫn những mặt cũ cả.
Ông Lý trưởng nhìn Thanh, nhìn cha Thanh, rồi trỏ vào mặt Thanh mà nói:
- Con kia, mày dẫn xác về đây làm gì? Mày đã bị trục xuất ra khỏi làng này, mày còn về làm gì? Mày lại muốn gieo rắc thuốc độc cho làng này nữa hay sao?
Thanh tức đầy ruột, song nghĩ đến cha, nên phải nghẹn lời, Thanh thấy ông Chánh hội nhìn lảng ra ngoài sân, mà bà Trưởng ban thì vẫn nghiêm khắc, nhưng cúi đầu xuống đất. Cha Thanh chắp tay thưa:
- Lạy các cụ, cháu không nhắn nó về, tự nhiên nó về đấy ạ. Từ hôm qua, cháu đuổi nó đi quầy quậy mà nó không đi.
Ông Lý lại hầm hầm thêm, diếc:
- Phỉ hổ! Bước ngay lập tức, mày làm bẩn cả làng tao ra. Muốn sống có đường có nẻo thì cút. Khán thủ đâu!
- Dạ!
- Bảo tuần dẫn con bé này ra ga lấy cho nó cái vé.
Thanh bỗng nức nở khóc. Cha Thanh nhìn Thanh, hai con mắt sợ sệt và cảm động, rồi lại gần Thanh giậm chân xuống đất vờ thì thầm mắng:
- Tao đuổi mày từ hôm qua, mà mày không nghe tao, để làm rầy rà đến các cụ. Thôi, thu xếp mà đi đi.
Mọi người nhìn Thanh, ai cũng gớm mặt.
Thanh căm hờn, mặc áo, vấn đầu, rồi đi theo bọn tuần. Ra đến cửa, Thanh nhìn lại cha, rớt nước mắt. Nhưng khi Thanh trông thấy một bầy các cụ nhìn theo mình một cách khinh bỉ, thì cáu lắm, Thanh nhất định trả thù. Cái cách trả thù không mất tiền mà có thể làm được ngay là bãi nước bọt, Thanh bèn lườm mọi người, bĩu môi dài, và nhổ đánh bẹt một cái.
Lúc ra khỏi ngõ, Thanh nghe thấy rõ ràng tiếng ông Chánh hội quát tháo:
- Thằng mới phạm lỗi làng, tội phải một bữa chén hai gà và một chai rượu. Nếu mày không có sẵn, thì bắt gà hàng xóm rồi đền sau nghe chưa!
Thanh hăng tiết quay lại, nhưng bị lũ tuần xừng xộ, chắn đường, rồi Khán thủ lôi tay Thanh đi sềnh sệch...
Chẳng bao lâu, Thanh là cái tủ sắt để Cát và Sềnh đấu nhau gởi tiền. Nhưng thực ra, Cát chỉ gởi Thanh cuộn tờ nhật trình ngoài bọc một lượt giấy bạc của Thanh đưa cho, chứ cái cuộn ở túi Sềnh bỏ ra mới thật có giá trị. Nhiều hôm, không cần nghĩa lý và không cần cớ đứng đắn, Sềnh cũng cứ nhờ Thanh giữ hộ tiền, miễn là lúc trao vào tay Thanh có mặt Cát ở đó.
Rồi cái cuộn bạc của Cát và của Sềnh cứ thi nhau mà to.
Nhưng Thanh là một người bạn rất tốt. Không lần nào, cả những lúc rất túng thiếu cũng vậy, Thanh không hé răng mượn bạn đến một đồng xu nhỏ. Sềnh phục Thanh ở chỗ đó.
Một hôm Sềnh biết mình sắp chiếm được trái tim của Thanh, nhân tiện để cho Cát phải quy hàng trước đống tiền bạc của mình, Sềnh đến nhà Thanh, sau một vài câu khích bác Cát, và tỏ ý khinh miệt Cát không thể nào tranh Thanh bằng tiền của được với mình, Sềnh bèn làm như sực nhớ ra một điều gì, bèn vỗ túi, móc ra một tập giấy một trăm, và nói:
- Anh nhờ Thanh giữ hộ món tiền này!
Thanh nhăn mặt, đáp:
- Gớm! Chẳng đêm nào em được ngủ yên với những số tiền của các anh ở trong tủ cả. Thôi, lần này thì chịu. Giữ bạc trong nhà thì lo ngay ngáy, chứ được gì.
- Thì Thanh có túng cứ lấy mà tiêu.
Thanh lắc đầu:
- Không khi nào. Dù kiết đến chết, em cũng không tiêu nhăng tiêu bậy. Đấy, anh Cát chẳng biết tính em nhỉ.
Cát gật đầu:
- Cho nên anh mới dùng em làm cái két.
Nói đoạn cười một mình. Sềnh nói:
- Thật vậy, Thanh là cái két, mà cái két chắc chắn hơn két sắt.
- Các anh chỉ biết khen em, chứ có biết đâu rằng em chỉ sợ đêm hôm vắng vẻ.
Sềnh nói:
- Mất thì thôi chứ làm gì cái vặt. Những món tiền này là ba má cho anh tiêu riêng. Vậy em cứ chịu rầu giữ hộ anh.
Thanh bất đắc dĩ giơ tay ra cầm:
- Bao nhiêu đây?
- Ồ, không cần đếm lại, mất thì giờ, cứ cất đi.
- Toàn giấy trăm cả đấy chứ?
- Phải.
- Bao giờ lấy?
- Bao giờ lấy cũng được. Mà anh muốn Thanh giữ cho anh, đừng đưa anh mà anh chỉ tiêu phí.
- Nhưng bao giờ anh cần lấy, mà em đưa anh, thì đừng như mọi khi nhé. Anh nên đếm cho cẩn thận.
- Ồ, không cần! Thanh có làm gì đâu mà suy xuyển?
Thanh nói đứng đắn:
- Thật đấy, cẩn thận thì hơn, vì lỡ ra em lại đưa anh ngay cái gói của anh Cát gởi thì làm thế nào? Được lãi thì hẳn anh im, nhưng lỡ ra bị thiệt, thì chẳng lẽ anh bắt đền em à?
Rồi Thanh cười, mà Sềnh thì đã có ý giận:
- Không đời nào anh được lợi. Nếu có sự lầm, chắc anh bị thiệt mười mươi. Vì anh Cát! Tôi quyết không khi nào anh có những món tiền to hơn tôi để gởi Thanh đấy.
Cát vờ tức tối, bĩu môi, không nói. Được thể, Sềnh tiếp:
- Tôi tiếc rằng Hà Nội chẳng là Thượng Hải.
Cát đáp:
- Tôi không cần trả lời những sự hợm hĩnh của anh. Anh hỏi ngay Thanh xem trước kia, Thanh với tôi đã ăn tiêu xa xỉ với nhau đến bực nào. Chính tay Thanh đây, đã giữ bao lần cho tôi tiền vạn.
Thanh làm ra vẻ ngậm ngùi, nhìn Cát nói:
- Bây giờ anh với em cùng không được như trước, thì nhắc làm gì đến những chuyện ngày xưa cho tiếc. Em còn nhớ rằng anh đã làm em sợ mất mật, cái đêm anh vờ làm bọn tống tiền che mặt rồi cầm súng lục giả đến dọa em phải đưa anh một hai vạn.
Rồi hai người nhìn nhau cười. Sềnh thấy Thanh và Cát cười riêng với nhau, thì càng tức hơi. Nhưng Thanh vội can:
- Anh Sềnh, xin anh trấn tĩnh lại. Anh Cát trước lựa dùng em làm cái két, thì bây giờ đến lượt anh đến nhiễu em. Nào các anh mất gì. Nào em được gì. Đó chỉ là câu chuyện mua vui, sao các anh đã vội bất bình với nhau. Em giữ hộ các anh tiền là giúp các anh một việc cỏn con, em chẳng giận các anh phiền em thì thôi, sao các anh lại cãi nhau như thế!
Sềnh dịu, nhưng đứng dậy cáo từ ra về. Cát cũng ra sau năm phút.
Nhưng vừa đặt lưng trên ghế, Thanh đã thấy Sềnh trở lại, hầm hầm nói:
- Thằng cha ấy chướng quá, em tiếp nó làm gì?
- Thì anh tính anh ấy đến chơi chẳng lẽ em đuổi.
- Em không đuổi ra mặt, nhưng đuổi ngầm. Nghĩa là em dặn người nhà nói rằng đi vắng, hoặc lúc nó ngồi với em, em cứ lãnh đạm. Nó hỏi gì thì em nói, mà nói những câu rõ ngắn thôi.
Thanh nhìn Sềnh một cách khó chịu nói:
- Nhưng xin anh nhớ cho em rằng Cát với em là đôi bạn cũ. Thất vọng, Sềnh nói:
- Nếu vậy...
Thanh vội nói chữa, nên cướp lời:
- Là đôi bạn cũ, nên bây giờ muốn tẩy hắn, em lấy làm khó nghĩ lắm. Em chỉ thương hại hắn vì hắn vẫn tin cậy em mà gởi tiền.
- Phải tẩy đi là hơn. Cái gì trên thế gian này không thay đổi, thì bụng dạ người ta vững bền như xưa sao được? Em biết đâu hắn không định lừa em?
Thanh cắn móng tay nhìn xuống đất ngao ngán lắm. Sềnh châm thuốc lá hút phì phèo, rồi nói:
- Được, em dọn nhà đi chỗ khác, mà đừng cho hắn biết.
Thanh lắc đầu:
- Nhà này vừa thuê rẻ tiền, vừa rộng rãi mát mẻ. Em không quen ở những nhà chật chội.
- Thì anh tìm cho em cái nhà rộng.
- Nhưng đắt tiền. Em quen một người có cái nhà đẹp lắm, nhưng người ta bắt chồng tiền năm mà em không có.
- Bao nhiêu?
- Bốn trăm kia!
- Được, anh cho vay. Rồi anh cho vay cả tiền mà sắm sửa đồ đạc cho nó xứng với cái nhà ấy. Nhưng em đoan với anh rằng em phải tẩy thằng cha Cát đi.
- Em thương Cát lắm. Mà nếu anh biết bụng cho em, không bao giờ em nỡ đoạn tuyệt bạn cũ. Rồi đến lượt anh, anh sẽ biết.
- Thì em cứ chiều anh, cứ nghe anh. Em nên dọn nhà đi ngay ngày mai. Để anh về, anh lấy cho em một nghìn. Em cứ tiêu, bao giờ em trả anh cũng được. Như thế mới nhổ được cái gai trước mắt.
Thanh chống tay vào má nghĩ ngợi nói:
- Lần này là lần đầu mà em phiền một người bạn trai.
- Không hề gì, vì em chiều ý anh mà thôi.
Nói đoạn Sềnh về, hẹn đến chiều sẽ lại đưa cho Thanh số một nghìn ấy.
Tối hôm đó, Thanh giở đếm từng tờ trong tập giấy bạc trăm của Sềnh gởi, rồi xếp lẫn vào số tiền Sềnh cho vay, Thanh mỉm cười, đắc chí:
- Món tiền hai nghìn rưởi này vào tay ta một cách tự nhiên, đến nỗi giá kể chuyện cho ai nghe, người ta có thể cho là bịa!
Rồi lập tức, Thanh vấn đầu, đánh phấn, xếp các quí vật vào trong va-li con, và gọi đầy tớ lên, Thanh dặn:
- Hễ chốc nữa hay mai, ông Cát có đến đây thì nói rằng tao đi vắng độ nửa giờ tao về, mà hễ ông Sềnh hỏi, hãy nói rõ rằng tao đi đặt tiền nhà nhé.
- Thưa bà mang cả va-li đi?
- Tao mang đi chữa.
Nói xong Thanh ra cửa, thoăn thoắt nhẩy lên xe, bảo kéo mau, rẽ bên phải, rẽ bên trái, rồi bắt đặt ở thềm nhà ga. Thanh vội vàng đến phòng lấy vé, rồi chạy ù lên xe lửa. Chửa kịp ngồi, xe đã huýt còi, từ từ chạy, rồi xa dần nơi cố đô Thăng Long và biến vào trong lượt sương dày phủ trên cánh đồng không mù mịt thẳm.
Viết đến đây, tác giả mặc cho Thanh được yên tĩnh về chỗ ở mới để nghĩ dùng món tiền hai nghìn rưởi của Sềnh, và xin trích mẩu thời sự của một tờ báo hàng ngày vào khoảng mấy năm về trước:
Một vụ lừa đảo kỳ khôi
Nguyên Ming Sềnh là con nhà giầu, năm nay 20 tuổi, chưa vợ, một hôm ở phòng nhảy đầm của một người bạn ở phố Hàng Bát, chàng làm quen với một người con gái, mà chàng chỉ biết tên là Thanh.
Từ đó, Sềnh và Thanh hai người đem lòng yêu nhau, mà trong khi bị ma tình ám ảnh, Sềnh đã để cho Thanh tiêu đến hàng nghìn, hàng vạn.
Thanh lại có một người bạn trai tên là Nguyễn Thượng Cát, 25 tuổi cũng chưa vợ, xưa nay chỉ làm nghề lừa đảo. Cát với Thanh là đôi bạn cũ, nên khi thấy Sềnh dại gái, Cát liền xui Thanh lừa một món tiền hai nghìn rưởi, rồi cao chạy xa bay.
Nay Sềnh tỉnh ngộ, liền đến sở Liêm phóng trình, và phát đơn kiện một người đàn bà tên là Thanh và một người đàn ông tên là Nguyễn Thượng Cát. Sáng hôm nay các nhà chuyên trách đã bắt được Cát còn vơ vẩn ở nhà Thanh. Hỏi Cát thì Cát chối không biết món tiền ấy, mà hắn khai rằng cũng bị Thanh lừa một đồng bạc. Nay hắn cũng không rõ Thanh đi đâu.
Cuộc điều tra đang tiến hành.
* *
Tại tòa án
Kết liễu vụ lừa đảo kỳ khôi. Cô gái tên là Thanh, bạn của Sềnh hiện vẫn trốn, Nguyễn Thượng Cát bị hai tháng tù và bồi thường cho nguyên đơn số tiền hai nghìn rưởi. Hiện Cát còn chống án.
Nguyên... (tước bỏ một cột rưỡi)
... Tòa tuyên án phạt Nguyễn Thượng Cát hai tháng tù về tội lừa đảo và đến số tiền hai nghìn rưởi cho nguyên đơn v.v.
Căn nhà ấy rộng bảy thước, mặt trước quay ra phố lớn nhất tỉnh, mặt sau có cổng sắt cho ô-tô đi lọt. Nhà làm bằng xi-măng, kiểu tân thời, rất kiên cố. Đó là dinh cơ của Thanh, mới làm xong tháng trước. Bây giờ Thanh đã trở nên nhà tư bản. Cứ trông những sập gụ tủ chè, gương đứng, các ngà voi, tượng ngọc thạch, thì ta đủ biết bây giờ Thanh an nhàn sung sướng là ngần nào. Thật vậy, từ khi Thanh trốn Hà Nội mà về tỉnh này, thì Thanh quyết chí làm giầu, để lấy chồng. Tuy bây giờ mục đích chưa đạt xong, đó chỉ vì Thanh chưa chọn được mặt để gởi vàng mà thôi.
Ông Huyện góa vợ, thì Thanh chê là già; ông Tham chưa thành gia thất, thì Thanh chê là không chín chắn. Ông Nghị sẵn tiền sẵn của, thì Thanh chê là dốt; ông chủ báo rắn rỏi, vui vẻ, thì Thanh ngờ rằng láu quá; ông tư bản có đồn điền, thì Thanh sợ "khách trọng lợi khinh đường ly cách" rồi để "quanh thuyền trăng giãi nước trôi lạnh lùng".
Người ta kêu Thanh kén kỹ quá, người ta mỉa Thanh sẽ chết già, nhưng Thanh chỉ mỉm cười, mỉm cười khinh bỉ, mà trả lời:
- Thà chết già mà trong bụng được sung sướng còn hơn đem chôn sống đời mình trước khi hết số mệnh của trời.
Người ta đem hai chữ ích kỷ để khuyến khích Thanh không nên cô độc, người ta bảo Thanh chớ nên đầy đọa tấm thân trong đời quạnh hiu, thì Thanh bĩu môi, đáp:
- Đó là những lời nói của người không hiểu tôi.
Mà Thanh nói đúng lắm. Thanh có chịu quạnh hiu, chịu cô độc bao giờ đâu. Hằng ngày, nhà Thanh rầm rập những khách.
Khách của Thanh là những hạng người không phú thì quí, vì Thanh không tiếp những người thường bao giờ. Người ta vẫn thấy những chiếc ô-tô thật đẹp đỗ ở trước nhà, mà chủ xe, nếu là người mặc quần áo An Nam thì khám túi sao cũng có chiếc thẻ bài ngà, quấn gọn sợi dây đỏ, nếu là người mặc quần áo tây, thì cái ví để trong áo ngực cũng phải dầy dặn, mà dầy dặn những tiền. Không ai đến nhà Thanh, lại chỉ mang có trái tim xoàng bằng thịt. Vì cái ấy, đối với Thanh nó không còn nghĩa lý gì nữa. Đã có lần Thanh nói đùa với một nhà văn kiết:
- Cảm ơn anh, trái tim của em, đã bị em đem đi hiến người ta nhiều lần, bây giờ nó thành trai ra rồi, chỉ có vàng bạc mới vạch cho nó thành vết được.
Thanh nhận thấy trong bọn những người tri kỷ, rất ít người thật bụng kết hôn với Thanh, ai cũng như muốn cưới cái ngôi nhà đồ sộ. Họ thật không có lòng bác ái.
Trái lại, Thanh coi ai cũng như ai, Thanh yêu hết cả mọi người, mà Thanh lại từ bi nữa, khi nào cần, thì hết sức cứu người ta ra khỏi cơn tai nạn.
Một lần, trong nhà Thanh, cũng như mọi tối, có đám xóc đĩa lớn. Trong khi con bạc đương vui đùa bỡn nhau bằng những cuộn bạc khá to thì đầy tớ chạy vào báo có một vị nhân viên trong sở mật thám đến. Thế là dào dào, họ chạy như vịt. Ai nấy mặt tái xanh. Họ chuồn cổng hậu, họ leo mái nhà, họ nằm ép vào chỗ tối. Song Thanh chẳng sờn lòng, thản nhiên ra tiếp khách. Lúc khách ra, Thanh mới nhặt nhạnh tiền nong rơi vãi.
Thanh thường nói:
- Để phúc đức lại ngày sau, mất gì?
Quả Thanh tha thiết cầu phúc lắm. Trên gác trong nhà Thanh, có một cái điện rất thiêng. Tối nào người vào lễ cũng đông rầm rập. Chẳng thiêng, sao Thanh đã nằm mộng luôn luôn thấy Ngài. Ngài bắt sắm đôi chóe sứ. Ngài dục Thanh sơn lại cái khám. Ngài bảo Thanh đến tháng một thì tự nhiên có tài. Những con công đệ tử đến lễ ở điện cũng phải là những người đủ tư cách để thờ Ngài. Những đồ thờ trong điện, quá nửa là đồ cung tiến. Người ta đến đó, để cầu phúc, cầu tài; người ta đến đó để nhẩy theo nhạc điệu của mấy bác cung văn trẻ; người ta đến đó để nghe những tiếng khen trẻ, khen đẹp, khen oai mà quên những sự đau khổ thực của cái đời thực. Những lư trầm, khói lên nghi ngút, những ngọn hương làm lờ mờ trong phòng, cũng làm cho người tâm thành như mơ, như mộng, như sống được một phút sung sướng trong đời thần tiên.
Rồi thì người nương tựa vào Thanh cũng không phải là ít. Những người vẫn gọi Thanh là bà lớn, được Thanh ban tiền cho luôn luôn. Ai vụng, thì phải nộp ngay cả gốc lẫn lãi, ai khéo thì Thanh cho chịu lâu hơn. Người ta tặng cho Thanh cái tên là Phật bà. Người ta đặt Thanh lên địa vị nhà Từ thiện.
Quả vậy, những việc Từ thiện trong thành phố, không việc nào không có tên bà Hai Thanh. Lấy tên bà Hai cho có vẻ đứng đắn, hoặc không cho người ta nhớ đến việc chú Sềnh. Những khi vào dự hội đồng một cuộc làm phúc nào, là bao giờ Thanh cũng được người khác vì nể. Người làng Thanh cũng có vài anh lò mò đến được nhà Thanh. Thanh cưu mang cho mấy tháng đầu, rồi kiếm cho họ được công ăn việc làm cả.
Thanh không muốn nghe đến việc làng việc nhà. Mà người ta cũng không dám kể cho Thanh rác tai nữa. Người ta chỉ biết nhờ ơn Thanh, thì phải coi Thanh như một vị ân nhân mà thôi.
Nhưng mà năm ấy vỡ đê. Xem báo, Thanh hơi thấy cảm động, vì thấy nói nước tràn ngập cả tỉnh Hải Dương, Hưng Yên và Bắc Ninh, Thanh lo cho cha Thanh già yếu, không biết có chịu đầu ngọn sóng ngọn gió hay không.
Thanh bèn phái người về, thì người này kể cho Thanh nghe rằng:
- Thưa bà, nhà quê ngập hết cả. Chỗ cao như nhà ông Chánh hội, thì nước đến đầu gối. Chỗ thấp như nhà bác Khán Tý thì đến mái tranh. Thanh lắc đầu thở dài, ngậm ngùi. Người ấy lại kể:
- Rồi năm nay đói to.
Thanh rất cảm động.
Chờ cho nước ra hết, đường xá vừa ráo khô, Thanh nhất định về thăm nhà.
Lần này, thì Thanh không còn e lệ gì nữa.
Thanh mượn chiếc ô tô hòm rất mới, đi như bay về làng. Đến chỗ cây đa, Thanh cho xe trở về, một mình đi bộ, mà đi rõ thong thả.
Thanh thấy quang cảnh điêu tàn mà thở dài. Những đứa bé bụng ỏng mắt toét, đi theo Thanh để xem. Thanh tay cắp ví, tay che dù, đứng dừng lại trước cửa đình và trước cửa miếu. Thấy cái cổng chùa đổ, Thanh xiết đỗi ngậm ngùi. Rồi Thanh nhận vệt nước phù sa hãy còn như vẽ trên các lá ở hàng rào râm bụt, những nhà xiêu vách lở, đường làng thì buồn tênh tẻ ngắt, trong nhà thì nheo nhóc tiêu sơ, Thanh lắc đầu, quay về phía cánh đồng hoang tàn trơ trơ những gò cát đục.
Về nhà, Thanh thấy cha ho súng sắng, nằm liệt ở trên giường. Thanh lau nước mắt, ngồi cạnh, lật chiếc chiếu rách ra, sờ lên trán răn reo của ông già mà thổn thức. Cha Thanh thấy con về thì lạ, rồi mừng ứa nước mắt.
- Lâu nay không được tin tức của mày, tao có ngờ đâu mày còn sống.
Thanh đáp:
- Người làng thỉnh thoảng có qua lại nhà tôi, họ không nói lại với ông à?
Cha Thanh gượng ngồi dậy, lắc đầu:
- Không... Bây giờ mày làm ăn có khá không?
- Đủ ăn. Tôi đã mua được cái nhà.
Trợn mắt ngạc nhiên, ông già hỏi:
- Thật à? Nhà tây hay nhà ta?
Thanh mỉm cười sung sướng:
- Rồi ông ra đấy mà ở, tội gì!
Cha Thanh lắc đầu, than:
- Ở nhà ai cũng túng, mày ạ.
- Lâu nay có gì lạ không? Ông?
- Thay đổi nhiều. Mày đi lâu mới về, không thấy có gì khác à? Thanh gật:
- Có.
Rồi thấy năm sáu người cả lớn lẫn bé đứng ở cổng dòm vào, Thanh tỏ bộ khinh bỉ, quay lưng ra, nói tiếp:
- Tôi thấy buồn tệ.
Ông già gật:
- Buồn thật! Các cụ già thì về cả, bây giờ những bọn ương dở lên làm việc làng, nhiều cái khó chịu chết lên được.
- Thế cái bàn Chấn hưng cái gì ấy còn không?
- Không, vì bà ấy có mang rồi đi mất.
Thanh trợn mắt:
- Chính bà ấy có mang. Phải gió! Có mang với ai, thầy biết không?
- Có mang với ông Chánh hội sau.
- Thế ông Chánh hội trước đâu?
- Rồi ông ấy thôi, không làm nữa. Nhưng kiết tệ, vì không làm việc làng thì xoay vào đâu mà ăn? Trông ông ta bây giờ ái ngại lắm, mà càng ngày càng lèm bèm.
Thanh vụt nhớ cái tối hôm bị bắt cùng những buổi ái ân xưa kia, rồi Thanh lại nghĩ đến vẻ mặt của những người làm việc làng thưở trước. Thanh cắn môi nghĩ một lát, rồi nói:
- Từ nay tôi về nhà luôn, ông ạ. Cha Thanh nhăn mặt:
- Đừng, đừng, rồi lại như lần trước ấy!
Thanh về nhà luôn thật. Song không lần nào Thanh bị người ta đuổi cổ đi bao giờ, trái lại người ta quí, người ta trọng, người ta kính. Người ta tôn Thanh, gọi là bà chủ.
Nghe tiếng đó, Thanh mỉm cười, nói mỉa mai với cha:
- Thì chẳng lẽ họ gọi tôi là con Thanh. Mà họ không dám gọi tên tôi, vì sợ mất vẻ thành kính. Họ phải kiếm cho tôi một cái chức tước mập mờ, ai cũng có thể có, mà ai cũng không thể có, là bà Chủ!
Rồi Thanh gật gù đắc chí.
Buổi sáng nào cũng vậy, bảnh mắt ra, bọn trẻ con đã nheo nhéo:
- Lạy bà chủ, xin bà chủ một xu.
Thanh phải đổi sẵn hào từ tối hôm trước để phân phát.
Với người túng, Thanh cho vay không lấy lãi, có khi giúp không một món tiền. Vì vậy cái nhà Thanh ở với cha, trước kia không ai thèm gọi là nhà, vì nó chỉ còn đợi một cơn gió nhỏ nữa, là ngã sụn xuống, vụn ra cám. Nhưng mà bác Khán thủ đã vì một bữa rượu của bà chủ, mà đốc thúc lũ tuần làm lại, trông rất tinh tươm.
Ở đầu làng, cạnh bờ sông, hai ba chồng gạch xếp như những quả núi con, chờ ngày tốt, là bọn thợ nề dưới cuối tổng đem ra lát đường làng, từ đầu đến cuối. Mà xong việc đường, Thanh còn hô hào cả việc xây cổng tam quan cho chùa và quyên giáo thập phương lấy ít đồng để đúc chuông.
Thỉnh thoảng về làng, dạo chơi khắp chỗ nọ, chỗ kia, Thanh đã tưởng tượng được cái bề ngoài của làng phồn thịnh. Thanh đi ở đường, người ta ngả nón chào. Người ta hỏi thăm hôm nào Thanh ra Hà Nội, để người ta kịp đến chơi.
Rồi người ta chịu khó nể cụ Mõ mỗi khi có việc ở đình, không có ai mà sai bảo nữa. Vì ai nỡ sai thằng mõ mọi khi, bây giờ nó là cha Thanh, là ông thân sinh ra bà chủ, nghĩa là cụ chủ. Người ta gọi thế.
Các cụ ở làng hay đi lại nhà cụ Chủ, vì cụ tốt lắm. Cụ tốt vì con gái cụ tốt. Con gái cụ tốt, vì tiền của con gái cụ, bao nhiêu người được tiêu!
Bây giờ người ta muốn giữ hẳn bà chủ ở làng, không muốn để bà nay đây mai đó. Chính cụ Chánh hội trước đã đi với một vài cụ nữa, đại diện cho làng, đến nhà bà, mà nói rằng:
- Thưa bà, nếu bà không ở nhà luôn, thì rồi công việc làng ta đến nát bét. Bây giờ làng ta trừ bà ra, thì dân không còn sợ ai nữa.
Mà thế thật. Việc gì cũng vậy, nhỏ hoặc lớn, đố ai bảo được ai. Dù dùng đến lệ làng, dù cả hội đồng hương hội cố bắt ép, nhưng không ai vui lòng nghe theo bằng một tiếng nhỏ ở cửa miệng tươi tắn của bà Chủ. Từ ngày được dân làng trọng vọng thì bà Chủ sinh ra đứng đắn, nghiêm trang. Bà lại có dáng dấp kẻ cả nữa.
Ông Chánh hội cũ cố mong cho bà quên cái tội xưa của mình đã dám xấc với bà; một hôm đến vay tiền bà, ông có nói bóng:
- Thưa bà, chúng cháu nhiều lúc hối hận vì ngày trước quá ngông cuồng.
Bà chủ hiểu, cười một cách đại lượng nói:
- Ai làm việc làng chả phải theo đúng lệ luật. Giá như tôi làm Chánh hội, thì nhiều lúc bất đắc dĩ, tôi cũng phải ác, không ác sao chạy được việc. Bất độc bất anh hùng là nghĩa thế.
Ông Chánh sung sướng, cảm ơn bà biết bụng cho mình, giơ hai tay ra đỡ lấy tờ giấy bạc, rồi đến phản bên, nịnh nọt cụ Chủ.
Tiếng thơm bà chủ lẫy lừng. Làng khác lấy làm ghen vì không có được một người như bà Chủ này.
Một hôm quan Huyện về làng, nhân ngài hiểu dụ về một vài việc công ích ngài cũng cho mời cả bà Chủ ra ngồi dự thính, rồi thỉnh thoảng hỏi ý kiến. Mà ý kiến bà tức là ý kiến dân làng đó.
Đến ngày khánh thành tam quan thì chùa làng mở hội, bốn hôm liền. Khách thập phương đến lễ rất đông. Bà chủ đứng đầu việc đúc chuông, được người ta bắc ghế mời ngồi ở giữa thửa ruộng, để xem đổ khuôn. Hàng vạn người chăm chăm nhìn bà. Bà ngồi nghiêm trang, hai tay để vào lòng, nét mặt vui sướng. Trời nắng, người ta che lên đầu bà cái ô. Có người phe phẩy quạt cho bà khỏi nực. Song tóc bà vẫn rẽ lệch, mặt bà vẫn đánh phấn; thỉnh thoảng nhếch mép cười, bà vẫn để hở hai hàm răng ngà; người ta thì thào khen bà đẹp.
Bà lắc đầu, khi người ta mời bà sơi trầu. Bà chỉ mới cầm điếu thuốc lá ở tay, mà mấy người đã khom khom xin bà cho phép châm lửa.
Người ta ngắm cái quần trắng viền gấu của bà, đôi gì bà đi ở chân có dây chằng ngang, chằng dọc và cái áo sặc sỡ may theo kiểu chẳng ai hiểu. Người ta thì thào khen bà sang. Từng ấy người nhìn bà một cách cung kính. Liếc mắt qua một lượt bà chủ thở dài. Bà thấy những cô con gái nõn nà mười lăm, mười tám, cố lách được cái mặt đẫm mồ hôi vào trong để xem, bà nhớ lại thuở bé, bà ngậm ngùi:
"Đây là hình ảnh bà Chủ của làng V.N. vài năm hồi về trước. Thương thay bọn kia biết thuở nào chúng nó có nhiều bạc, lắm tiền, để được hưởng như ta hưởng những sự vinh hiển?"
Rồi nhìn chỗ các cụ đứng chen lách nhau ở dưới ánh mặt trời, cụ nào cụ nấy mồ hôi nhễ nhại, nét mặt ngu đần, bà thấy sung sướng, sung sướng như một ông tướng thắng trận.
Phải, chính bà Chủ đã thắng trận trên chiến địa kim tiền.
Viết năm 1935.
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
Mời đọc và lấy về PDF
Toàn bộ: Ông chủ bà chủ, những truyện thực từ mười năm về trước (NXB Đời Mới, 1944 - 213 tr.)
Ông chủ: Trang 7-112
Bà chủ: Trang 112-222
Bà chủ, tiểu thuyết. Đăng trong Tiểu thuyết thứ bảy số 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77 (1935). Đời Mới xuất bản (in chung với Ông chủ), 1944.
Tham khảo: Các bài viết liên quan





0 comments:
Đăng nhận xét
[im]your image url..[/im]
[youtube]your video url..[/youtube]
[si="10"]your text[/si]
[co="red"]your text[/co]
〈div style=""〉 TEXT〈/div〉