Ads 468x60px

.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan




Nguyễn Công Hoan là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam.

Ông sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, Hưng Yên,
mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội.


Các bạn có thể đọc tại đây (lấy trên Internet)
- Các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan,
- Các bài viết về Nguyễn Công Hoan.

Mời xem: Bách Khoa Toàn Thư mở - Wikipedia
♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣ ♣


Video: Nhà văn Nguyễn Công Hoan (Thực hiện: Trí Dũng, Ngọc Oanh, Huy Hoàng, Thúy Lành, Thùy Trang, Tuấn Anh - Trang thông tin điện tử Đài Phát thanh & Truyền hình Hưng Yên)

Featured Posts

Thứ Tư, 18 tháng 6, 2025

Suy nghĩ về sự tiếp nhận hình ảnh Tỳ kheo ni Việt - Nguyễn Thành Trung


Suy nghĩ về sự tiếp nhận hình ảnh Tỳ kheo ni Việt

Nguyễn Thành Trung



Trong bài viết Vai trò của Ni giới Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Thích Nữ Phúc Thuận đã nhìn Bát kỉnh pháp của Phật giáo nguyên thủy trong hoàn cảnh Ấn Độ cổ đại, xã hội quy định vai trò thấp kém của người phụ nữ Ấn Độ (ramani). Trước thời Phật, phụ nữ bị cho là nguồn gốc rắc rối, là ngọn đèn chiếu đường xuống địa ngục… từ đó khẳng định ủng hộ vì
Bát kỉnh pháp (Attha garudhamma) là cánh cửa phương tiện (paccaaya) để cho nữ giới đi vào. Đức Phật đã khéo léo vận dụng phương tiện (paccaya) thiện xảo này nhằm tránh né sự chống đối của xã hội và Tăng già với mục đích xã hội hóa tính hợp pháp cho nữ giới về quyền xuất gia tu hành
(Thích Nữ Phúc Thuận).

Hình ảnh Tỳ kheo ni trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại

Xưa, Jesus Christ thường hay dùng ngụ ngôn để giảng dạy môn đồ, Khổng Tử hay kể chuyện để giáo huấn học trò, Phật Thích Ca tùy đệ tử mà kể chuyện, đặt câu hỏi, qua đó giảng pháp. Bắt đầu bài nói chuyện bằng điểm chung chia sẻ với thính giả là con đường của diễn giả thành công, đưa người học đi từ cái biết đến cái chưa biết là cách thức của người thầy lớn. Tiếp nhận là phương pháp quan tâm đến người nghe, người đọc trong giao tiếp nhằm phát huy những kênh tương đồng, những mã tương hợp giữa người phát và người nhận.

Hầu hết người Việt Nam đều biết ca khúc của Mạc Phong Linh và Mai Thiết Lĩnh: “Chuyện tình Lan và Điệp”, Lan và Điệp trở thành hình mẫu để nói mối tình lứa đôi lãng mạn. Nguyên tác câu chuyện này là tiểu thuyết Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan, xuất bản vào năm 1933,

kể về chuyện tình của chàng trai tên Điệp và cô gái tên Lan ở một làng quê nọ, vốn hai nhà có đính ước từ xưa, hai người cũng “tình trong như đã mặt ngoài còn e”; Điệp khi lên tỉnh thi thì mắc lừa quan phủ phải cưới con gái ông là Thúy Liễu, cuộc sống gia đình không hạnh phúc; Điệp bỏ đi, học y sau mở phòng mạch riêng. Riêng Lan, vì đau buồn chuyện tình tan vỡ nên lên chùa Phương Thành, giả trai lấy tên Điệp, chôn xác bướm và hoa lan, khóc thương đau buồn trọng bệnh; Điệp mang về cứu chữa nhưng không kịp, Lan qua đời trên tay Điệp. Type truyện này ngày càng phổ biến, được chuyển thể cải lương, phổ nhạc, dựng phim, diễn kịch… tạo nên một hiện tượng lý thú trong nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX và đặc biệt là in sâu vào lòng công chúng những cảm thức, quan điểm thẩm mỹ nhất định. Có thể tóm lược hành trình phổ biến type truyện này thông qua bảng sau:


Bảng 1. Hành trình type truyện Lan và Điệp
STTTên tác phẩmNăm ra đờiTác giả/ đạo diễnMô tả: thể loại, diễn viên/ ca/ nghệ sĩ
1Tắt lửa lòng1933Nguyễn Công HoanTiểu thuyết, cốt truyện gốc
2Lan và Điệp1936Trần Hữu TrangCải lương: Năm Phỉ, Thanh Nga
3Hoa rơi cửa Phật1948 Cải lương đĩa nhựa ASIA: Tư Sạng, Năm Nghĩa… Viễn Châu viết lời vọng cổ: Mộng Tuyền,
Út Bạch Lan
4Chuyện tình
Lan và Điệp
1965Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng)Tân nhạc: 3 ca khúc Viễn Châu viết tân cổ giao duyên: Lệ Thủy
5Lan và Điệp1970Ban kịch Kim CươngKịch nói: Kim Cương
6Chuyện tình
 Lan và Điệp
1970Loan Thảo, Thế ChâuCải lương: Chí Tâm,
Thanh Kim Huệ
7Chuyện tình Lan và Điệp1972Lê DânPhim nhựa: Thanh Nga,
Thanh Tú
8Lan và Điệp2008Minh ThuậnCa vũ cải lương:
Đàm Vĩnh Hưng, Thanh Thảo


Theo diễn biến này, type truyện Lan và Điệp thể hiện ba đặc điểm, đồng thời cũng gắn kết thành một tiến trình nhân quả gồm: thay đổi chủ đề, bổ sung/chuyển đổi chi tiết, khắc họa đậm nét nhân vật Lan trong chùa.

Thứ nhất, type truyện gốc được viết trong cảm thức hiện thực phê phán, vạch trần bộ mặt xã hội thuộc địa thực dân nửa phong kiến Việt Nam dưới sức nặng đồng tiền dần chuyển sang khuynh hướng lãng mạn với đề tài tình yêu đôi lứa tan vỡ. Đến những năm 1930, thực dân Pháp hoàn thành công cuộc ổn định và bắt đầu khai thác thuộc địa, khủng hoảng kinh tế thế giới ập đến, người dân bị áp bức bóc lột đến cực điểm đã liên kết, tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa; xã hội rối ren, con người trở thành trò rối cho thế cục; lòng người bạc ác, hạnh phúc hóa ra hư ảo mong manh. Bản thân Nguyễn Công Hoan là nhà văn hiện thực phê phán, ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng khắc họa bức tranh đen tối của xã hội đương thời như: Đồng hào có ma, Kép Tư Bền, Bước đường cùngTắt lửa lòng phản ánh sâu sắc thực trạng đó thông qua việc xây dựng mối tình thơ mộng của hai nhân vật chính phải kết thúc trong chùa; cửa thiền trở thành lựa chọn bất đắc dĩ và nghiệt ngã.

Thứ hai, từ Tắt lửa lòng đến “(Chuyện tình) Lan và Điệp” dưới sự tác động của sức mạnh tiếp nhận, không chỉ thay đổi khuynh hướng tư tưởng mà còn được bổ sung, chuyển đổi thêm nhiều chi tiết. Trước hết là dấu ấn văn hóa, từ tiểu thuyết đến cải lương, type truyện này có một hành trình Nam tiến rõ nét. Về mặt ngôn ngữ, đẻ đã thành má, hỏng thành rớt; kịch bản cải lương bỏ chi tiết xin đỗ ở chương 1- Thôi còn chi nữa mà mong, và báo tin đậu cuối chương 4 Khoa. Nhưng quan trọng hơn là gia giảm chi tiết nhằm phục vụ cho chuyện tình của hai nhân vật chính. Đơn cử, bản cải lương không quan tâm Vũ (con Điệp) và cuộc sống về sau của Thúy Liễu mà khắc họa rõ hơn hoàn cảnh trong chùa của Lan với cái chết bi thương. Khâu thắt nút được đẩy lên cao hơn khi các soạn giả biến việc Điệp hỏi ý kiến cha con Lan (về chuyện cưới vợ) thành Lan trộm nghe, ứng với chi tiết đan cài từ trước, Lan nói: Nếu có chuyện gì chắc tui chết quá à, chắc tui đi tu quá à. Vì lẽ đó, trường đoạn Điệp đến chùa, Lan cắt đứt dây chuông được thêm vào, 15 năm xa cách được rút ngắn lại, chi tiết Điệp đem Lan về phòng mạch được thay bằng Điệp lên chùa, mặc áo sư ông vào gặp Lan.

Thứ ba, kết quả của những thay đổi trên là chùa trở thành mảng không gian quan trọng trong kết cấu nghệ thuật (Chuông đổ chùa xa – Lan và Điệp 1), tiểu Lan – tức Lan trong vai trò người tu hành Phật giáo tại chùa – xuất hiện trực tiếp và mang đến nhiều tác động thanh lọc thẩm mỹ (carthasis – chữ Aristotle) song cũng đồng thời đặt ra vấn đề về hình ảnh tỳ kheo ni Lan đối với công chúng. Từ góc độ này nhìn nhận, động cơ Lan lên chùa là để vùi lấp (không phải xả bỏ) chuyện tình duyên (nếu duyên không thành Điệp ơi! Lan cắt tóc quên đời vì anh – Lan và Điệp 1), lên chùa Lan lại giả trai đi tu tức nói dối (không giữ được ngay cả Ngũ giới dành cho cư sĩ), hậu quả là không quên được duyên xưa, chôn hoa lan và cánh bướm, buồn đau sinh bệnh mà chết (chấp ái dục – gốc của sinh tử)


(Lan
náu thân cửa từ bi
bởi
vướng vào sầu đau
Nàng sống mà tim như đã chết
Riêng bóng cô đơn, đôi môi xin phai tàn

– Lan và Điệp 1;
Lan gói niềm riêng tìm quên lãng ngày đêm bên mái chùa
Sớm chuông chiều kinh mặc thời gian dần trôi trong tái tê
Nàng không sao xóa tình yêu xưa cũ dẫu cho con thuyền neo bến đường tu
– Lan và Điệp 2);
chuông chùa hỗ trợ chánh niệm trở thành nỗi ám ảnh sâu sắc
(tiếng chuông đêm dài như tiếng thở than như đem tin buồn, như gieo hoang tàn đến cho đời nàng
– Lan và Điệp 2.
Từng hồi chuông ngao ngán ngân dài như khóc than, tiễn một linh hồn
– Lan và Điệp 3);
chùa trở thành nhà tù giam giữ con tim tình yêu
(Khi tiếng mõ công phu nện đều trên chánh điện thì suối lệ đầy vơi cũng thấm đượm áo nâu sòng… Gia trung Điệp đã về rồi. Đêm đêm quỳ trước Phật đài một mình Lan...
– Lan và Điệp (vọng cổ)…
Có thể nói, con đường tu của Lan thất bại hoàn toàn, tình yêu của Lan gây phiền lụy đến nhà chùa và hình ảnh của Lan không có tác dụng tích cực trong tiếp nhận của công chúng về Phật giáo.

Mặt khác, một điều lý thú ít được quan tâm là trước đó không lâu cũng vào năm 1933, tác phẩm “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng ra đời cũng kể lại câu chuyện yêu đương dưới mái chùa Long Giáng của chàng trai Ngọc và chú tiểu Lan (gái giả trai). Ngọc là chàng trai Hà Nội lên thăm chùa để ý tiểu Lan nước da trắng mát, tiếng nói dịu dàng trong trẻo như tiếng con gái… Qua mấy lần tiếp xúc, đụng chạm, Ngọc để tâm điều tra, đến khi biết Lan là gái, vì bị mẹ cha ép gả nên vào chùa tu, thì anh cũng nhận ra mình đã yêu cô. Cuối cùng, Lan nhẹ nhàng từ chối tình cảm, Ngọc xin giữ mãi mối tình ấy và nguyện ngày ngày lên chùa gặp Lan. Cốt truyện không quá phức tạp, phần vì tâm lý độc giả; cái hay của tác phẩm là những biến chuyển tâm lý sâu kín, tinh vi của các nhân vật. “Hồn bướm mơ tiên” đã bổ sung một góc khác của Lan khi sống trong môi trường tự viện. Tuy không dằn vặt, đau khổ như “Tắt lửa lòng” nhưng cuộc chiến nội tâm của Lan trong “Hồn bướm mơ tiên” không hề nhẹ nhàng, đặc biệt là qua các lần tiếp xúc với Ngọc, nhận ra tình cảm nẩy nở và khao khát yêu đương trỗi dậy. Đánh giá về Lan trong tác phẩm này, cảm thông và chỉ trích đều có. Tam Ích, sau 30 năm tác phẩm ra đời, đã phê phán bản thân Lan không hiểu được cái vui của tu hành, sư cụ thì huyền bí hóa Phật pháp, Lan và Ngọc nhầm lẫn ý nghĩa tình yêu của Phật đà; tóm lại tác phẩm của Khái Hưng có hại cho Phật giáo. 50 năm sau, Hoàng Như Mai chỉ ra nét đẹp trong không gian chùa, những sinh hoạt lễ nghi truyền thống; lý luận Lan mới đi tu được hai năm sao khỏi vướng lòng trần, tuy vậy mỗi khi xao xuyến cô đều niệm Phật để tĩnh tâm; ít nhất Lan và Ngọc vẫn giữ được mối quan hệ trong sáng khỏi vũng bùn tình dục…

Nguyễn Thành Trung

(Còn tiếp)



Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

Từ hình tượng văn học, nghĩ về Tỳ kheo ni Việt Nam - Nguyễn Thành Trung


Từ hình tượng văn học,
nghĩ về Tỳ kheo ni Việt Nam

Nguyễn Thành Trung



Bài viết này không nhằm tôn vinh cũng không phê phán mà hướng đến lý giải nguyên nhân để nhìn nhận không chỉ hình tượng Lan (tác phẩm Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan) riêng lẻ mà giải quyết nhiều vấn đề khác, cụ thể hơn, thời đại hơn. Về nhân vật Lan, trước hết đây là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam: vừa yếu đuối mong manh nhưng cũng vừa kiên tâm mạnh mẽ; họ yêu say đắm để rồi đau khổ vì yêu. Lan là sự nối tiếp hình tượng người phụ nữ trong truyền thống nhân đạo của văn học dân tộc Việt Nam: không tìm được giải pháp trong cuộc đời, gửi thân vào cửa chùa để quên đi đau khổ. Với tính chất là nơi nương tựa cuối cùng, hiếm khi nhà chùa từ chối họ; ở đây Phật giáo thể hiện tinh thần nhập thế, tùy duyên hóa độ hết thảy, đậm tính dân gian của Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, có những thứ ta có thể quên nhưng riêng tình cảm càng cố quên lại càng đau khổ, dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng… Việc Lan chẳng thể quên tình xưa hay không ngăn được con tim vọng động cũng là lẽ gì rất thực, rất tự nhiên; kết thúc đau khổ cũng là kết quả tất yếu; khác chăng là với một nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan thì Lan phải chết, còn với nhà văn lãng mạn Khái Hưng thì Lan (tác phẩm Hồn bướm mơ tiên) vẫn ở chùa tu nhưng chắc chắn chẳng thể nào an nhiên hạnh phúc như xưa. Quyết tìm đến Phật đạo nhưng trong hành trình chuyển hóa đầy gian nan, con người vẫn luôn chịu nhiều dằn vặt và không phải ai đi tu cũng thành công; gánh nặng vật chất dễ dàng rũ đi nhưng mối dây tình duyên cứ hoài cột chặt, đặc biệt đối tượng lại là nữ giới, dù là tỳ kheo ni. Bên cạnh đó, hai tác giả lại là trí thức Tây học, họ quen thuộc với bình diện dân gian của Phật giáo, họ vận dụng Phật giáo như một thể nghiệm, một phương kế có thể thành công hoặc thất bại; bởi từ trong bản chất, chùa, Phật, tiểu Lan hay bất kỳ một hình tượng nào xuất hiện trong tiểu thuyết cũng là phương tiện nghệ thuật – một chỉnh thể có đời sống và quy luật riêng của nó. Điều có thể rút ra từ hình tượng tiểu Lan và câu chuyện này là quy luật biến đổi, là lẽ vô thường, là tâm không chấp trước, là trí dung thông; nghĩa là hiểu được sự thay đổi về chủ đề, cốt truyện là tất yếu bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tác giả… mà đặc biệt là người xem, người tiếp nhận. Với cái nhìn này thì hình tượng tiểu Lan (lẽ ra là tỳ kheo ni Lan) là phương tiện có ảnh hưởng lớn đến người đọc trong gần 100 năm nay; việc đối tượng này đúng đến đâu theo tinh thần Phật giáo không quan trọng bằng việc Phật giáo hiểu và vận dụng nó như thế nào cho hợp lý và đạt hiệu quả.

***

Hình tượng Lan là tiêu điểm đồng thời kết quả của truyền thống Phật giáo Việt Nam. Trong suốt tiến trình ngàn năm ấy, nhiều ni sư lỗi lạc đã góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và đạo pháp, như Ni sư Diệu Nhân (1041-1113), ni trưởng Đàm Soạn, Đàm Hữu, Đàm Tín… Lịch sử Phật giáo Việt Nam và danh tính các ni sư lớn đã được đề cập đến trong nhiều công trình, bài viết; thông qua đó, cơ bản có thể rút ra vài đặc điểm của Phật giáo Việt Nam bao gồm tính tính lịch sử, tính dân tộc và tính linh động.

Thứ nhất, tính lịch sử của Phật giáo Việt cũng như Phật giáo các dân tộc khác là thăng trầm cùng sự biến thiên của các cộng đồng bản địa. Lẽ tất nhiên, Phật giáo ra đời và vận hành giữa thế gian, chính sách kinh tế, hoàn cảnh chính trị, điều kiện xã hội của mỗi đất nước sẽ liên tục tác động và định hình Phật sử quốc gia đó. Nhiều cột mốc lịch sử trùng khớp, hình thành các giai đoạn Phật sử. Lê Mạnh Thát trong bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam đã phân tiến trình này thành 5 thời kỳ bao gồm:

1. Thời kỳ Phật Giáo Quyền Năng (- 544).
2. Thời kỳ Phật Giáo Vận Động Độc Lập (544 - 1069), cần lưu ý là năm 544 Lý Bôn khởi nghĩa xưng đế.
3. Thời kỳ Phật Giáo Thế Sự (1069- 1306), Lý Thánh Tông sát nhập Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính vào Đại Việt năm 1069.
4. Thời kỳ Phật Giáo Cư Trần Lạc Đạo (1306 - 1698), năm 1306 Trần Nhân Tông sát nhập châu Ô, châu Lý vào lãnh thổ nước ta.
5. Thời kỳ Phật Giáo Quần Chúng (1698 - ), năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai phái Nguyễn Hữu Cảnh vào Gia Định.


Không bàn đến tính chính xác, hợp lý của tên gọi và tính chất từng thời kỳ, tính tương hợp về mặt lịch sử khẳng định lịch sử tính của Phật giáo Việt, trong đó, đương nhiên có dòng ni giới. Lịch sử này chứng kiến hành trình Nam tiến gắn liền với khuynh hướng đơn giản, bình dân hóa Phật giáo của người Việt.

Thứ hai, vì gắn liền với lịch sử quốc gia, Phật sử tất nhiên thấm đượm tính dân tộc. Với Phật sử Việt, tính dân tộc thể hiện ở tinh thần nhập thế chủ động, tích cực vì lợi ích chung của đất nước và nhân dân. Ngay trong kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, vượt qua chấp giới sát sinh, nhiều sư cô nổi tiếng như Thiều Hoa, Phương Dung, Thục Nương, nàng Quốc đã cầm quân chống nhà Hán. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nhà Hán ra sức đồng hóa đất Việt, Phật giáo Việt Nam vì thế bản địa hóa giáo lý, bản địa hóa tư tưởng, gởi gắm một số yếu tố Việt Nam vào kinh điển Phật giáo (Lê Mạnh Thát, 151). Phật giáo Lý - Trần đã đưa Đại Việt vào một thời kỳ thịnh vượng vững mạnh và lâu dài, đặt nền móng văn hóa, đánh bại quân Nguyên - Mông, tạo hào khí Đông A… Nhờ tính dân tộc mà Phật giáo Việt Nam Việt hóa truyền thuyết Quan Âm Diệu Thiện, thắp ngọn lửa Thích Quảng Đức thiêu rụi cường quyền và đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.

Thứ ba, Phật giáo Việt Nam thể hiện tính linh động cao độ. Ngay thời kỳ đầu du nhập vào đất Việt, Phật giáo đã mở cửa chùa để hệ thống thần tượng nông nghiệp lúa nước Vân Vũ Lôi Điện trở thành Tứ Pháp, Mẫu được phối thờ nhắc nhở nguồn gốc lâu đời của dân ta. Căn cơ và tạng chất người Việt lại phóng khoáng dung hòa ba tông phái là Thiền, Tịnh và Mật của Phật giáo thành những hệ thống gắn bó, tương chiếu tương liên. Rộng hơn, tính linh hoạt của Phật giáo còn tạo điều kiện cho sự xuất hiện của tư tưởng tam giáo đồng nguyên: Nho - Phật - Lão cùng phát huy hết những khả năng của con người thời Trung đại. Tại miền Nam, thế kỷ XX, để phổ biến tư tưởng đến đại đa số quần chúng nhân dân ít chữ, Phật giáo được Đoàn Văn Huyên đơn giản hóa thành Bửu Sơn Kỳ Hương, kinh sách được Huỳnh Phú Sổ phổ thơ ngâm giảng, hệ phái Khất sĩ tổng hợp kinh sách Nam - Bắc tông thành Kinh Chơn Lý…

Thông qua lịch sử Phật giáo Việt Nam và hình tượng tỳ kheo ni Lan trong tiểu thuyết, tính linh động, lịch sử, dân tộc hiện lên như những giá trị và quy luật quan trọng nhất chi phối, vận hành thế giới quan và nhân sinh quan người Việt. Đương nhiên, quá trình này không phải luôn thuận lợi mà vẫn có những nghịch duyên, đơn cử như sự khắt khe với phụ nữ – kết quả của truyền thống Nho giáo phần nào kiềm hãm sự phát triển ni giới, ni bộ chậm hình thành, có thể vì vậy mà các nhân vật Lan đều phải giả trai để vào chùa tu. Góc nhìn lịch sử cụ thể, linh động biến dịch và đậm bản sắc dân tộc có thể được vận dụng để giải quyết vấn đề Bát kỉnh pháp, ít nhất là với trường hợp ni giới Việt Nam.

Trước hết, với cái nhìn mang tính dân tộc, Bát kỉnh pháp là kết quả của nền văn hóa cổ đại Ấn Độ, một xã hội phân biệt giai cấp sâu sắc, địa vị người phụ nữ thấp kém cùng cực. Cũng như khi giảng pháp, luật Phật cũng tùy hoàn cảnh mà được chế ra cho phù hợp. Lật đổ một chính quyền bằng bạo lực cách mạng đã khó, lật đổ thiết chế tư tưởng ngàn năm thâm căn bền rễ trong lòng người càng khó hơn. Về nguyên tắc điểm ưu trội của giáo thuyết Phật Thích Ca là xóa bỏ đẳng cấp, mang đến cho người phụ nữ những quyền lợi to lớn về đời sống cũng như tâm linh.Vì vậy, những khắt khe, nếu có nhìn dưới cặp mắt hiện đại, cũng là phương tiện phù hợp hoàn cảnh xã hội, theo chiến lược tuần tự, tránh xung đột đối kháng trực tiếp về mặt xã hội, dân tộc, văn hóa. Ví dụ, thời Đức Phật, người phụ nữ Ấn không được tự ý ra ngoài khi không có người đi cùng, định chế xã hội lẫn sự kỳ thị biến thành tấn công bạo lực luôn là những nguy cơ chực chờ đối tượng này; đến nay, sau hơn ngàn năm, hiện tượng đó vẫn chưa hẳn biến mất, pháp thứ 7 trong Bát kỉnh pháp vì thế mà được chế nên.

Thứ đến, dưới góc nhìn lịch sử cụ thể, Bát kỉnh pháp được chế ra như chuẩn tắc để nữ giới mà cụ thể là Mahà Pajàpati Gotami và 500 nữ quý tộc khác bước vào Tăng đoàn. Bát kỉnh pháp được vận hành dựa trên nguyên tắc tiếp nhận, Đức Phật căn cứ vào tính chất của người nhận mà ra quy định; ba pháp đầu yêu cầu kính trọng tuyệt đối tăng bao hàm những người vốn xuất thân bần hàn chính là đánh vào cái tôi của quý tộc Bà la môn. Bên cạnh đó, Bát kỉnh pháp không trực tiếp bàn về các nguyên lý Phật pháp mà thực ra nghiêng về mặt tổ chức, quản lý tăng đoàn; điều này phải căn cứ hoàn cảnh cụ thể. Lúc ấy, tăng bộ đã ổn định, dùng tăng bộ làm xương sống tăng đoàn là quyết định tất yếu; theo nghĩa đó, Bát kỉnh pháp hàm ý giao nhiệm vụ lớn hỗ trợ ni bộ cho tăng bộ đồng thời quy định này hỗ trợ nhiều hơn cho ni giới trong quá trình tu tập được hưởng các quyền lợi như được học tập, được bảo vệ. Ngoài ra, việc phân nhiệm này thể hiện mong muốn duy trì một giáo hội thống nhất, tránh sự phân chia bộ phái theo giới tính có nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến Tăng đoàn.

Sau cùng, vận dụng tính linh hoạt, mềm dẻo của Phật giáo Việt Nam vào Phật Luật nói chung có thể tránh phương hại và bồi đắp vững vàng Bát kỉnh pháp. Như đã bàn, tuy có mối quan hệ chặt chẽ với Kinh nhưng Luật hướng đến các vấn đề xã hội hơn; về bản chất Luật là do Phật chế để giải quyết các trường hợp cụ thể.

Bát kỉnh pháp là trường hợp tiêu biểu của điều Luật xuất hiện trong Kinh (Tăng Chi), hiện tượng mở rộng tính quản lý xã hội trong Kinh thể hiện sự lớn mạnh của tăng đoàn;
hoàn cảnh yêu cầu ngoài Kinh phải có hỗ trợ, quy định về mặt xã hội cho tăng ni thuận lợi tiếp nhận giáo pháp trong một tổ chức quy củ thống nhất. Nói rộng ra, Pháp Luật là một thành tựu văn minh của nhân loại nhằm giải quyết mối quan hệ đa dạng phức tạp trong đời sống; luật phải bao quát tránh thiên tư phiến diện nhưng phải cụ thể hiệu quả trong áp dụng, sức mạnh của luật ở đây nhưng vấn đề cũng ở đó. Luật khái quát trừu tượng phổ quát thì chỉ có bộ phận nhỏ tri thức bậc cao vận dụng và giải thích có lợi cho mình (Bà la môn), nhưng luật cụ thể, rõ ràng thì lại hạn chế trong từng trường hợp nhất định, nghĩa là khi xuất hiện vấn đề mới, luật phải bị xóa bỏ hoặc thay đổi. Đây là một hiện tượng phổ biến trong nhiều tôn giáo lớn (vươn đến tầm quản lý xã hội) trên thế giới: Trong kinh Koran, nhiều điều luật của Mohamed viết được chính ông chỉnh sửa về sau để giải quyết vấn đề chặt chẽ hơn; Tin Lành ra đời trên cơ sở yêu cầu xóa bỏ nhiều điều luật Thiên Chúa giáo. Ở Phật Luật, hiện tượng này không thiếu: Trong 348 giới điều Tỳ kheo ni, nhóm 2- 17 pháp Tăng tàn, pháp thứ 4 cấm tăng ni thưa kiện người nhưng sau đó được Phật chế lại cho phép nếu tòa mời hay có việc chính đáng thì Tỳ kheo được phép đến cửa quan. Điều đó thể hiện tính linh hoạt, tùy thời tùy hoàn cảnh mà điều chỉnh luật miễn không trái Pháp. Không chỉ là luật, nhiều văn bản không do Phật thuyết nhưng làm sáng rõ giáo nghĩa và để tuyên dương chính pháp vẫn được gọi là Kinh. Từ đó, giả thuyết rằng có thể trong giai đoạn nào đó của Phật giáo cần phải đặt vấn đề như Bát kỉnh pháp để bảo vệ tăng đoàn, vì cái chung nên những tiêu chí khác phải bị hy sinh như tính hợp lý lịch sử (Điều 2, 3, 4, 5 Bát kỉnh pháp liên hệ đến nội dung của những khái niệm 10 năm sau khi Thích Ca thành đạo trong khi Bát kỉnh pháp ra đời năm thứ 6, tiêu biểu như Bát kỉnh pháp ra đời trước khái niệm an cư, về mặt logic không thể có quy định an cư trong Bát kỉnh pháp…) cũng hoàn toàn được chấp nhận trong tinh thần linh hoạt, linh hoạt có nghĩa là không cần phải giải bỏ Bát kỉnh pháp mà quan trọng là hiểu và vận dụng thế nào cho phù hợp. Hoặc linh hoạt đến mức ni giới Đài Loan vận động bãi bỏ Bát kỉnh pháp vì hoàn cảnh thực tế lịch sử Phật giáo Đài Loan cũng không thành vấn đề; bởi không chỉ Luật mà cả Pháp Phật đều là con thuyền qua sông, tùy căn cơ mà chọn thuyền lớn nhỏ, thích ngồi ưng đứng tùy ý, thậm chí đội thuyền bơi qua hay bỏ thuyền lại bên kia tự mình vượt sông thì đều không quan trọng, quan trọng là có thể qua sông. Trong tinh thần này, không phải bản thân Bát kỉnh pháp mà là những tranh cãi về Bát kỉnh pháp có thể được giải bỏ.



Hình tượng và con đường của Tỳ kheo ni Việt, suy nghĩ từ góc độ tiếp nhận

Bàn luận hình tượng Lan và Bát kỉnh pháp từ góc độ tiếp nhận, thiết nghĩ con đường phát triển của Tỳ kheo ni Việt cũng có thể vận dụng mỹ học tiếp nhận để soi chiếu. Mỹ học tiếp nhận (rezeptionsästhetik) là một trường phái lý luận văn học ở Đức vào đầu thế kỷ XX quan tâm đến lĩnh vực tiếp nhận tức mối quan hệ nhà văn – tác phẩm – người đọc, đặc biệt là điều kiện, phương thức, quá trình của tiếp nhận ảnh hưởng đến văn học và đời sống.

Hans Robert Jauss với bài phát biểu nổi tiếng của mình đã khẳng định Lịch sử văn học phải là lịch sử tiếp nhận bởi không có cái khách quan lịch sử trong nghiên cứu văn học. Khái niệm này cần phải thay đổi bằng “Tầm đón đợi” với vai trò của tiếp nhận. Theo đó, mỗi giai tầng khác nhau sẽ có thị hiếu thẩm mỹ khác biệt khi tiếp nhận và lý giải tác phẩm; tác phẩm nhờ được nhiều quan điểm soi chiếu nên phong phú hơn; chính đối tượng tiếp nhận làm sống lại những vấn đề cũ, nhìn bản thân văn chương đa trị đa nghĩa, phát hiện cái được biểu đạt thông qua cái biểu đạt, giải mã hệ thống mã hóa. Điều này có nghĩa là khi tầm đón đợi thay đổi thì ý nghĩa tác phẩm cũng đổi. Tồn tại hai kiểu tiếp nhận: Dọc – đọc một tác phẩm theo chiều dọc lịch sử; Ngang – đặt tác phẩm vào một thời đại nhất định với nhiều dạng người đọc.

Những luận điểm của Jauss giúp hình tượng nhân vật Lanvà vai trò tỳ kheo ny được nhìn rõ hơn từ nhiều phía. Trước hết, hành trình nam tiến thực sự đưa cốt truyện này từ giới trí thức Tây học đến đông đảo quần chúng nhân dân thông qua sân khấu cải lương và ca khúc tân nhạc, bài bản vọng cổ; bài học vận dụng phương tiện trong hoằng pháp thể hiện ở đây. Quần chúng hóa giúp Phật giáo dễ lan truyền nhưng phải chấp nhận một thực tế là bình dân hóa Phật học, lu mờ vai trò ni giới, những nhập nhằng cần làm sáng tỏ tồn tại rất nhiều. Ví dụ ở miền bắc, quần chúng không phân biệt tăng ni mà gọi chung là thầy: trong Chùa Đàn, Nguyễn Tuân gọi cô Tơ (Tuệ Không) là sư thầy, Nguyễn Khải trong truyện ngắn Ngôi chùa các chị cũng gọi sư nữ chùa Cốc là thầy. Type truyện Lan và Điệp ban đầu vốn rất đậm tính Phật giáo về tư tưởng nhưng bị trần tục hóa theo type chuyện tình tan vỡ nên dù hình thức, câu chữ có bổ sung không gian, ngôn từ Phật giáo mà ý nghĩa Phật học lại mất mát rất nhiều. Nguyễn Công Hoan đặt tên tiểu thuyết là “Tắt lửa lòng” do lấy lại câu nói của Kiều, sau 15 năm lưu lạc, đang mặc áo ni cô được mọi người gá duyên Kim Trọng,

“Nàng rằng: Chút phận hoa rơi,
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
Tính rằng mặt nước chân mây,
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
Được rày tái thế tương phùng.
Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa,
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu tu trót quá thì thì thôi!”
.

Tắt lửa lòng” nhấn mạnh cái ngộ sau cùng của tiểu Lan hơn là quyến luyến tình duyên thuở “Lan và Điệp”. Đặt vào trục lịch sử, chi tiết buồn đau chuyện gia đình mà vào chùa tu vẫn không thoát nghiệp duyên đến tận khi hấp hối của Lan chính là vận dụng lại cùng motif trong truyện cổ/chèo cổ Quan Âm Thị Kính; huyền tích chùa Long Giáng (Hồn bướm mơ tiên) cũng hấp thụ truyện cổ Phật giáo Quan Âm Diệu Thiện. Lan là tên gọi phổ biến của người Việt đặt cho con gái, với ước mơ như bông hoa có hương có sắc, người mang tên Lan có dung mạo xinh đẹp, tâm hồn thanh cao, tính tình dịu dàng… Nhân vật Lan trong cả hai tiểu thuyết đều nằm trong khuôn khổ mẫu chuẩn tâm thức người Việt; ý thức điều này thì bi kịch của Lan càng gây đau xót và vai trò Phật pháp càng thể hiện rõ, dù là Phật pháp bình dân. Câu chuyện của Lan vận dụng vào hoằng pháp chắc chắn khai thông nhiều bài học thú vị, chư tăng thuyết giảng đề tài này đã hay, chư ni đăng đàn dùng hình tượng Lan như phương tiện giảng pháp càng hứa hẹn nhiều viễn cảnh đặc sắc bởi khả năng ưu trội khi bàn về nữ giới, tỳ kheo ni và Bát kỉnh pháp.

Bên cạnh Jauss thì mỹ học tiếp nhận còn được phát triển bởi Wolfgang Iser. Ảnh hưởng triết học Husserl quan niệm rằng đằng sau hiện tượng không có một bản chất nào mà bản chất chính là hiện tượng hiện ra trong ý thức người quan sát, Iser cho rằng các văn bản phải có kết cấu vẫy gọi để kích thích người đọc; muốn vậy, tác phẩm phải chứa đựng những điểm trắng, chưa xác định, không rõ, gián đoạn. Ngoài ra, để tăng tính kích thích, văn bản phải có mưu cầu phủ định khi khiêu khích các quan điểm chính trị, triết học, đạo đức đương thời. Ở giác độ này, thực sự Bát kỉnh pháp ngay từ khi mới ra đời đã gây chấn động não trạng thời đại và xã hội Ấn Độ cổ, tính khiêu khích ấy kéo dài tận hơn ngàn năm để lại thu hút những bàn luận xung quanh việc giữ hay giải trong hoàn cảnh kinh tế văn hóa chính trị xã hội thay đổi. Những mâu thuẫn về mặt lịch sử trong Bát kỉnh pháp có thể ví như những khoảng trắng, gián đoạn luôn chờ được được lấp đầy thông qua tiếp nhận, tức quá trình mà Iser gọi là hành động đọc. Hành động đọc tiếp nhận dựa trên một tầm đón đợi được xây dựng quan hệ giữa hiện tại quá khứ và tương lai, đọc đồng thời là quá trình hoàn hình, theo nghĩa người tiếp nhận không ngừng sắp xếp các mảng ý nghĩa, chi tiết, thành tố bằng cả lý trí lẫn tâm linh để hình thành một chỉnh thể. Kết thúc quá trình này mang đến kết quả không phải ở người truyền, thông điệp mà là chủ thể nhận/đọc với bản thân theo nghĩa họ tự nâng cao mình, tự phát hiện ra thế giới bên trong. Những luận điểm này đề xuất tăng ni trong quá trình hoằng pháp phải đặc biệt quan tâm đến yếu tố thính chúng, cần nắm bắt quá trình hoàn hình và nâng cao bản thân người nghe; tất cả những thứ khác chỉ là phương tiện (hình tượng Lan, Bát kỉnh pháp), sự vượt trội của tâm linh mới là quan trọng. Quá trình tiếp nhận này lần lượt biến tăng ni và thính chúng thành đối tượng, để liên tục kết hợp chiều ngang và dọc, không gian và thời gian khi tiếp cận Phật pháp.

Tóm lại, bài viết này hướng đến vận dụng hình tượng văn học (nhân vật Lan) để tìm kiếm nguyên tắc, truyền thống của lịch sử Phật giáo và ni giới Việt. Trên tiến trình ấy, con đường tiếp nhận được lựa chọn như thông lộ kết nối, giải trừ những mâu thuẫn xoay quanh Bát kỉnh pháp đồng thời định hướng phát triển ni giới. Tuy nhiên, những mục đích to lớn ấy vẫn còn bị giới hạn trong nhiều chiều kích, bản thân mỹ học tiếp nhận khi cố khẳng định vị trí độc tôn của mình đã là một cực đoan, nỗ lực xóa bỏ những “cái khác” luôn là cạm bẫy hấp dẫn hành trình tư duy, khoa học, đạo pháp và cuộc sống. Trước hoàn cảnh ấy, giải pháp tổng hòa tuy dễ bị mang hơi hướng chiết trung nhưng vẫn là một chiều kích đáng quan tâm để nhìn nhận, lý giải vấn đề từ nhiều phía bởi trong tâm thức phát triển chung thì hòa bình để phát triển vẫn tốt hơn phát triển nhờ đấu tranh. Bài học này mang đến giá trị cho cả văn học, Phật giáo nói chung và hình tượng Lan, ni giới Việt Nam nói riêng.



Nguyễn Thành Trung



Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

Giới thiệu tiểu thuyết Tắt Lửa Lòng (Chuyện tình Lan và Điệp) | Nguyễn Công Hoan - Anh Kiệt Đọc Sách


Toàn bộ tiểu thuyết Tắt Lửa Lòng (Chuyện tình Lan và Điệp) | Nguyễn Công Hoan

Anh Kiệt Đọc Sách




Thứ Năm, 12 tháng 6, 2025

Câu chuyện đằng sau mối tình "Lan và Điệp" có gì mà bất hủ ?


Câu chuyện đằng sau mối tình "Lan và Điệp"
có gì mà bất hủ ?

Hoài Mi




Là đề tài muôn thuở của âm nhạc, tình yêu được đại đa số nhạc sĩ khai thác và khắc họa muôn hình vạn trạng qua nhiều giai điệu. Từ những cảm xúc mới chớm của tình yêu, nỗi xao xuyến lẫn chạnh lòng của cuộc tình đơn phương, sự tuyệt vọng khi cho đi mà không được đáp lại,
tới nỗi tổn thương vì niềm tin đổ vỡ, tất cả đều mang những màu sắc riêng trong âm nhạc. Qua đó, chúng ta sẽ nhận ra rằng, dẫu hạnh phúc hay đớn đau, thì tình yêu vẫn là điều dũng cảm nhứt mà con người có thể dành cho nhau.
Hoài Mi



Thứ Tư, 11 tháng 6, 2025

Từ “Lan và Điệp” đến “Hồn Bướm Mơ Tiên”


Từ “Lan và Điệp” đến “Hồn Bướm Mơ Tiên”

dieutran


Tôi không nhớ tác giả chuyện tình Lan và Điệp là ai, nhưng nhớ rằng, cô đào Kim Cương đã lấy không biết bao nhiêu nước mắt của khán giả khi cô diễn vai Lan trong truyện tình Lan và Điệp. Khán giả của cô chẳng phải chỉ có ông già bà cả đâu, mà ương ương, nhỡ nhỡ, thanh niên, thiếu nữ khi xem tới đoạn sư cô Lan cắt đứt giây chuông để cho Điệp trở về với gia đình, với bổn phận thì khán giả đều khó cầm nước mắt vì Kim Cương diễn hay quá ! Cô nức nở cắt đứt giây chuông chính là can đảm, cắt đứt mối tình mà cô đã đặt tất cả tương lai vào đó.

Câu chuyện này thật tội nghiệp vì anh chàng Điệp nào phải kẻ bạc tình ! Anh ta là nạn nhân của lòng người nham hiểm, xấu xa. Gia đình ông bà phú hộ có cô con gái hư hỏng lỡ mang một hoang thai đã vớ lấy anh học trò hiền lành từ quê lên tỉnh trọ học như một chiếc phao để cứu gỡ danh dự hão huyền cho gia đình họ. Ông bà phú hộ đã chuốc rượu cho Điệp say mèm rồi sai gia nhân khiêng chàng vào phòng con gái. Sáng ra, cũng chính họ vào phòng hô hoán lên rồi lôi Điệp về quê, mắng nhiếc bà mẹ quê tơi bời. Kết cuộc màn kịch bất nhân thất đức đó là họ gia ơn cho hai mẹ con Điệp bằng cách bắt Điệp phải làm đám cưới với con gái họ tức khắc!

Cô thôn nữ mộc mạc tên Lan như từ trên trời rớt xuống vực thẳm. Với tâm hồn lành thiện, Lan làm sao hiểu nổi những điều ác độc, tồi bại như thế ! Và mẹ của Điệp, bà mẹ quê nhân hậu luôn coi Lan vừa như con gái, vừa như con dâu đã xỉu lên xỉu xuống trước tai họa tày trời. Bà không chỉ nhục nhã, đau đớn cho mình mà còn vô cùng lúng túng, thương cảm cho Lan ! Trong vở kịch có những đoạn cải lương rất bi ai mà tôi còn nhớ lõm bõm : “Kéo vạt áo lau đôi giòng nước mắt. Lạy mẹ cha, con thí phát quy y. Con dao kia với xác bướm khô này. Con chôn lấp dưới cội cây ngoài cửa Phật” Đó là lời Lan thưa với cha mẹ. Còn lời nói với Điệp thì Kim Cương xuống câu vọng cổ mùi riệu, không hiểu sao tôi vẫn còn nhớ: “ Điệp ơi, cánh bướm năm xưa hãy bay đi đừng trở lại vì em hiện nay chỉ còn là một đóa lan …… tàn. (tưng … tưng… từng… tưng..)

Quý đạo hữu nào biết hát vọng cổ thử xuống giọng câu này xem, rồi hát tiếp thế này: “ Em biết anh chẳng dạ phụ phàng nhưng kiếp này đã lỡ, xin Điệp đừng lưu luyến chi Lan. Hãy để cho em yên tâm rảnh dạ tu hành. Mượn kinh kệ chốn thiền môn để vơi đi mối sầu vạn cổ” ( ớ….ơ…..ơ..)

Thời được mẹ cho đi theo xem tuồng, tôi cũng chỉ hơn mười tuổi nhưng tôi nhớ rất rõ cái cảm giác bất toại ý của mình khi toàn bộ vở tuồng chỉ chú trọng vào những chi tiết lâm ly bi đát mà để cho cô Lan đi tu chỉ vì thất tình! Khi đã mười tám, đôi mươi, mẹ rủ đi xem tuồng, tôi không đi nữa. Tôi không chịu được ý nghĩ bôi bác Đạo khi đưa ra hình ảnh những người đi tu chỉ vì bị ngoài đời vùi dập chứ không vì nhìn thấy con đường đạo. Thuở đó tôi cũng hiểu gì đạo đâu nhưng lờ mờ cảm nhận như thế với vở tuồng Lan và Điệp, nổi tiếng suốt nhiều thập niên. Có lẽ do vở tuồng quá nổi tiếng nên tôi mới bất nhẫn vì nó đi vào lòng dân gian cái tư tưởng cửa chùa là nơi rộng mở, sẵn sàng đón nhận mọi chúng sanh khổ đau, chứ việc vào chùa để được hướng dẫn tìm ra con đường giải thoát khổ đau chỉ là phụ thuộc. Nỡ nào tác giả vở tuồng đặt nặng phần tình tiết éo le nên chỉ cho khán giả thấy Lan bị đời bầm dập nên chạy vào chùa trốn ! Chỉ có thế thôi ! Thậm chí, khi thế nhân nhìn thấy sư cô nào còn trẻ là khởi ngay câu hỏi “Trẻ đẹp thế mà sao đi tu ? Chắc lại vì thất tình !”.

Đó, văn hóa dân gian nguy hiểm là thế đó.

Còn câu chuyện “Hồn Bướm Mơ Tiên” thì lại khác. Tác giả là nhà văn Khái Hưng, người đầu đàn trong Tự Lực Văn Đoàn một thời làm mưa làm gió trên văn đàn Việt Nam. Cô Lan ở đây không đi tu vì thất tình, không biết rõ lý do nào đi tu nhưng cô muốn yên thân tu hành nên đã cải dạng nam trang, được Sư Cụ chùa Long Giáng thâu nhận làm đệ tử với pháp danh là chú tiểu Ngọc-Lan. Đệ tử của sư cụ đều có pháp danh từ các loài hoa. Cô Lan này đến chùa vào mùa Xuân nên có tên là Ngọc Lan, tình cờ như tên con gái.

Rắc rối bắt đầu khi người cháu gọi sư cụ bằng bác, từ Hà Nội, muốn mang sách vở về chùa để yên tĩnh ôn bài trong dịp nghỉ hè. Chàng sinh viên tên Ngọc đó đã gặp chú tiểu Lan trên đường chú đội thúng sắn về chùa. Ngay phút đầu, Ngọc đã thầm nghĩ “Sao ở chốn quê mùa lại có một chú tiểu trắng trẻo, đẹp trai đến thế?” Anh chàng này thật là tầm bậy quá ! Anh ta muốn về nơi yên tĩnh để học bài mà chưa tới chùa đã quậy sự yên tĩnh bằng tâm nghi ngờ cái việc chẳng ăn nhập gì tới anh ta ! Tệ hại hơn, sự nghi ngờ không dừng ở đấy, nó mỗi ngày mỗi tăng trong suốt thời gian anh ở chùa Long Giáng. Nào là giả bộ nói về giấc chiêm bao thấy đi chơi với một sư chú tuổi chạc chú Lan. Hai người leo đèo lội suối, khi chợt quay lại thì không thấy sư chú đâu mà chỉ thấy một thiếu nữ diễm lệ là …. chú Lan ! Nào là ỡm ờ bảo chú Lan cứ cầu nguyện được cải nam vi nữ đi, chú thành tâm thì Đức Thích Ca sẽ cho toại nguyện đó ! Mà đã hết đâu, vì cái tâm nghi ngờ càng ngày càng lớn nên anh chàng tìm đủ mọi cách theo dõi chú Lan. Chú thỉnh đại hồng chung trên gác chuông anh cũng đi theo, chú đi hái chè dưới chân đồi anh cũng lò dò xuống, rồi bầy đặt cầm theo giá vẽ, bút mầu, ngồi vẽ tranh.
Chú Lan lại vô tình nói:

– Tranh thiếu người.

Thật đúng là trao banh cho chàng đá, vì nghe lời phê bình đó, anh chàng Ngọc sốt sắng ngay:

– Tôi cũng đang định nhờ chú làm mẫu đây. Chú làm ơn đứng tựa gốc thông kia một tý nhé.

Chú Lan này cũng khá ngây thơ, bèn từ bi ra tựa gốc thông. Thế là chàng Ngọc tha hồ ngắm ! Khoảng mươi phút sau, Ngọc tuyên bố đã vẽ xong. Chú Lan chạy tới xem, hốt hoảng vì người trong tranh là một thôn nữ mặc áo tứ thân !

Ấy, cứ như thế, anh chàng về chùa đã mười ngày mà chẳng thấy ông Khái Hưng cho biết anh học ôn được những bài gì, vì thì giờ của anh hầu như dồn cả vào việc tò mò tìm xem chú tiểu Lan là trai hay gái !

Cao điểm của câu chuyện là khi sư cụ sai chú tiểu Lan đem phẩm vật sang chùa Long Vân ở làng bên. Dĩ nhiên là anh chàng Ngọc xin đi theo. Vì biết Ngọc là cháu của sư cụ chùa Long Giáng nên sư ông chùa Long Vân khẩn khoản giữ lại chơi để chàng thanh niên tỉnh thành có đủ thì giờ vãn cảnh. Đêm hôm đó, Ngọc quyết tìm sự thật nên đã nói những lời hung bạo khiến chú Lan hoảng sợ, bỏ chạy ra khỏi chùa. Ngọc đuổi theo, kéo trở lại. Sự giằng co làm đứt mấy nút áo của Lan. Dưới ánh trăng, Ngọc rú lên khi thấy ngực Lan quấn chặt vải nâu !!!

Tìm ra được sự thật thì Ngọc ân hận, thật sự ân hận vì đã làm xáo trộn đời tu hành của Lan. Để chứng minh lòng ăn năn, Ngọc long trọng hứa sự thật này sống để dạ, chết mang đi, không nói cho ai biết. Không những thế, chàng ta còn hứa sẽ rời chùa ngay, trả lại sự yên tĩnh cho Lan.

Nếu câu chuyện chấm dứt ở đây, để khoảng trống cho mỗi độc giả cảm nhận xúc động của mình, có lẽ hay hơn. Tôi chủ quan cho là thế.

Tới chùa làm công quả trong kỳ An Cư Kiết Hạ vừa qua, tôi được nhìn thấy rất nhiều sư cô, sư chú rất trẻ. Chỉ cần nhìn thôi, tôi đã được quý vị ấy truyền cho tràn đầy năng lượng an lạc, vững chãi. Họ là biểu hiện của “như thị”. Thanh tịnh, an nhiên, hỷ lạc, nhìn thôi, là thấy ngay như thế, rõ ràng như thế, không cần suy nghĩ đắn đo, hỏi han, quán chiếu gì. Những cảm xúc này đã bất chợt khiến tôi liên tưởng về hai tác phẩm nổi tiếng “Lan và Điệp” và “Hồn Bướm Mơ Tiên”.

Tôi ngạc nhiên khi nhận ra cái nhìn của mình về việc đi tu của cô Lan trong “Lan và Điệp” đã khác hẳn. Động lực khiến Lan đi tu là vì đau khổ, nhưng nếu hiểu theo tinh thần kinh Duy Ma Cật “phiền não là hạt giống Như Lai” thì có phải sự đau khổ ấy là nghịch-duyên đưa đến thuận-duyên để hạt giống bồ-đề Lan gieo từ kiếp nào, nay đủ duyên mà nẩy nở ? Nay tôi tin như thế vì có phải cô gái nào thất tình cũng đi tu đâu mà đa số kẻ thất tình thường …. tự tử vì họ cho rằng chết là hết khổ. Đã đang khổ vì bị phụ tình lại còn vào chùa sống kham khổ thì ….. khổ quá, chịu sao thấu !!! Hoặc giả, có cạo đầu vào chùa nhưng vào với mục đích “trốn khổ” thì tu làm sao được ? Khổ hay sướng ở trong tâm chứ ở đâu nơi chốn ?

Tôi tin chắc Lan tu được vì tâm hồn cô thôn nữ đó quá lành thiện, quá trong sáng nên tuy đau đớn vì bị phụ bạc nhưng không khí thiền môn là môi trường toàn thiện nhất để tương ưng với tâm hồn “Nhi sanh kỳ tâm” đó. Khi sự tương ưng đã khít khao thì bản nguyện sẽ tròn đầy, viên mãn.

Còn cô Lan trong “Hồn Bướm Mơ Tiên”, tôi không nghĩ cô đi trọn được đường tu vì tâm cô đã bị ái tình của anh chàng Ngọc làm cho vẩn đục.

Đọc mấy trang kết, nếu là sư cụ chùa Long Giáng thì dù từ bi tới mấy, tôi cũng phải lôi đứa cháu rắn mắc này ra, bắt nằm sấp xuống sân chùa và đánh cho một trận. Vừa đánh, tôi sẽ vừa nói “Mong rằng những lằn roi này sẽ trả bớt cho cháu phần nào tội lỗi đã gây ra, vì cháu ơi, tội từ tâm khởi, do tâm tạo, cháu đã khuấy động tâm chú Lan thì chú ấy sẽ tự đọa, tự cứu chứ đâu phải việc cháu rời chùa là cứu được chú ấy!”

Nếu sư cụ đọc hết đoạn kết, ông Khái Hưng viết, thì có lẽ sư cụ không chỉ đánh đòn anh chàng Ngọc mà hàng đêm sư còn phải tụng Thủy Sám, phụ cho cháu mình. Vì sao ư ? Vì gần mười trang cuối, ông Khái Hưng cho độc giả thấy chú Lan cũng “tương tư” rồi ! Chú vào ra những nơi có kỷ niệm của Ngọc, ngơ ngẩn nhớ trước quên sau đến mức chú phải kinh hoàng thốt lên “ Thôi, ta điên mất rồi ! Chẳng lẽ ….”

Chẳng lẽ gì nữa ! Chú tiểu Lan này có ngồi thiền, tụng kinh ròng rã đêm ngày, e cũng khó thấy Phật vì không những tâm vẫn ở ta-bà mà thân cũng đang quằn quại đớn đau vì ái dục trần gian!

Ngày mai gặp các bạn đạo, tôi phải chia sẻ những ý nghĩ ngộ nghĩnh về hai sư-cô tên Lan này, xem quý đạo hữu có đồng ý với tôi không nhé!. Tôi không nghĩ đây là sự chia xẻ hý luận viển vông, vì quán chiếu hai câu chuyện này chẳng phải là chúng ta đang quán chiếu bài học về TÂM đó sao?

dieutran



Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Tham luận: Thử so sánh tình yêu và tôn giáo trong hai cuốn sách "Tắt lửa lòng" của Nguyễn Công Hoan và "Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng


Thử so sánh tình yêu và tôn giáo
trong hai cuốn sách
"Tắt lửa lòng" của Nguyễn Công Hoan và
"Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng

Huy Thanh


I - NỘI DUNG HAI CUỐN SÁCH:

A - TÓM LƯỢC CUỐN "TẮT LỬA LÒNG" CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
Vì cuốn Tiểu Thuyết quá dài, lại quá nhiều tình tiết nên tôi xin phép không đăng hết nguyên văn, mà chỉ lược khảo cốt truyện, đồng thời trích dẫn chứng những điều cảm nghĩ từng đọan văn ngắn, để quý dộc giả tiện việc theo dõi.

Điệp là một thanh niên học thức, anh vừa thi hỏng bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Thành Chung tiếng Pháp gọi là Diplome), Điệp là con của ông bà Cử. Trước đây khi ông Cử còn sống, ông đã cùng người bạn thân là ông Tú hứa hẹn làm suôi gia sau nầy. Họ hẹn nhau khi Điệp công thành danh toại, thành nghề thầy giáo như ước muốn thì sẽ lấy cô Lan con ông Tú làm vợ.

Sau khi ông Cữ mất, gia đình Điệp sa sút dần, bà Cử phái đi bán đầu chợ sớm hôm, gia đình Điệp vướng vào cảnh nghèo khó. Ông Tú thấy hoàn cảnh nhà bà Cử như vậy nên hết sức giúp đở, nhất là ông thường giúp tiền bạc cho Điệp đi ăn học một cách rất khéo léo, tế nhị mà anh không hay biết. Riêng Lan, con ông Tú, được sự giáo huấn của cha nên sống rất có đạo đức, nết na, hiền lành, chân thật. Cô không vì hoàn cảnh nghèo khó của Điệp mà phụ lòng nhân nghĩa mà trái lại cô càng thêm yêu quý, tìm cách giúp đỡ vị hôn phu của mình hơn. Hai người vẫn lén gặp nhau tâm sự, "tình trong như đã mặt ngoài còn e", nhưng hai bên vẫn giữ trong vòng lễ giáo.

Biết Điệp vừa thi hỏng, ông Tú cũng buồn nhưng ông cũng an ủi và khuyến khích Điệp rán học lại, thi khoá sau. Riêng Lan, việc Điệp thi đậu hay không cũng không liên quan gì đến tình yêu của hai người.
Nhưng riêng Điệp anh rất mặc cảm vì chuyện thi hỏng, anh cho đó là mình đã phụ bạc lòng tốt của ông Tú và tình yêu của Lan nên gởi bức thư cho cô bày tõ tấm lòng và xin từ hôn. Lan không trả lời thư nên Điệp phải tìm cách gặp riêng cô để nói chuyện dứt khoát. Lúc đó Lan mới nói rỏ lòng mình khiến Điệp rất cảm đông an tâm quyết chí học hành thi lại ở Khoá sau.

Khoá thi sau Điệp suýt hỏng vì gặp vị Giám Khảo quá khó nếu không nhờ có ông quan Phủ, một bạn thân của vị Giám Khảo nói giúp nên Điệp mới thi đậu.
Quan Phủ là một người sống không đạo đức, rất giả nhân giả nghĩa, ông giúp Điệp là để che đậy một âm mưu lợi dụng Điệp sau nầy. Ông khuyên Điệp đừng thi vào ngành Sư phạm theo đuổi nghề dạy học, mà ông sẽ giúp Điệp vào ngành lục sự (thư ký Toà) để có cơ hội thăng quan tiến chức, bởi vì ông sắp được thăng chức Chánh Án trong ngành Toà Án, sẽ có nhiều cơ hội giúp cho Điệp mau thăng quan tiến chức. Vì còn non nớt, mới ra đời nên Điệp sa vào bẫy của ông Phủ, răm rắp nghe lời ông.
Một hôm, ông mời Điệp cùng "ăn tiệc mừng" ngày Điệp vào làm ngành Toà Án tại Phủ của ông. Đêm đó, ông ép cho Điệp uống say rượu rồi cho người khiêng Điệp vào phòng ngủ của cô Thuý Liễu, con gái ông, một cô gái nhà quan đỏng đảnh, khinh người, đang có chửa hoang với một tên lính trong phủ tên là Cách, tức Tư Kềnh. Điệp đã mắc bẫy của ông Phủ, vì do say quá nên anh không biết gì, anh nghĩ rằng mình đã phá hoại trinh tiết của Liễu mà không biết Liễu đã có thai trước đó. Mặt khác, anh còn bị ông Phủ hăm dọa nên đành phụ bạc tình của Lan để lấy Thúy Liễu. Sau khi cưới nhau, Điệp mới vỡ lẽ là Thúy Liễu đã có thai hoang. Cảnh gia đình Điệp không có hạnh phúc vì sự khinh khi, hà hiếp của gia đình ông Phủ và cả Thuý Liễu nữa. Anh hối hận, xin ly dị Thuý Liễu và hy vọng sẽ trở về với Lan nối lại duyên tình.
Riêng Lan vì quá buồn rầu cuộc tình tan vỡ nên bỏ nhà xuống tóc, vào chùa Phương Thành tu, sau khi đả đào hố chôn một xác con bướm (Điệp) và cánh hoa lan (Lan) ý nói cô đã chôn chặt mối duyên tình năm xưa, quyết một lòng theo Phật. Điệp đã đến chùa Phương Thanh thăm Lan nhưng Lan thấy Điệp thì né tránh, không ra, mặc dù cô rất đau lòng. Sợ Điệp giựt dây chuông làm náo loạn cửa Thiền nên Lan dùng kéo cắt đứt dây chuông. Điệp buồn rầu trở lại nhà, anh quyết tâm tìm quên nổi buồn bằng cách tiếp tục theo đuổi việc đèn sách. Nhờ sự giúp đở của ông Tú cha của Lan, Điệp sang Pháp du học và trở thành bác sĩ, anh trở về nước mở một nhà thương riêng.
Sau đó vài năm, một hôm, có cậu bé đến tìm Điệp vi muốn truy tầm nguồn gốc cha của mình, cậu bé tên là Vũ, chính là đứa con hoang của Thuý Liễu với tên lính Cách tức Tư Kềnh mà cậu bé nghĩ rằng Điệp là cha của mình. Nguyên nhân là sau khi sinh đứa bé, Thuý Liễu đã lấy họ Vũ của Điệp để đặt tên cho con nên mới có sự hiểu lầm của cậu bé. Điệp đã lấy những giấy tờ chứng minh là mình không phải là ba ruột của Vũ. Sau cùng thi Vũ cũng tìm ra được cha ruột của mình là Tư Kềnh, một tên lính của ông quan Phũ ngày trước. Điệp đã gởi thư cho Lan tại Chùa để nói mình đã ly dị Thuý Liểu và muốn gặp lại Lan, nhưng cô tưỡng rằng Điệp còn ở với Thúy Liễu nên không đọc thư.
Sau đó Lan vì quá buồn rầu thân phận, tình duyên trắc trở nên mang bệnh nặng. Điệp được tin của Xuân, em gái Lan báo nên lập tức cùng Xuân đến Chùa chở Lan vào bệnh viện của mình. Bệnh Lan đã quá nặng nên Điệp phải nhờ nhiều bác sỉ bạn bè khác tiếp tay nhưng cũng không khỏi. Điệp cũng viện trợ ngành Đông Y chửa trị nhưng tất cả cũng đều bó tay. Mặc dù đã tìm hết cách cứu chữa, nhưng bệnh của Lan cũng không thuyên giảm. Lan qua đời để lại cho Điệp một mối hận lòng khôn nguôi.



B - TÓM LƯỢC CUỐN "HỒN BƯỚM MƠ TIÊN" CỦA KHÁI HƯNG:
Ngọc là một kỹ sư Canh nông học từ Pháp về, anh là cháu gọi sư cụ trụ trì Chùa Long Giáng bằng Bác. Anh có hẹn với sư cụ là khi về nước sẽ đến chùa thăm ông. Đến ngày hẹn, Ngọc vưà đến thì sư cụ đã sai chú tiểu Lan đón tiếp hướng dẫn về Chùa. Vốn tánh tình cởi mở, vui vẻ, phóng khoáng thêm chút lãng mạn từ khi học bên Tây nên Ngọc nhanh chóng làm chú tiểu Lan từ ngại ngùng, e dè người khách lạ, đã trở nên thân mật lúc nào không hay. Qua cách nói chuyện, dáng vóc, cử chỉ của Lan, ngay từ đầu Ngọc đã nghi cô là con gái giả trai đi tu. Ngọc nhất quyết trong thời gian ở lại Chùa sẽ khám phá điều bí ẩn nầy.
Thời gian ở Chùa, do sư cụ bố trí chú tiểu Lan chăm sóc việc tiếp khách nên Ngọc có nhiều cơ hội tâm sự với chú tiểu Lan về cuộc đời, đạo lý và tìm hiểu về đời tư chú tiểu nầy. Anh tìm cách nói xa, nói gần để dò hỏi ý tứ chú tiễu nhưng Lan đã né tránh. Về phần chú tiểu Lan, chú cũng nghĩ rằng Ngọc đã nghi mình là gái giả trai nên hết sức né tránh những câu trả lời về tình yêu.
Một đêm, Ngọc thấy chú tiểu Lan rón rén đi cầu nguyện một mình, Ngọc lén theo sau để xem coi chú cầu nguyện gì, Ngọc chỉ nghe tiếng cầu nguyện của chú tiểu Lan: " ...Phù hộ cho đệ tử ...đủ nghị lực xa chốn trầm luân. Đệ tử đã dốc lòng tin mộ đạo, không ngờ hôm nay mới biết lòng trần tục vẫn còn chưa rũ sạch, nhưng đệ tử xin thề...", Ngọc còn nghe rõ trong lời cầu nguyện của chú tiểu Lan có nói đến tên mình và cái tên Thi nào đó. Ngọc suy đoán là tên thật của chú tiểu Lan chính là Thi. Từ đó, Ngọc rắp tâm theo dỏi để tìm ra sự thật.

Một hôm sư cụ sai Ngọc và chú tiểu Lan sang Chuà Long Vân làng bên để trả quả ngày lễ.
Dọc đường hai người phải nhảy qua một cái mương, chú tiểu Lan phải nhờ Ngọc kéo nên ngã vào lòng Ngoc. Cái đụng chạm ấy làm cho Ngọc có cái cảm giác rất khó tả như ôm người con gái. Đến chùa Long Vân, họ sắp xếp Ngọc và chú tiểu Lan cùng ngũ một phòng. Chú tiểu Lan nhường cho Ngọc ngũ giường, còn mình thì ngũ đất, càng làm Ngọc nghi hoặc hơn. Trời tối dần, chú tiểu Lan đi với Ngọc về phòng ngũ, liếc thấy khuôn mặt Ngọc có vẻ khó hiểu nên hoảng hốt bỏ chay. Ngoc rượt theo nắm áo chú tiểu Lan lai thì cúc áo tuột ra. Ngọc phát hiện một cái yếm nâu sòng trên ngực chú tiểu Lan. Nhưng Ngọc giã vờ không thấy.
Nửa đêm Ngọc thức dậy thì thấy chú tiểu Lan đi đâu mất. Anh rón rén đi ra thi thấy chú tiểu Lan đang cắp tay nãi chạy trồn. Ngọc rượt theo gọi to, chú tiểu Lan thấy Ngọc rượt theo thì sợ quá té sấp bên gốc cây thông. Lúc đó chú tiểu Lan mới thú thật với Ngọc mình là gái. Lan tâm sự vì gia đình cô ép gã cô cho người không yêu nên cô trốn nhà giả trai lên Chùa Long Giáng xin đi tu, ngay cả sư cụ và những đồng môn cũng không biết cô là con gái. Cô yêu cầu Ngọc giữ kín chuyện nầy. Ngọc hứa là anh sẽ giấu kín không nói với ai để Lan yên tâm tu hành.
Ngọc thấy nếu mình ở lại chùa lâu, tình yêu Lan càng ngày càng sâu đậm, khó mà giữ lời hứa, nên trở về nhà ở Hà Nội mà không cho Lan biết. Khi trở về Hà Nội, Ngọc cảm thấy không thể xa cô nên quay trở lại Chùa Long Giáng để thăm Lan. Hai người gặp lại nhau, họ chấp nhận tình yêu của họ giử trong ý nghĩa thanh cao, trong sạch, nói cách khác, cái mà họ yêu nhau chính là tâm hồn để Lan trọn vẹn lời hứa là trọn đời quy y cửa Phật.



II - SO SÁNH HAI CUỐN SÁCH "TẮT LỬA LÒNG" VÀ "HỒN BƯỚM MƠ TIÊN"

Hai cuốn sách nầy đều viết theo chủ đề Tình Yêu lãng mạn và dang dở, tình yêu của họ được lồng vào khung cảnh đạo lý là cả hai nhân vật chính đều lấy cảnh tu hành cửa Phật làm nơi giải thoát cho những đau khổ của ái tình. Ta thử xem hai cuốn sách nầy có những điểm giống nhau, khác nhau như thế nào.

A - NHỮNG ĐIÊM GIỐNG NHAU:
A1 - HÌNH THỨC:

- Cả hai đều sử dụng lối viết văn xuôi, tả cảnh, tả tình, tả chân xen lẩn phân tích tâm lý nhân vật.
A2 - NỘI DUNG:

1. Cả hai đều lấy sự dang dở của tình yêu làm chủ đề chính: Ngọc và Lan trong "Hồn Bướm Mơ Tiên", Lan và Điệp trong "Tắt lửa Lòng".

2. Nhân vật nam chính trong cốt truyện đều là người trí thức: Ngọc là kỹ sư canh nông học từ Pháp về trong " Hồn Bướm Mơ Tiên", còn Điệp là lục sự Toá Án, sau đó là bác sĩ y khoa học từ Pháp về trong "Tắt Lửa Lòng".


B - NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU:
B1 - HÌNH THỨC:

1. Văn phong "Hồn Bướm Mơ Tiên" viết theo lối truyện dài, cốt truyện đơn giản, chủ yếu là dùng lối văn tả cảnh, phối hợp vời mô tả tâm lý nhân vật. Còn "Tắt Lửa Lòng" viết theo lối văn tiểu thuyết, chủ yếu là đối thoại và tả chân, ít tả cảnh và không đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật.

2. "Hồn bướm mơ tiên" ít nhân vật (Ngọc, Lan, Sư Cụ, chú Mộc, bà Hộ) không có nhân vật phản diện, còn "Tắt lửa lòng" nhiều nhân vật chính diện (Điệp, Lan, Ông Tú, Bà Cử, Xuân, Vũ, vú Áp, bà Hộ) cũng như phản diện (Thuý Liễu, ông Phủ, Tư Kềnh).

3. "Hồn bướm mơ tiên" cách bố cục khép chặt, kết nối các phân đọan gắn bó logic, còn "Tắt lửa Lòng" cách bố cục chia nhiều phân đọan, cách khoảng nhau, rời rạc.

4. "Hồn bướn mơ tiên" cốt truyện đơn giản, viết ngắn, còn "Tắt Lửa Lòng" cốt truyện dài, nhiều tình tiết éo le, viết dài.

B2 - NỘI DUNG:

1. "Hồn bướm mơ tiên" lấy bối cảnh là nhân vật chính đã đi tu trước, (chú tiểu Lan) rồi tình yêu tục luỵ đến sau. Còn "Tắt lửa Lòng" thì tình yêu tục luỵ đến trước rồi nhân vật mới đi tu sau (Cô Lan).

2. "Hồn bướm mơ tiên" nhân vật chính đi tu là gái giả trai (chú tiểu Lan), còn "Tắt Lửa Lòng" nhân vật chính đi tu là gái (cô Lan).

3. Kết thúc "Hồn bướm mơ tiên" là một kết thúc đa nguyên, nghĩa là một đoạn kết thúc đa chiều, có nhiều cách để người đọc suy diển theo sự xúc đông của mình, cảm nhận của tác phẩm đối với nhân vật. Còn "Tắt Lửa Lòng", kết thúc đơn nguyên, nghĩa là một kết thúc dứt khoát, để mọi người đọc đều có cùng một cảm xúc như nhau.

4. "Hồn bướm mơ tiên" lấy đạo là sự cứu rỗi, để hướng thượng tình yêu từ cái tiểu ngã trần tục sang cái đại ngã thoát tục, siêu nhiên, còn "Tắt lửa lòng" lấy đạo như là cách giải thoát, nơi trốn tránh những nổi khổ đau của trần tục, nơi tạm lánh để qua những khổ ải trần gian, lấy cái đại ngã để cứu lấy cái tiểu ngã.

5. Cách kết thúc của "Hồn Bướm Mơ Tiên" không gây cảm động, xúc cảm cho người đọc, còn "Tắt lửa lòng" gây xúc đông đến rơi nước mắt. Chính vì vậy nên vở tuồng cải lương "Chuyên Tình Lan và Điệp" của soạn giả Trần Hữu Trang đã rất nổi tiếng cho đến bây giờ. Một tác phẩm nhạc "Chuyện Tình Lan và Điệp" của Mạc Phong Linh cũng rất phổ biến từ thập niên 1960, được nhiều người biết đến.



III NHỮNG ĐOẠN TRÍCH DẪN TIÊU BIỂU TRONG HAI TÁC PHẨM:
A - TRICH DẪN TRONG "HỒN BƯỚM MƠ TIÊN":
Như tôi đả trình bày trong phần trên, "Hồn Bướm Mơ Tiên" dùng lối văn phong tả cảnh, tả tình, phân tích tâm lý nhân vật. Ta thử lược trích vài đoạn hay để thấy cái tài văn phong của Khái Hưng trong lĩnh vực nầy.

A1:
"Phía Tây, sau dãy đồi cỏ biếc, sắc trời đỏ ửng lấp loáng qua các khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu pong đã lẫn cùng mầu đất, cùng cây, cùng cỏ. Khoảnh khắc mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cảnh nhuộm đồng một mầu tím thẫm. Trong làn không khí yên tỉnh tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiến làm, tăng vẻ đẹp cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọn khói thướt tha, bông luá sột soạt như cảm tiếng gọi muốn theo về nơi hư không tịch mịch" (Đoạn tả cảnh chuà Long Giáng).

A2:
"Về phía đông mấy trái đồi phản chiếu ánh nắng chiều tà nhuộm một sắc da cam. Nền trời xanh nhạt lơ thơ mấy áng mây hồng. In trên cánh đồng luá chín mầu vàng thẫm con cò trắng thong thả bay về phí tây, đôi cánh lờ đờ cất lên đập xuống loang loáng ánh mặt trời. Bên cái quán cũ, ẩn nấp dưới đám mây đen trên con đường hẻm, vài ba đứa mục đồng cưởi trâu hát nghêu ngao trở về trong xóm. (Đoan tả cảnh Ngọc đang vẻ tranh cho chú tiêu Lan coi).

A3:
"Nói xong Ngọc quay đi, Lan ngồi phịch xuống bưng mặt khóc. Ngọc rón rén trở lại yên lặng đứng ngắm Lan. Mặt trời đã lặn sau dãy đồi Tây. Vạn vật nhuốm mầu ảm đạm... Lá rụng.
Lan mở choàng mắt, ngơ ngác nhìn. Rồi mỉm cười:
- Ông vẫn chưa về?

- Lan coi, Lan đuổi Ngọc về mà Lan vẫn mừng khi Ngọc còn ở lại. Trí Lan đi một đường mà tâm Lan đi một lối. Ngọc thương Lan, muốn hy sinh vì Lan.
Lan đăm đăm nhìn phía chùa se sẻ nói:
- Quên, phải quên.
- Nhưng nào quên được. Ngọc chẳng dám mơ màng nọ kia, chỉ ao ước thỉnh thoảng được lên Chùa nhìn thấy mặt Lan là đủ rồi. Vậy Lan cứ ở đây mà tu hành, rồi ngày Ngọc được nghĩ lại cho phép Ngọc phóng xe đạp lên Chùa thăm Lan.
Lan mỉm cười:
- Nếu được mãi như thế.
- Tôi xin thế với Lan là tôi giữ được mãi như thế, tôi thề với Lan rằng suốt một đời tôi sẽ chân thành thờ trong tâm cái linh hồn dịu dàng của Lan. Nghĩa là suốt đời tôi, tôi không lấy ai, chỉ sống trong cái thế giới mộng ảo cuả ái tình lý tưỡng, bất vong bất diệt.
Lan đưa vạt áo lau nước mắt:
- Tôi hiểu lầm ông rồi. Tôi xin ông lại nhà kẻo trời sắp tối.
Ngọc từ giã Lan dắt xe đap xuống đồi.
Bây giờ sắc trời dìu dịu, vạn vật như theo tiếng chuông chiều thong thả rơi vào quãng êm đếm tịch mịch. Lan đứng chấp tay tụng niệm, mắt lờ đò nhìn xuống con đường đất quanh co lượn khúc dưới chân đồi.
Gío chiều hiu hiu.
Lá rụng.

(Đoạn cuối).

B - TRÍCH DẪN TRONG "TẮT LỬA LÒNG"
B1
"Bệnh Lan mỗi lúc một trầm trọng đến nổi Điệp không những không có hy vọng chửa khỏi mà cũng không mong hằng ngày nửa, được giờ nào hay giờ ấy mà thôi. Điệp hết sức chữa cho Lan tỉnh trong một lúc để được nói chuyện trước khi vĩnh quyết nhưng khó quá, lúc nào Lan cũng li bì, mà ba bốn bận ngất đi. Bỗng nhiên Lan thở mạnh một cái, rồi hai con mắt mở to có vẻ có tinh thần. Điệp mừng quá nhưng là cái mừng trong sự tuyệt vọng, vì biết rằng đó là phút cuối cùng của đời Lan. Lan giương mắt nhìn Điệp và Xuân. Điệp ghé đầu lại gần gọi:
- Cô Lan
Xuân rơm rớm nước mắt:
- Chị ơi
Điêp hỏi:
- Cô Lan, cô có biết tôi là ai không?
Lan lim dim hai mắt gật đầu Điệp bảo:
- Cô thử nói tên xem có đúng không?
Lan giương đôi mắt chòng chọc nhìn vào mặt Điệp khẻ cất tiếng
- Điệp
Lan ú ớ nói líu lưỡi:
- Thầy mạnh chứ?
- Thầy mất sáu năm nay rồi chị không biết à?
Lan gật, rồi cố dùng hết sức hỏi Điệp bằng giọng khàn khàn khó nghe:
- Mấy con?
Điệp trố mắt ngạc nhiên hỏi:
- Cô tỉnh hay mê cô Lan?
- Tỉnh
- Thế cô có nhận được ba cái thư tôi gởi vào Chùa không?
Lan gật đầu
- Sao cô lại hỏi thế?
Lan lắc đầu đáp:
- Tôi không đọc
Một hồi trồng ngực làm cho Điệp bồi hồi. Điệp nhăn nhó hỏi dồn:
- Sao lại không đoc?
Lan lắc, lã ngẹo đầu thở dài:
- Thế cô có biết tôi bỏ Thúy Liễu ngay sau mấy tháng sau khi cười không?
Lan lắc đầu, Xuân nhìn Điệp nói:
- Hay la chị vẫn tưỡng Thuý Liễu vẩn ở với anh mà không muốn đứng giữa làm rối cuộc hoà hơp của gia đình anh nên mới thế?
Lan gật đầu. Điệp nói:
- Tôi không lấy ai cả, ngày đó tôi bị bắt buộc cưới Thúy Liễu chứ không nhận Thúy Liễu là vợ.
Lan gật đầu
- Ngày tôi bỏ Thúy Liễu tôi có đến Chuà định thăm cô, nhưng không vào vì tôi quyết lập thân trước, rồi mới nghĩ đến cuộc nhân duyên sau.
Một nụ cười héo hắt nở trên cặp môi khô đét của Lan
- Sao cô lại đày đọa thân cô quá thế. Cô làm gì nên tội để thiệt một đời?
Lan nhăn mặt, lắc đầu cố nói:
- Tôi tưởng ...
Rồi rú lên mà ho, ho xong hai mắt đờ ra, lim dim thở. Điệp hỏi:
- Thế ba cái thư tôi gởi giờ ở đâu?
Lan lim dim mắt
- Hòm (rương)
Điệp vò đầu bứt tai:
- Khổ quá, tôi thương cô quá
Điệp nức nở lên mấy tiếng, Xuân cũng thổn thức, Quanh mắt Lan bấy giờ cũng lóng lánh một quầng lệ. Rồi Lan rên, ú ớ như gọi, nhưng không còn ra tiếng gì nửa. Đứng trước cái phút cuối cùng của Lan, Điệp cảm động quá không thể khóc được, cố giương mắt nhìn Lan để được in sâu trong óc người đã hy sinh một đời cho mình được sung sướng. Rồi giật mạnh một cái, hai bàn tay lạnh như đồng, Lan chòang tay ra chặt lấy cổ tay Điệp và Xuân, thì một tiếng nấc, ngực Lan không thoi thóp nửa, hai mắt lờ đờ trắng phết vẩn cố mở nguyên để nhìn vào phía Điệp đứng.

(Đoạn cuối)

B2
"Tiếng kêu nổi lên theo gió đưa đi nhưng giọng rền rĩ sầu thảm, khói hương phảng phất bay lên. đám ma thong thả theo lối rẽ vào làng Văn Ngoại, rồi đi qua rặng tre bên bờ sông, người đưa mỗi lúc một đông ... Trời đã về chiều đã tăng cái vẻ sầu thảm, trời về chiều lại bày thêm cảnh đám ma có giọng khóc nỉ non ai oán. Tạo hoá như khéo vẽ lên bức tranh đoạn trường. Trống vẫn thúc, kèn vẫn rên. Hồn và xác Lan trong chiếc nhà táng nghênh ngang theo sau tiếng bát âm ẻo lả, lượn vùng quanh lũy, qua mấy thửa ruộng trồng mã đề thì hạ xuống, cạnh cái gò chính Điệp và Lan đã ngồi nói chuyện hôm mười sáu tháng năm khoảng mười lăm năm trước. Trời thấp dần. Núi non xa dần. Cảnh vật xung quanh đã nhuộm một mầu sẫm buồn rười rượi như sắp chết. Bức màn sương, trên rũ xuống. xa đưa lại cũng dần dà trùm khuất mọi nơi rải rác vè u ám thê lương vào buổi chiều hôm hiu hắt. Rồi sau, cây lẫn với núi, núi lẫn với trời, ánh sáng lờ mờ chỉ còn thu lại có một khỏang xung quanh gò đất nhô lên giữa cánh đồng không mông quanh"
"Chim lạc đàn bay về tổ đã hết, người đưa đám ma đi về nhà đã thưa. Thấy sự vắng vẻ mỗi lúc một buồn tênh như cảnh chợ buổi chiều hôm thưa lác đác. Điệp xúc động đến cái nỗi đời lẻ tẻ kẻ còn người khuất, tử biệt sinh ly, Rồi đây chàng cũng ít khi về thăm cái gò nầy, mà Lan sẽ một mình chôn chặt khối tình, chờ trăng, đón gió để ôn lại những ngày thơ ngây. Trời thấp dần. xung quanh không có một tiếng động. Núi non cảnh vật đều nhuôm một mầu đen bi đát như để tang. Giữa khoãng vũ trụ cao thâm man mác, trên đỉnh gò còn trơ hai cái bóng người đen đen nhỏ xíu đứng sững gục đầu lặng lẽ trước nấm mồ mới đắp".

(Đoạn cuối).



Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2025

Chuyện tình Lan & Điệp qua góc nhìn của đạo Phật


Chuyện tình Lan & Điệp qua góc nhìn của đạo Phật

Hành Vân


(TG&DT) - Tiếng chuông Chùa ngân vang trầm hùng thanh thoát, nhưng Lan đã nghe với một khuynh hướng sai lầm. Nếu Lan muốn cắt tóc quên đời thì nàng không nên vào Chùa, bởi chùa không phải là chỗ để làm việc đó. Chùa của Phật giáo là nơi để rèn luyện tu sửa, là trường thi làm Phật.

[...]
Trên đây là những thông tin về các tác phẩm Lan và Điệp mà Wikipedia đã cung cấp cho chúng ta, được sửa lần cuối vào lúc 9g30’ ngày 22/02/2011.
Về 4 bài tân nhạc Chuyện Tình Lan và Điệp được phổ biến ở Việt Nam lâu nay, sẽ được trích dẫn để lấy ý tứ cho bài bình luận này. Còn truyện Tắt Lửa Lòng, vở cải lương Chuyện Tình Lan và Điệp, vở tân cổ Lan và Điệp… quý đọc giả có thể tìm trên mạng để xem thêm nếu có nhu cầu tìm hiểu kỹ.
Tôi kể người nghe đời Lan và Điệp, một chuyện tình cay đắng,
Lúc tuổi còn thơ tôi vẫn thường mộng mơ đem viết thành bài ca.
Thuở ấy Điệp vui như bướm trắng, say đắm bên Lan
Lan như bông hoa ngàn, thương yêu vô vàn,
Nguyện thề non nước sẽ không hề lìa tan…
Chuyện của Lan và Điệp là những câu chuyện muôn thuở của nhân sinh. Định dạng của những câu chuyện này là kể về các tình yêu đôi lứa, sẽ trải qua những trắc trở nào đó, cuối cùng là một kết thúc có hậu hay một kết thúc đáng tiếc… Chuyện của Lan và Điệp là một chuyện tình cay đắng, vậy ta có thể biết được là nó có một kết cục đáng tiếc.
Chuông đổ chùa xa, chiều tan trường về, Điệp cùng Lan chung bước
Cuối nẻo đường đi, đôi bóng hẹn mùa thi, Lan khóc đợi người đi.
Lần cuối, gặp nhau Lan khẽ nói: “Thương mãi nghe anh, em yêu anh chân tình.
Nếu duyên không thành, Điệp ơi Lan cắt tóc quên đời vì anh!”…

Tiếng chuông Chùa ngân vang trầm hùng thanh thoát, nhưng Lan đã nghe với một khuynh hướng sai lầm. Nếu Lan muốn cắt tóc quên đời thì nàng không nên vào Chùa, bởi chùa không phải là chỗ để làm việc đó. Chùa của Phật giáo là nơi để rèn luyện tu sửa, là trường thi làm Phật (Tuyển Phật trường) chứ đâu phải đơn giản. Sau này, khi duyên không thành, Lan quả thật đã đến Chùa và một vị thầy nào đó đã bất cẩn cho một kẻ giả trai, một kẻ thất tình đi tu. Xuống tóc rồi, Lan có an tâm tu hành được chút nào, cô ta đã phát tâm Bồ-đề bao giờ, nên “chú Điệp” lúc nào cũng chỉ nhớ đến chàng Điệp! (Lan đã lấy tên Vũ Khắc Điệp, tên của người yêu để đi tu ở một chùa Tăng). Trong trường hợp của Lan, dân gian gọi là “tu hú” cũng chẳng sai.
Lan gói niềm riêng tìm quên lãng ngày qua bên mái chùa,
Sớm chuông chiều kinh mặc thời gian dần trôi trong tái tê.
Nàng không sao xóa tình yêu xưa cũ,
Dẫu cho con thuyền neo bến đường tu.
Lan không mong chờ, nhưng Lan bây giờ mấy ai nào ngờ!...
Một ly nước đã đổ, Lan có thể mong chờ được gì? Cái không mong chờ của Lan là không mong chờ mọi thứ vì đã quá mong chờ một thứ, mà bây giờ thứ ấy chỉ còn là dĩ vãng, đó là một tình yêu đẹp, trọn vẹn thủy chung. Thật tội nghiệp cho Lan, thân đã đến đạo tràng mà tâm vẫn chìm trong tình trường, nên xem như Lan chưa đến được Phật đài. Sự bế tắc trong tâm hồn của Lan quả thật có mấy ai ngờ...
Lỡ một cung đàn, phải chăng tình đời là vòng dây oan trái?
Nếu vì tình yêu, Lan có tội gì đâu sao vướng vào sầu đau?...
Ớt không cay người ta không ăn, chanh không chua người ta không dùng, mía không ngọt người ta không thích, thịt không béo người ta không ham… Cái sở thích hưởng dụng của người đời là phải có đủ đắng, cay, chua, chát, ngọt, béo, mặn, nồng, bùi, dai, giòn, bở, ngắn, dài, vuông, tròn… thì mới vừa lòng. Họ đã thường có khuynh hướng như thế, hiếu động, không bình lặng, chẳng thanh đạm, ưa sanh diệt tưng bừng hơn là cảnh giới tâm như như bất động mà tùy duyên hiện khắp. Vậy mà họ còn làm như thơ ngây tự hỏi “Phải chăng tình đời là vòng dây oan trái?”. Làm sao mà không oan trái cho được, khi khuynh hướng của nó ngay từ đầu đã như thế! Có đôi uyên ương nào mà chưa từng cắn đắn nhau? Có mối tình nào lại không được tô đắp bởi đủ thứ giận, hờn, thương, ghét?...

Nói về tội của Lan thì đó là dạng tội của Adam và Eva, là những tội chưa xử của nhân loại. Nhiều người đã lên tiếng rằng yêu không phải là một cái tội, rằng mọi điều đều có thể được tha thứ vì tình yêu, rằng tình yêu là nhân bản… Nhưng Thánh Kinh của Thiên Chúa giáo đã thẳng thắn gọi đó là tội tổ tông, là tội dòng, là tội di truyền, và vì cần thường phải sám hối nên đây cũng là tội chưa xử. Nếu chưa xử thì hôm nay chúng ta sẽ xử nó, giải phẫu nó, để trên thế gian này bớt đi những câu chuyện của Điệp và Lan.
Điệp ơi, duyên lỡ làng rồi thôi đành chờ kiếp sau.
Đừng đem ân tình thương nhớ đến đây chi thêm sầu!
Cánh cửa trần tu khép lại rồi mà chuông còn reo mãi,
Lan giận đời nên nàng cắt đứt dây chuông từ lưu luyến…
Yêu như Lan đã yêu là tình yêu có phần thật thà, thiếu hiểu biết. Điệp đã tìm đến giải thích rõ lý do mà Lan còn tự chuốc lấy sầu muộn làm gì nữa. Điệp đã là một nạn nhân chứ có sung sướng gì. Tình yêu là mơ còn hôn nhân lại là thật. Giấc mơ thường đẹp vì nó thường chủ quan theo ý riêng. Thực tế thường không đẹp bởi thực tế thường khách quan không theo ý riêng. Nếu Lan không hiểu được những điều đó thì kiếp sau lại chỉ làm khổ nhau mà thôi! Tốt nhất là đừng hứa hẹn gì khi lòng còn quá nhiều vướng bận.
Ai đã từng yêu, cảm thông nỗi niềm đau thương với nàng
Mối tình đầu tiên nàng đành chôn vùi theo bướm hoa.
Sầu cho thân gái tình duyên ngang trái,
Tiếng chuông đêm dài như tiếng thở than,
Như đem tin buồn, như gieo hoang tàn đến cho đời nàng!...

Quả thật như thi hào Nguyễn Du đã nói:
Người sầu cảnh cũng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!

Phật pháp đã chỉ rõ tướng của các pháp đều là giải thoát, buồn hay vui chính là do tâm sanh sự, tiếng chuông chùa vốn chẳng hề làm phiền ai cả… Tiếng chuông chùa ban đêm đã được cảm ứng là dài như tiếng thở than chỉ với những cái tâm như cô Lan mà thôi. Các nhạc sĩ, nghệ sĩ, ca sĩ và các khán thính giả Việt Nam suốt 80 năm qua có như cô Lan không? Họ đã thường gieo trồng những hạt giống như thế vào tâm, chắc rằng dần dần họ cũng sẽ thành những người ủy mị như Lan không khác...
Đời Lan khác chi như một cành hoa xuân hương sắc sớm phai màu!
Một đêm gió mưa, bên ngọn đèn quạnh hiu Lan đã trút linh hồn.
Ngoài xa từng tiếng cú kêu sương ôi thê lương,
Gió than não nề trong màn đêm nghe đau thương,
Từng hồi chuông ngao ngán
Ngân dài như khóc than,
Tiễn một linh hồn!...

Thật đáng tiếc thay, thật đáng thương thay, một cô gái trẻ lỡ bị cùng đường quẩn lối! Nếu những lúc đó Lan có một người mẹ, hay một chị gái, hay một người thầy hiểu biết… thì có lẽ cuộc đời Lan sẽ tươi sáng hơn. Ảm đạm, thê lương thay tâm trạng của Lan trong những giờ phút cuối đời. Với tâm trạng đó dĩ nhiên Lan xuống địa ngục chứ có thể đi đâu. Phải chăng đây là sự lựa chọn khôn ngoan của một người có giáo dục?
Mộng tình đã vỡ, thương tiếc cánh hoa lan
Nụ cười đã tắt, có ai khóc cho nàng?
Nàng lìa trần gian,
Những câu chuyện Điệp và Lan
Thương mãi vô vàn!...

Mộng tình đã vỡ ư? Có lẽ là chưa, bởi nếu thật vỡ thì phải thấy nhẹ nhàng giải thoát chứ! Một mụt nhọt vỡ ra là đến lúc nó hết đau nhức, một mối nghi bùng vỡ là khi người ta bừng sáng, một giấc mộng tình đã vỡ là lúc người ta thức tỉnh… nói chung đều là tin mừng chứ sao còn thương tiếc? Mộng tình trong lòng Lan chưa vỡ mà mộng tình trong lòng mọi người cũng chẳng chịu vỡ nốt. Chẳng phải là mọi người đang dùng những tác phẩm Lan và Điệp này để tô đắp thêm thật nhiều mộng tình đó sao? Cho nên câu thơ đầu đoạn trên phải là: “Mộng tình lẩn quẩn, thương tiếc cánh hoa lan” thì mới thích hợp…
Người ơi chuyện xưa
Điệp yêu Lan tha thiết,
Khấn xin ơn trời cao
Khép đôi tim vào nhau
Đến khi bạc đầu!...

Một giấc mộng muôn kiếp! Ai cũng mong muốn chiếm hữu khi yêu. Tình yêu của Lan giành cho Điệp là tình yêu thường tình, chưa có đủ sự hiểu biết, tha thứ và nhẫn nại. Lan đã cho Điệp nhiều và dĩ nhiên là Điệp phải báo đáp. Tình yêu của Lan không phải là tình yêu vô điều kiện, nên nó cũng chứa sẵn những niềm thất vọng, giận dỗi, khổ đau… Thật là:
Âu cũng bởi lòng trần vọng niệm
Để xa rời một điểm chơn như,
Đường trần từ đó ngẩn ngơ
Càng rong ruổi bước càng mờ mịt xa!...

Trong khuynh hướng túy sanh mộng tử của người đời, Chuyện Tình Lan và Điệp đã được nhiều người tô vẽ và biết đến. Dưới tác động của sự mơ mộng chất chồng nhiều tầng lớp, Chuyện Tình Lan và Điệp đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, được dùng làm món ăn tinh thần cho bao người đang hụp lặn trong tình trường. Biết bao người trên thế gian này đang mơ mộng và không ngừng mơ mộng, có lẽ vì giấc mơ thú vị hơn hiện thực họ đang sống.

Lan và Điệp đầu tiên là con đẻ của văn sĩ Nguyễn Công Hoan. Dần dần, Lan và Điệp là con tinh thần chung của biết bao người Việt Nam. Tại sao mọi người không sanh ra những đứa con hoàn hảo hơn chứ? Tại sao người ta cứ thích có những đứa con trai, con gái èo uột, mau nước mắt, cả đời sống trong bất hạnh đáng thương? Khi con cái sống bất hạnh thì kẻ làm cha mẹ có hạnh phúc không? Cưu mang hoài những đứa con ảo đó làm chi, chỉ thêm thúi ruột thúi gan...

Trong khuynh hướng tỉnh thức chánh niệm của hàng Phật tử, những câu chuyện Điệp và Lan đã được nhìn nhận thực tế. Với trí tuệ, các Phật tử đồng thời có được lòng từ bi thích đáng để hiểu và thương cho Điệp và Lan. Điệp và Lan đã sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh xã hội của họ. Cả hai người đều quá trẻ để có thể sống tự chủ trước những khuynh hướng, những định kiến và những gió bão của cuộc đời. Những giọt nước mắt thầm khóc mỗi ngày của Lan, những dòng lệ nghẹn ngào trong tim của Điệp là điều đáng được thông cảm.

Tuy thông cảm nhưng ta không chấp nhận, không ngâm nga hoài những câu chuyện bất hạnh và tiêu cực, không để mỗi ngày mỗi dệt ra những câu chuyện buồn thảm trong tâm tư. Ta nên sửa lại những tình tiết và đoạn kết của Chuyện Tình Lan và Điệp, để cuộc sống này có ý nghĩa hơn, để con người được hạnh phúc chân thật hơn. Xin hãy ghi nhớ lời dạy quý báu của cổ đức:
“Ai đứng dưới chữ ÁI người đó là chúng sanh. Ai đứng trên chữ Ái, người đó là Phật vậy!”.



Hành Vân






Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

Phong cách truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan


Phong cách truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan

Giáo án bài giảng Ngữ văn


MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
C. PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO





PHẦN MỞ ĐẦU

Nguyễn Công Hoan là một trong những đại biểu ưu tú của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước cách mạng tháng Tám.

Trong kho tàng truyện ngắn của dân tộc, Nguyễn Công Hoan đã đóng góp một khối lượng lớn và có một nghệ thuật khá điêu luyện. Đi vào thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, ta có cảm tưởng như bước vào một khu triển lãm phong phú, nhiều màu nhiều vẻ về những cảnh ngộ, những con người đang múa may, khóc cười trong chế độ cũ. Có những chuyện độc ác, tàn nhẫn, những chuyện xấu xa, rởm hợm, những chuyện thương tâm, ai oán cùng những chuyện nực cười lố lăng trong cái xã hội thực dân phong kiến đầy những ngang trái bất công. Bên cạnh đó là phác thảo chân dung của một số vị tai to mặt lớn, nhiều kẻ hách dịch, đầy quyền thế đang sống phè phỡn trong giới thượng lưu lúc bấy giờ.



PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN

1. Cuộc đời:
Nguyễn Công Hoan quê làng Xuân Cầu xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 trong một gia đình quan lại xuất thân nho học thất thế, bất mãn với xã hội thực dân và bọn quan lại mới. Chính ở trong gia đình mình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối, những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích bọn quan lại.Những thơ ca và giai thoại này đã ảnh hưởng sâu sắc đến lối viết của ông sau này.

Năm 1926, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Nam Sách, Kinh Môn, Lào Cai, Nam Định, Trà Cổ…) cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Sau cách mạng ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông gia nhập quân đội, là biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, Chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Năm 1948 ông được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, viết sách giáo khoa và biên soạn cuốn “Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950” dùng cho lớp 7 hệ 9 năm và viết báo “Giáo dục nhân dân” cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Nguyễn Công Hoan cũng là một trong những nhà văn hiện đại mà tác phẩm đưa vào sách giáo khoa đã đáp ứng được yêu cầu quan trọng là dạy cho học sinh hiểu, nói, viết tiếng Việt đúng nhất, tốt nhất.

Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề viết văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong các khóa chấp hành Hội tiếp sau đó, đồng thời là ủy viên Ban chấp hành Hội Liên Hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Tên tuổi của ông đã được ghi trong Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô từ những năm 60 và cũng ngay những năm 60 giáo sư tiến sĩ Niculin đã gọi ông là “bậc thầy về truyện ngắn châm biếm”.

Nguyễn Công Hoan viết văn rất sớm, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường và ngay từ những ngày đầu cầm bút, ông đã xác định được hướng đi và phong cách viết.Ông chuyên viết về những đề tài phản ánh hiện thực xã hội, sở trường là bút pháp hiện thực trào lộng.Ông đã vẽ lên bức tranh sinh động về xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, đầy rẫy bất công, giả dối. Ông đả kích không thương tiếc bọn quan lại tham lam, bỉ ổi, chức cao nhưng ít tài đức, bọn địa chủ cường hào keo bẩn, ngu dốt, bọn tư sản vô lương tâm chỉ biết chạy theo đồng tiền và lối sống tư sản lố lăng, đồi bại, đồng thời ông rất thương cảm với cảnh cơ cực của những người nghèo khổ, bênh vực họ.

Là một nhà văn tài ba và tâm huyết với đời, với nghề, Nguyễn Công Hoan độc đáo từ cách nhìn rọi vào cuộc đời, ông lắng nghe và lọc từ trong đó ra những tấn bi kịch và đưa nó vào tác phẩm bằng một giọng văn giễu cợt, mỉa mai. Những cái đó tạo nên phong cách truyện ngắn vô cùng độc đáo, một phong cách rất riêng làm cho ông khác hẳn những nhà văn hiện thực đồng thời với ông.

Nguyễn Công Hoan viết nhiều trong những năm 1920 - 1945. Truyện dài của ông cũng chiếm khối lượng lớn, song cái phần đặc sắc chỉ riêng Nguyễn Công Hoan mới có lại ở truyện ngắn. Trong số những truyện dài của ông tiêu biểu là tác phẩm “Bước đường cùng” (xuất bản năm 1938), cuốn truyện ra đời vào lúc phong trào Mặt trận Dân chủ lên cao, có ảnh hưởng rất sâu rộng. Chính quyền thực dân đã phải ra lệnh cấm lưu hành. Từ sau năm 1954, ông cũng có nhiều truyện ngắn viết về cải cách ruộng đất và chiến sĩ cách mạng.

Ngày 6/6/1977 Nguyễn Công Hoan mất tại Hà Nội, thọ 74 tuổi.

Năm 1988, tại cuộc hội thảo khoa học “Nguyễn Công Hoan, con người và sự nghiệp” tổ chức ở Hà Nội nhân 85 năm ngày sinh của nhà văn (1903-1988), nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu văn học có tên tuổi trong nước đã tỏ lòng trân trọng và đánh giá đúng mức giá trị bộ tiểu thuyết “Đống rác cũ” của ông, bộ tiểu thuyết đã bị thu hồi năm 1963.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã vinh dự được là một trong 14 nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.


1.1 Sự nghiệp văn chương:

Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.Ông được coi là người mở đầu cho trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Nguyễn Công Hoan còn là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất sắc. Hơn nửa thế kỉ cầm bút nhà văn để lại một số lượng lớn các tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau, trong đó nổi bật là truyện ngắn. Nhiều trong số các truyện ngắn của ông được xếp vào truyện hay, có ý nghĩa tiêu biểu cho nền văn học dân tộc.

Sáng tác của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều thế hệ độc giả. Trải qua sự thử thách lâu dài của thời gian, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ngày càng thu hút sự quan tâm của bạn đọc trong nước và ngoài nước. Điều đó chứng tỏ, truyện ngắn của ông vừa mang những giá trị dân tộc đặc thù vừa đạt được những giá trị chung phổ quát của văn học thế giới.

Qua hơn 50 năm cầm bút, ông để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm hơn 200 truyện ngắn, hơn 30 truyện dài cùng nhiều bút ký, hồi ký, tiểu luận về ngôn ngữ, văn học, nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ở Liên Xô (cũ), Trung Quốc, Bungari, Ấn Độ, Nhật Bản, Anbani…


1.1.1. Truyện ngắn:
- Thời kỳ 1929 – 1935:
+ Tiếng cười trào phúng (Thật là phúc, Cái nạn ô tô, Đàn bà là giống yếu).
+ Tiếng cười chua chát, thấm thía (Kép Tư Bền, Vợ, Ngậm cười)
+ Tiếng cười khôi hài, nội dung phù phiếm (Quan tham nửa giờ, Kìa con!, Nhân tình tôi).

- Thời kỳ 1936 – 1939:
Nội dung phản ánh phong phú, sâu sắc hơn
+ Đả kích những cái xấu (Vẫn còn trịch thượng, Chiếc đèn pin, Nạn râu, Ngượng mồm, Gánh khoai lang).
+ Đả kích nhằm vào giới “ông chủ” (Quyền chủ, Phành phạch, Hai cái bụng, Lại chuyện con mèo).
+ Người nông dân lao động (Chiếc quan tài, Được chuyến khách, Sáng, Chị phu mỏ).
+ Chính trị - thời sự, mang tính chiến đấu (Đào kép mới, Tinh thần thể dục).

- Thời kỳ 1940 - 1945:
Nội dung phản ánh phong phú, sâu sắc hơn
Tiếp tục thực hiện trào phúng (Công dụng của cái miệng, Người thứ ba, Con ve).


1.1.2. Truyện dài:

Có số lượng lớn và đề cập tới nhiều nội dung khác nhau (Tắt lửa lòng, Lệ Dung, Tấm lòng vàng, Ông chủ, Bà chủ).


1.1.3. Tiểu thuyết:

Ngoài ra còn có nhiều tiểu thuyết nổi bật như (Lá ngọc cành vàng, Bước đường cùng, Cái thủ lợn, Đống rác cũ).



1.2 Vị trí của Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trong văn học dân tộc

Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến một bậc thầy truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại. Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông các cấp. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan rất đa dạng, phong phú mà đặc trưng nhất là xã hội phong kiến của thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vì thế mà ông được mệnh danh là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Trong suốt mấy mươi năm cầm bút ông đã có những đóng góp hết sức lớn lao với nhiều thể loại như trào phúng, tiểu thuyết và truyện ngắn. Đóng góp lớn nhất và thành công nhất của Nguyễn Công Hoan là truyện ngắn vì vậy mà khi đánh giá vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam không thể bỏ qua tiêu chí truyện ngắn và phải lấy nó làm tiêu chí hàng đầu.

Đóng góp lớn lao về mặt truyện ngắn đã góp phần định hình cho phong cách truyện ngắn của Ông. Nói cách khác, để tìm hiểu được phong cách truyện ngắn hay đặc điểm phong cách truyện của ông ta phải thấu hiểu được nội dung phản ánh trong truyện ngắn của ông từ đó thấy được tầm danh hiệu vĩ đại mà giới nghiên cứu cũng như độc giả đã mệnh danh ông là bậc thầy truyện ngắn.

Trong suốt 15 năm từ năm 1930 đến 1945 nền văn học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trên các mặt như: thể loại, đội ngũ sáng tác, nhân vật điển hình,…. của nhiều cây bút tài hoa như: Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao,… với nhiều nội dung phản ánh khác nhau như: mâu thuẩn giai cấp, những chuyện đời thường…. trong đó không thể không kể đến nhà văn Nguyễn Công Hoan. Sở dĩ như vậy là vì hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Công Hoan đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam hơn 300 truyện ngắn, hơn 20 truyện dài. Nguyễn Công Hoan là nhà văn chưa bao giờ bị quên. Ông là người thường xuyên được nhắc nhở trong làng văn Việt Nam hiện đại. Người có vị trí như ông không phải là quá hiếm hoi nhưng có người danh đang nổi như cồn bỗng bị lãng quên ngay, là người hiện diện của độc giả.

Nguyễn Công Hoan là người đặt nền móng cho khuynh hướng văn học hiệnthực đầu thế kỷ XX, là cầu nối giữa truyện ngắn cũ và truyện ngắn đời sau.

Có thể nói Nguyễn Công Hoan là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam.Nguyễn Công Hoan đến với chủ nghĩa hiện thực bằng văn học trào phúng.Từ những truyện đầu tiên, ông đã tìm đề tài trong những người nghèo khổ, cùng khốn của xã hội.Đa số nhân vật phản diện của ông đều thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có và quan lại, cường hào. Toàn những cảnh xấu xa, bỉ ổi, những chuyện bất công, ngang ngược, những con người ghê tởm, đáng khinh bỉ. Nguyễn Công Hoan tạo ra những tình huống bất ngờ, rồi phá lên cười và làm cho người khác cười theo, nhưng ngẫm lại thật thương tâm đau xót.

Tác phẩm “Kép Tư Bền” (1927) đã gây chấn động trên văn đàn, và là đề tài cho cuộc bút chiến giữa hai quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh.

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng cười như một "vũ khí của người mạnh" để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng... Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc điểm của nó đã nâng cao khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp... Chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Công Hoan và coi ông là bậc thầy truyện ngắn... Nguyễn Công Hoan là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại... Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn khổ của giáo huấn và tiếp nhận, tuân theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả hiện thực. Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của Nguyễn Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là "cổ điển" trong nền văn học hiện đại.

Trong các nhà văn hiện thực tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nguyễn Công Hoan nổi lên là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất sắc độc đáo và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Con đường viết văn của ông đã bộc lộ đầy đủ tính cách và hoàn cảnh riêng tạo nên đặc điểm cây bút ông. Ông là một trong những người đã đặt nền móng cho dòng văn xuôi hiện thực phê phán. Đó cũng là thời kỳ văn học Việt Nam đang ở buổi sơ khai của nền văn học viết bằng chữ quốc ngữ mà mỗi tác giả đều phải tự tìm lấy mình, tự khẳng định mình, khẳng định văn học Việt Nam. Nguyễn Công Hoan đã chọn và dám táo bạo đi thẳng đến một mình viết những truyện trong đời sống bình thường, về những con người cùng khổ bị bọn cường hào địa chủ, tham quan, ô lại đè nén, bóc lột đến cùng cực và bị giết hại. Bằng con mắt nhìn đả kích giễu cợt sâu cay, xuất phát từ tấm lòng căm giận kẻ cường quyền, bọn cường hào, địa chủ và tình yêu thương, đồng cảm những người nghèo khổ.

Trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tác giả Nguyễn Trác nhận định:
“truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một tấn trò đời rộng rãi và phong phú. Ông chỉ cốt khám phá trong hiện thực những mâu thuẫn, những cảnh tương phản hoặc trái ngược nhau. Thế giới của Nguyễn Công Hoan là thế giới của những kẻ khốn khổ đáng thương”.

Ông có sở trường về cách mô tả tư cánh hèn hạ, đê tiện hết chỗ nói của bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại hãnh tiến giàu có sang trọng và khinh người.

Truyện ngắn của ông linh động lại có nhiều cái bất ngờ, làm cho người đọc khoái trá vô cùng. Những truyện ngắn của ông tiêu biểu cho một thứ văn rất vui, thứ văn mà có lẽ từ ngày nước Việt Nam có tiểu thuyết viết theo lối mòn người ta chỉ thấy ở ngòi bút của ông thôi.

Thời kì 1929-1935 Nguyễn Công Hoan viết theo 3 chủ đề:

- Tố cáo, lên án những bọn chuyên sống bằng cách áp bức, bóc lột những người nghèo khổ.
- Miêu tả những cảnh khổ cực của người nông dân và của ngững người nghèo khác như kép hát, đi ở, phu xe...
- Phê phán những hạng người tuy không phải là tư sản nhưng nhờ đế quốc mà phong lưu, ảnh hưởng lối sống tư sản đồi truỵ ở Châu Âu.

Thời kì 1936-1939: Nguyễn Công Hoan đã có những truyện châm biếm, đả kích cả tên đầu sỏ phong kiến rồi tên thực dân Pháp, cả những vấn đề chiến tranh chống phát xít. Đối với tầng lớp lao động ông đã có những truyện viết về công nhân.

Thời kì 1940-1945: Ngòi bút Nguyễn Công Hoan tuy phần nào biểu lộ sự bất bình, tố cáo những hiện tượng áp bức nhưng do những khó khăn khách quan và cả chủ quan nên mặt tiến bộ của nhà văn không phát triển được, còn mặt tiêu cực thì lại có dịp được bộc lộ. Đó là tư tưởng vốn có của nhà văn, cộng với ảnh hưởng một cách không tự giác của chủ trương không phục cổ của thực dân phát xít.

Tác giả có một nhận định chung

“Với Nguyễn Công Hoan thì chỗ mạnh nhất của ông là miêu tả nhân vật phản diện, tức bọn quan lại, địa chủ, cường hào với bao điều xấu xa, dơ dáng của xã hội cũ”. “Cách miêu tả nhân vật là miêu tả trong sự đối lập giữa hai sự vật, bản chất khác nhau, giữa bản chất - hiện tượng, giữa nội dung - hình thức”.
Tác giả Nguyễn Đức Đàn trong Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam. NXB khoa học xã hội 1968, đã nhận xét về thế giới nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan như sau:
“Với một số lượng khá lớn như vậy truyện ngắn Nguyễn Công Hoan hợp thành một bức tranh rộng lớn khá đầy đủ về xã hội cũ. Hầu hết trong xã hội thực dân phong kiến đều có mặt: nông dân, công nhân, tiểu tư sản, trí thức làm các nghề tự do như thầy thuốc, làm báo, nhà văn, nhà giáo, các nghệ sĩ, rồi tư sản, nhà buôn, nhà thầu khoán, địa chủ, quan lại, cường hào, nghị viên, công chức, học sinh, cô đào, nhà thổ, đứa ở, phu xe, kẻ cắp, anh hát xẩm, chị bán hàng rong, binh lính, bồi bếp…Từ các giai cấp bị áp bức, bóc lột, các giai cấp thống trị và các tầng lớp trung gian cho đến những người ở dưới đáy của một xã hội hết sức phức tạp”.
Trong một bài nghiên cứu Phan Cự Đệ cũng đã chỉ ra những đóng góp và hạn chế:
“Truyện của Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần gũi với truyện cười dân gian. Chú ý xây dựng cốt truyện hơn là xây dựng tính cách nhân vật”.
Trong lời giới thiệu Truyện ngắn Việt Nam 1930-1945 nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung đã nhấn mạnh về tài năng của Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn
“truyện ngắn cuả Nguyễn Công Hoan là hiện tượng chưa từng có tới hai lần trong văn học Việt Nam”. Tính chất trào phúng ở Nguyễn Công Hoan là thuộc về “năng khiếu thiên bẩm” là sự kế thừa truyền thống trào phúng của văn học dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay các công trình nghiên cứu của GS Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung đã để tâm nhiều đến tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan. GS Nguyễn Đăng Mạnh viết:
“Hầu hết truyện ngắn và truyện dài của Nguyễn Công Hoan đều xoay quanh sự đối chọi giữa kẻ giàu và người nghèo. Một đằng chẳng làm gì cả mà ăn ngập mày, ngập mặt không hết tiền, hết của. Một đằng thì vất vả đủ đường mà suốt đời đói rách”.


Chương 2: PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN ĐỘC ĐÁO CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN

Nguyễn Công Hoan là nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện nghĩa hiện thực. Do đó, phong cách truyện ngắn nổi bật của ông là phong cách hiện thực và trào phúng. Thông qua phong cách trào phúng nhà văn dường như lột tả được những vấn đề phi lí, ngược đời trong xã hội đương thời, tính hiện thực do đó cũng bao trùm lên tất cả các phương diện từ nội dung đến hình thức nghệ thuật trong truyện ngắn của ông. Nét độc đáo trong phong cách truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thể hiện sinh động ở đề tài, chủ đề, cốt truyện, kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, giọng điệu, nghệ thuật trần thuật, các thủ pháp nghệ thuật.

2.1 Đề tài, chủ đề

Nguyễn Công Hoan dành sự quan tâm đến cuộc sống nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

Đặc biệt, ông đi sâu vào quan hệ giữa kẻ áp bức và người bị áp bức.

Ông thương xót rất nhiều những gia đình nông dân thất cơ lỡ vận, phải ra Hà Nội kéo xe (Ngựa người, người ngựa; Được chuyến khách…). Những kẻ lưu manh là nạn nhân của xã hội nước ta dưới ách thực dân Pháp (Thằng ăn cắp; Bữa no... đòn…). Ông đả kích, phê phán bọn quan lại, hàn, nghị và cường hào (Báo hiếu: Trả nghĩa cha; Báo hiếu: Trả nghĩa mẹ…).

Nguyễn Công Hoan là nhà văn của người nghèo, có tinh thần dân chủ, dân tộc. Ông là nhà văn ác cảm với bọn có tiền, có quyền trong xã hội thực dân. Ông chuyên tả những cảnh xấu xa bỉ ổi, những cảnh bất công vô lí trong xã hội nước ta dưới thời Pháp thuộc nhằm phê phán xã hội, đạo dức luân lí.

Đây là cách chọn đề tài đơn giản, gần gủi (đề tài nhỏ) để nói về chủ đề lớn.

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã vạch trần “tính phi logic của cái bình thường”, sự phi lí trong xã hội Việt Nam thuộc địa phong kiến lúc bấy giờ. Trong truyện “Báo hiếu: Trả nghĩa mẹ” ông công kích hạng trọc phú ăn ở với mẹ không ra gì. Tên này gọi mẹ bằng “con vú già”, để vợ đầu độc mẹ chết cho khuất mắt, rồi “trả nghĩa mẹ” bằng cách làm đám ma thật linh đình để báo hiếu. Trong truyện “Hai thằng khốn nạn” ông dựng lên một tên trọc phú keo kiệt khác. Đó là một ông Nghị bỏ ra ba hào mua một thằng bé nhưng vì lưng thằng bé có nhiều nốt ruồi nên hắn ta đã bớt lại hai xu mà vẫn còn tiếc là đắt quá! Hay trong truyện “Mất cái ví”, ông đã nhạo báng ông Tham, một tên đểu cáng giả vờ mất ví để đuổi khéo ông cậu ruột của mình.

Từ những lập luận có căn cứ rõ ràng như trên chúng ta có thể nhận xét được phần nào về phong cách viết truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Công Hoan thông qua cách chọn đề tài: Ông cho rằng “Đọc một truyện hay, lần nào tôi cũng thấy một điểm chung mà tôi cho là căn bản, là nó dễ hiểu. Hiểu tác giả định nói cái gì và dễ hiểu vì nó thực”. Từ những vấn đề rõ ràng cụ thể, động cơ viết của ông rất rõ ràng vì vậy truyện ngắn của ông cũng có hệ thống tư tưởng chủ đề cụ thể, rõ ràng và gửi gắm những giá trị sâu xa.



2.2 Cốt truyện

Nguyễn Công Hoan xây dựng câu chuyện của mình trên những nghịch lí, những sự kiện, sự việc, hành động nhân vật đi ngược hẳn với cái bình thường. Trong truyện “Xuất giá tòng phu”, người chồng đánh đập người vợ xinh đẹp của mình không phải vì chị không giữ đạo làm vợ mà vì chị muốn giữ chữ trinh với chồng, không chịu đi làm “quà tết” cho ông chủ của chồng mình. Chồng dạy vợ đạo tòng phu nhưng thực chất là phản lại đạo tòng phu.

Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là một màn hài kịch, một tình huống trào phúng. “Tinh thần thể dục” hiện tượng bên ngoài là chăm lo sức khoẻ và sự giải trí cho nhân dân nhưng thực chất là đem lại tai hoạ cho dân, làm phiền hà, gây khó khăn làm cho ai ai cũng muốn tránh né. Hay trong “Kép Tư Bền” tình huống truyện ở đây chính là anh Tư Bền mặc dù đau đớn, lo buồn cho cha những vẫn phải pha trò, cười cợt với khán giả để rồi cha anh ra đi trong cô độc.

Ông thường đẩy mâu thuẫn trào phúng phát triển cao độ để rồi kết thúc truyện bất ngờ. “Phần kết trong truyện của tôi, - Nguyễn Công Hoan viết, - cũng như cái hom. Nó bất ngờ với độc giả hệt như miệng hom nhỏ mà kéo được con cá vào”. Đoạn kết trong truyện Nguyễn Công Hoan rất quan trọng. Chủ đề của truyện bao giờ tác giả cũng gửi vào câu kết.

“Câu kết truyện của tôi là một cái lờ. Nó thường làm cho độc giả đột ngột, cũng như đến chỗ hẹp, nước chảy mạnh, thì cá bất thình lình bị đẩy tuột vào hom”.

Như trong “Oẳn tà roằn”, tác giả để Nguyệt lúc đầu khăng khăng mình mang thai với Phong và tỏ ra rất chung tình “Tôi con nhà trâm anh, anh cũng con nhà thế phiệt, vì một lời giao ước nên tôi mới quá chiều anh. Tuy tôi chưa là vợ anh, nhưng cũng như là vợ, nên tôi dốc một lòng chung thuỷ, thì chữ trinh tôi giữ nguyên cho anh”. Bên cạnh đó, Nguyệt cũng đồng thời khẳng định với Bắc đó là con anh. Thế nhưng, cuối truyện kết thúc rất bất ngờ: “Té ra thằng bé con chàng mà nước da lại đen như cái cột nhà cháy! Vậy nó không phải là con rồng cháu tiên. Nó là giống “Oẳn tà roằn” không biết chống gậy”. Nhà văn không hề để lộ một dấu hiệu thông báo nào cho biết đứa bé không phải là con Phong mà để anh ta tin đến lúc nhìn toàn bộ hình hài của bé. Sức nặng của tác phẩm cũng như giá trị hiện thực của truyện là ở đây.

Cốt truyện đột ngột, bất ngờ, đầy kịch tính của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nhằm lật ngược một cảnh ngộ, một tình huống, vạch mặt trái một chân dung, phanh phui một mâu thuẫn nội tại. Chân lí được nhận ra thông qua một tiếng cười kinh ngạc. Trong truyện “Oẳn tà roằn” người ta đều đoán con của Nguyệt có thể là một đứa bé kháu khỉnh, đẹp đẽ. Nó là con của Phong hoặc của Bắc. Nhưng thật không ai ngờ nó lại là giống “oẳn tà rroằn” không biết chống gậy! Người ta kinh ngạc vì không ngờ giữa lí tưởng xã hội thẩm mĩ tiến bộ và đối tượng bị châm biếm lại có một khoảng cách xa đến như vậy. Độc giả bỗng nhiên khám phá ra được chân lí và điều đó gợi nên những rung động, khoái cảm về mặt thẩm mĩ.



2.3 Kết cấu

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có kết cấu chặt chẽ, được xây dựng dựa trên sự đối lập giữa các nhân vật và sự cố.

2.3.1 Đối lập giữa các nhân vật

Ở những truyện có chủ đề phê phán xã hội, thường có kết cấu đối lập giữa hạng nhà giàu quyền thế với hạng người nghèo khó lép vế (“Mất cái ví”, “Đồng hào có ma”…).

Trong truyện “Mất cái ví” rõ ràng là sự đối lập giữa ông bà Tham với người cậu nghèo khổ của mình, giữa người giàu có nhưng đểu cáng với người nghèo mà tự trọng.

Ở những truyện ngắn mang chủ để đạo đức luân lí, quan hệ luyến ái, hôn nhân gia đình, kết cấu thường dựa trên sự đối lập giữa người già và người trẻ, giữa nam và nữ (“Báo hiếu: Trả nghĩa cha”, “Báo hiếu: Trả nghĩa mẹ”…).

Trong truyện Báo hiếu: Trả nghĩa mẹ”, nhà văn đã xây dựng nên sự đối lập về hoàn cảnh, địa vị và tình cảm giữa người mẹ già, quê mùa, nghèo nàn và người con trai giàu có, lạnh lùng, tàn nhẫn. Chính cách đối xử của người con đối với mẹ là tiếng cười chua xót cho cái gọi là “trả hiếu” của con người luôn giương cao ngọn cờ hiếu thảo trước mọi người trong ngày giỗ cha.

2.3.2 Các cặp sự vật, sự việc, hiện tượng đối lập

Thứ nhất là sự đối lập giữa hiện tượng bên ngoài và bản chất bên trong: “Báo hiếu: Trả nghĩa cha”, “Báo hiếu: Trả nghĩa mẹ”, “Kép Tư Bền”…

Nguyễn Công Hoan không lên tiếng chỉ trích hay chê bai nhân vật mà dùng chính sự mâu thuẫn và đối lập trong suy nghĩ, lời nói và hành động để châm biếm.

Trong “Báo hiếu: Trả nghĩa cha”, “Báo hiếu: Trả nghĩa mẹ” nhân vật chứa đựng sự đối lập giữa hiện tượng và bản chất là những người con giàu sang những bất hiếu. Những người con giàu có, có địa vị trong xã hội không ngớt lên tiếng hô hào khẩu hiếu sống hiếu thảo với thiên hạ nhưng đằng sau những lời nói hoa mĩ đó lại là hành động xua đuổi hết sức tàn nhẫn, bất hiếu.

Hay trong “Kép Tư Bền”, anh Tư Bền trong lòng hết sức lo lắng, xót thương cho cha nhưng bề ngoài phải làm trò, cười cợt với khán giả.

Thứ hai là sự đối lập giữa nguyên nhân tầm thường và hậu quả nghiêm trọng. Trong “Thằng ăn cắp” chỉ vì ăn quỵt một bát bún riêu nhân lúc quá đói mà tên ăn cắp bị tất cả mọi người xung quanh suy diễn đủ tội ăn cắp như ăn cắp vàng, tiền và bị đánh đập tàn nhẫn không thể đứng dậy nỗi và cũng không thể thanh minh cho tội danh mà họ áp đặt lên mình.

Thứ ba là cặp đối lập giữa hy vọng và thất vọng: “Ngựa người, người ngựa”, “Ngậm cười”…

Trong “Ngựa người, người ngựa”, anh kéo xe gieo bao nhiêu hi vọng thì lại gặt lấy bấy nhiêu thất vọng. Để mong kiếm bữa gạo ăn tết nhưng cả mấy ngày xúi quẩy chẳng có người khách nào. Một hôm tưởng là có khách đi mà lại đi rất nhiều giờ, những tưởng có tiền để ăn bát phở tái, mua bánh ga tô cho con và đưa tiền cho vợ cho gia đình hạnh phúc thì lại là một người khách có số phận chẳng hơn gì anh khiến anh phải khổ vì cô ả. Đến tia hi vọng cuối cùng khi anh tin cô ả vào nhà săm kiếm được khách để trả tiền cho mình thì lại thất vọng não nề khi cô ta đã bỏ đi.

Thứ tư là cặp đối lập giữa phúc và họa: “Được chuyến khách”…

Được chuyến khách” lại vẽ lên một bức tranh sinh động về cuộc đời lam lũ và tư tưởng về cuộc sống của một anh kéo xe. Anh kéo xe khổ cực quá nên sinh ra ốm nhưng anh vẫn cho rằng như thế này đã là may mắn hơn bao anh em khác. Trong cơn ốm đau như vậy nhưng thấy sắp có phiên chợ to trên Bách thú, thầm nghĩ bờ Hồ sẽ đông khách lắm tất nhiên sẽ kiếm được kha khá nên anh quyết đi kéo xe. Thế nhưng chính cái vận may đó lại làm bệnh anh thêm nặng đến nỗi anh thổ huyết. Trong lúc hoang mang vì thấy máu, tiếng gọi xe của một cô gái tân thời lại làm anh lo nghĩ. Bởi lẽ, nếu kéo xe thì sức anh có chịu nổi chăng nhưng bỏ qua cơ hội này thì sợ rằng không có lần sau nên anh vẫn quyết định tranh lấy vị khách này. Phúc và họa đến với anh kéo xe chỉ trong chớp mắt, song xét đến cùng cái được gọi là phúc đó chỉ mang đến cho anh tai họa mà thôi khiến anh sớm ngã quỵ.

Thông qua việc tổ chức văn bản với những cặp đối lập, nhà văn đã thể hiện sâu sắc bức tranh hiện thực cuộc sống nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám trong sâu thẳm bản chất cội nguồn của nó. Nhờ thế mà giá trị phê phán xã hội càng sâu cay hơn.



2.4 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan hầu như đều có một ngoại hình xấu xí. Điều này trở thành thói quen, ý thức thẩm mỹ trong ông.
"Tôi vẽ người xấu nhạy hơn người tốt. Bởi vì tôi vốn bi quan nên nhìn mọi vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy phía xấu. Phía xấu dễ nhập tâm hơn phía tốt”.
+ Thông qua một số bức chân dung nhân vật người nghèo ta thấy Nguyễn Công Hoan miêu tả khắc hoạ những kẻ nghèo khổ khốn cùng ấy như đồ vật, vật hoá một cách tỉ mỉ từng chi tiết nhỏ cốt là để cho người đọc thấy được trạng thái thảm hại vốn có của nó.

+ Qua hình hài gớm ghiếc của những nhân vật, nhà văn đã vạch trần sự thối tha của một xã hội phi nhân tính. Những hình nhân đồ vật kia chỉ là nạn nhân của sự vô lương tâm, thói đạo đức giả. Hơn thế nữa đằng sau của sự miêu tả tỷ mỷ ấy người ta còn thấy cả một lòng căm thù, sự ghê tởm của một xã hội đầy rẫy sự tàn bạo, thối nát làm cho con người không còn là người nữa.Miêu tả tưởng chừng một cách khách quan đứng ngoài cuộc để nhìn vào với một thái độ khinh miệt thực ra là cả một tấm lòng nhân đạo, thiết tha, của Nguyễn Công Hoan.

- Không chỉ nhìn thấy những kẻ nghèo khổ xấu xí vì đói kém, vì sự bóc lột tàn tạ cả về thể xác lẫn tinh thần, Nguyễn Công Hoan còn nhìn thấy được sự xấu xí, kỳ dị, ở những hạng người giàu có mà bất nhân, đểu cáng. Ở đây ngoại hình và tính cách nhân vật thường thống nhất nhau. Nghĩa là đối với loại nhân vật này, xấu về ngoại hình tức là xấu về tính cách, bản chất.

- Tả người Nguyễn Công Hoan thường đặc biệt chú ý tới khuôn mặt mà theo Bônđơle “Bộ mặt xấu là bộ mặt thiếu sự hài hoà, bệnh hoạn, thiếu hưng phấn sáng sủa, thiếu sự phong phú nội tâm”.

Hãy xem nhà văn tả cái mặt của bà lớn:
“Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người làm bà lớn. Nên chăng mấy chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu, chỉ riêng bộ mặt cũng đã long trọng. Người ta tương chiếc bánh dầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự, và ngay đầu quả chuối, nằm dài hai múi cà chua”.
(Đàn bà là giống yếu).
- Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Công Hoan tả bọn quan lại, bọn tư sản, địa chủ, cường hào... đều nhất loạt to béo, béo đến chảy mỡ, đến phát phì ra như vậy. Đây là cách giải thích của Nguyễn Công Hoan về lý do béo của chúng:
“Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khoẻ mạnh, béo tốt. Thuyết ấy sai! Trăm lần sai! Nghìn lần sai! Vì tôi thấy sự thực ở đời này bao nhiêu những anh béo khoẻ đều là những anh thích ăn bẩn cả”
(Đồng hào có ma).
Ở tầng lớp quan lại, tư sản, địa chủ, cường hào mà Nguyễn Công Hoan gọi chung là bọn nhà giàu ấy không chỉ diễn trò “ăn bẩn” mà còn diễn trò “ăn cắp”, “ăn cướp”. Đó cũng là đề tài trở đi, trở lại trong những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Có lẽ xoay quanh những vụ trộm cắp, nhà văn dễ tìm ra những tình tiết ly kỳ và có dịp vạch trần bản chất đểu cáng, giả dối của chúng.

Song có cả những nhân vật vì nghèo khổ, gầy, đói quá do không có gì mà ăn nên cũng phải diễn trò ăn cắp, ăn xin.

Trong sự đối lập kẻ giàu, người nghèo ấy cùng diễn ra trò, dĩ nhiên nhà văn đứng về phía người nghèo, bênh vực họ.

Ví dụ: Ở những truyện ngắn: “Thằng ăn cướp”, “Bữa no... đòn”, “Thế cho nó chừa”...

- Khắc họa tính cách: Thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan bao gồm những hạng người quen thuộc với hai môi trường sống: Cửa quan ở các phủ huyện, thành thị. Có lẽ do ấn tượng tuổi thơ mà tạo nên thế giới nhân vật ở hai môi trường sống này. Vì vậy, với các nhân vật ông quan bà quan, hương lý, chức dịch chiếm tỷ lệ lớn trong các truyện ngắn của nhà văn. Với các nhân vật này, ông chỉ cần phác qua một vài nét là tính cách hiện lên sinh động. Nhân vật của ông, chủ yếu là nhân vật phản diện thường có những nét tính cách sau. Bọn đàn ông nhà giàu, quyền lực: tham, ác, đê tiện, đểu cáng, trắng trợn; bọn đàn bà: dâm đãng và xảo quyệt. Tất nhiên các nét tính cách trên tùy nhân vật mà đậm nhạt khác nhau. “Đồng hào có ma” nổi bật là tham lam, đê tiện; "Thịt người chết" nổi bật là bỉ ổi, độc ác; “Mất cái ví”, “Xuất giá tòng phu” nổi bật là đểu giả, đê tiện;… trình sáng tác tiểu thuyết trước cách mạng đến sau cách mạng của Nguyễn Công Hoan và dừng lại lâu hơn ở “Bước đường cùng”. Nguyễn Hoành Khung đã phát hiện phân tích và lý giải rất nhiều những vấn đề thuộc về nội dung cũng như nghệ thuật đầy sức thuyết phục. Đặc biệt ở phương diện nghệ thuật tác giả đã có những ý kiến sắc sảo chỉ ra những ưu nhược điểm về nhân vật “Bước đường cùng: “đã xây dựng thành công hai nhân vật chính Nghị Lại và Pha. Do cái nhìn xã hội tiến bộ gần với quan điểm giai cấp nhà văn đã thể hiện khá sâu sắc bản chất giai cấp bọn địa chủ và số phận người nông dân lao động”.


2.5 Giọng điệu, ngôn ngữ
2.5.1. Trong sáng, giản dị có tính chất bình dân.
Văn chương Nguyễn Công Hoan trong sáng phát huy khả năng diễn đạt của tiếng nói dân tộc
- Ngôn ngữ một bà nhà quê:
“Thưa thầy, từ đây lên huyện những chín cây-lô-mếch, sợ nhà đi nắng thì cảm, rồi phải lại thì oan gia…”
(Tinh thần thể dục).
Ngôn ngữ lính tráng:
“Nói nôm na, chú Ván-cách cũng muốn chim chị Tam đáo để. Có bận chú định ngồi trong mành mành, ví chị Tam một câu rõ hay. Giá chú biết làm thơ, làm văn thì hẳn đã nghĩ được một bài trường thiên rõ dài để tặng! Khốn nhưng chú chỉ quen thói bóp ngực lần lưng dân, cho nên chỉ học mốt chim gái của bạn đồng nghiệp, thẳng như nòng súng, là giữ nón, chắn đường, hoặc nắm cổ tay mà bắt nói một câu:
Van nhà, nhà buông em ra!
(Thật là phúc).
Ngôn ngữ chị vú, con sen:
“Lậy ông bà, chúng con có biết cái ví tiền của ông mặt ngang mũi dọc thế nào, thì chúng con cứ chết một đời cha ba đời con!”
(Mất cái ví).
Ngôn ngữ bà bán bún riêu:
“Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đây! Thôi đi! Dơ!...”
(Thằng ăn cắp).
Ngôn ngữ kẻ ăn mày:
“Giàu hai con mắt, đói hai bàn tay, con kêu van cửa ông cửa bà thí bỏ cho con bát cháo lưng hồ...”
(Cái vốn để sinh nhai).
2.5.2. Ngôn ngữ thân mật, suồng sã
Bakthin:
“Tất cả những gì nực cười đều gần gũi... Tiếng cười có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười lôi đối tượng vào khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, ở đó có thể suồng sã sờ mó từ khắp phía...”.
- Văn của Nguyễn Công Hoan không là thứ văn đạo mạo, mà là văn lột trần tất cả tôn ti trật tự xã hội, không chừa một ai. Trong Bữa no... đòn:
“Chẳng ai thương nó cả. Nó cũng là người. Duy chỉ khác mọi người là chẳng may nó bị tạo hóa ruồng bỏ, cho nên đói khát, phải ăn cắp giấm giúi để nuôi thân. Cái ấy cũng khác hẳn với người thường. Họ thừa, họ cứ đường hoàng ăn cắp”.
- Văn trần thuật của Nguyễn Công Hoan nhìn chung là những lời trò chuyện giữa tác giả, nhân vật và độc giả như những kẻ bằng vai phải lứa cùng đùa cợt bông phèng với nhau.
“Một loạt truyện ngắn của ông viết vừa rồi về quan trưởng tôi có đọc hết. Tôi nhận thấy có truyện ông đã bịa thêm nhiều...”
(Tôi tự tử).
“Vì mới chết lần này là lần đầu, nên anh Xích chưa có lịch duyệt về khoản ấy. Thực vậy, nếu chết ở tỉnh, thì ai láu nên chọn vào đêm thứ sáu. Như thế, vợ con có vừa vặn thì giờ để cáo phó lên báo. Và chủ nhật, cất đám, có đủ các cụ, các quan, các ông, các bà, thân bằng cố hãu đi đưa đông. Ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh những ngày chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mong chóng được. Nhưng khốn nỗi, xưa nay, không ai chết lần thứ hai để được bài học kinh nghiệm về cách chết. Vì vậy, vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch”
(Thịt người chết).
“Dạy học là một nghề khó nhọc. Dạy lớp Đồng ấu lại khó nhọc gấp mười. Trẻ con phần nhiều đãng trí, hay quên, có khi tay cầm quản bút, nhưng lại mách thầy là anh nào ăn cắp. Có khi lọ mực móc dây vào ngón tay, nhưng lúc hứng, cứ như thế, đưa cả lên đầu mà gãi! Lại có đứa thò lò mũi xanh. Có đứa mải chơi, đi “mô tô” ra quần lúc nào không biết. Quần áo thì bẩn thỉu, hôi thối, đất cát, mồ hôi bê bết nhễ nhại, cáu ghét tầng tầng. Trong lớp thì hơi người tanh nồng lên. Không trách người Tây gọi lớp ấy là Ăng-phăng-tanh cũng phải”
(Thầy cáu).
2.5.3 Ngôn ngữ giễu nhại
Có giọng giễu nhại. Bằng biện pháp giễu nhại, tác giả hạ bệ tất cả những gì gọi là nghiêm trang, nghiêm túc; biến chúng thành trò cười với hình thức mô phỏng (hí phỏng) một cách hài hước lời nói, giọng điệu của những nhân vật nào đấy, hoặc phong cách ngôn ngữ của một tầng lớp xã hội nào đấy. Tả cái áo rách của Thằng ăn cắp:
“Cái áo dài vải Tây nay chỉ còn giữ được màu nước dưa, thì ở lưng, vai, tay, ngực bướp ra, mà năm khuy thì về hưu trí. Mỗi chỗ rách là kỉ niệm một trận đòn mê tơi...”.
Tả con chó sủa:
“Tiên sinh xứ tự do ngôn luận oang oang... cứ diễn thuyết ràm rộ, hô hào dữ dội đến nỗi cả nhà mất ngủ”.
2.5.4. Chơi chữ
Chơi chữ trong cách đặt tên truyện.
Hai thằng khốn nạn: Một người khốn nạn về vật chất (nghèo khổ) và một người khốn nạn về tinh thần, về cách sống (nhà giàu).
Thế là mợ nó đi Tây: “đi Tây” vừa chỉ người Việt Nam sang du học bên Tây vừa chỉ sự ra đi hẳn, cắt đứt hẳn.
Xuất giá tòng phu:
Dùng ngôn ngữ đạo lý để chỉ chuyện vô đạo: Tòng phu không phải là thủy chung với chồng mà theo mệnh lệnh chồng đi ngủ với quan trên.

Chơi chữ trong văn trần thuật:
“Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy người ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khỏe mạnh béo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai, nghìn lần sai vì tôi thấy sự thực ở đời, bao nhiêu những anh béo khỏe, đều là những anh thích ăn bẩn cả...”
(Đồng hào có ma).
Miêu tả cách ghẹo gái có tính chất lính tráng của một viên cơ. Lão khám một mụ buôn thuốc phiện lậu, thấy có mấy đồng trinh:
“- À, con này gớm thật, mày vẫn còn trinh à?”.
2.6. Nghệ thuật trần thuật
2.6.1. Trần thuật theo ngôi kể

Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, ông sử dụng lối trần thuật theo ngôi kể thứ ba – người kể chuyện giấu mình nhưng điểm nhìn và lời kể theo giọng điệu của nhân vật. Trong mỗi truyện đều sử dụng ngôn ngữ giản dị, có tính chất bình dân và mang tính trào phúng lột cả được hoàn cản của nhân vật cũng như nết xấu của con người thay đổi về bản chất.

Với “Ngựa người, người ngựa” người kể chuyện toàn tri, biết hết hoàn cảnh của a phu xe, biết được suy nghĩ của anh về gia đình, về chuyện áo cơm, những trăn trở trong tối ba mươi tết: “Anh ấy chạy vội lại phía có người gọi”, “Anh xe mới nghĩ mười lăm phút nữa mình sẽ có sáu hào”.

Cách trao lời kể cho người dấu mặt có thể bộc lộ được suy nghĩ và những bình luận, đánh giá của cá nhân vào tác phẩm: “Phải đòn trận này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp hắn lắm! Ai thương? Ai bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp” (Thằng ăn cắp), sử dụng đại từ thay thế “Nó” cho thằng ăn cắp, những hành động rượt đuổi bắt nó như muốn nói lên cái xã hội đã làm con người cũng phải lọt vào “bước đường cùng” không lối thoát.

Trong “Răng con chó của nhà tư sản” tác giả cũng dùng lối kể chuyện giấu mặt toàn tri kể lại câu chuyện con chó nhà tư sản còn sướng hơn cả người ăn mày nữa, trong cảnh nghèo đói con người phải giành giật miếng ăn với cả súc vật mà không cần nghĩ đến thân phận nữa: “giá con chó biết tiếng người… khuất bóng ở cạnh tường”.

Nội dung được phản ánh trong tuyện ngắn của ông rất chân thực và lột tả được những cảnh đời bất hạnh, nghèo khổ phải làm thuê làm mướn suốt đợi, chỉ biết “Dạ” và làm theo (Thanh! Dạ!), qua đó tác giả bộc lộ được tình cảm và tấm lòng thương yêu đối với những kiếp người như vậy: “tội nghiệp con bé, khi nó về… vì vừa làm tròn một việc mà không phải mắng”.

Những dẫn chứng ấy cũng giúp chúng ta nhận ra được phần nào phong cách trao cách kể chuyện của Nguyễn Công Hoan nhằm thoát ra được tinh thần nhân đạo và thể hiện tình cảm đối với những con người nhỏ bé trong xã hội, không được coi trọng danh dự và chính cái hoàn cảnh phải mua vui cho thiên hạ mà không dám nghĩ đến việc riêng (Kép Tư Bền), điều kiện xã hội làm cho con người cũng thay đổi theo hướng tiêu cực và trở thành những phần tử xấu trong xã hội ấy.

Cũng có khi tác giả Nguyễn Công Hoan sử dụng lối kể chuyện ở ngôi thứ nhất trong “Thế là mợ nó đi tây” xưng “tôi” nhằm kể lại những câu chuyện diễn ra xung quanh mình một cách chân thật, độc giả khi tiếp xúc sẽ tường tận được những sự kiện của chính mình, biết được hoàn cảnh mình đang sống và những việc mình làm. Nhà văn xưng “tôi” hoặc cho “tôi” xuất hiện là để phá vỡ khoảng cách trần thuật giữa chủ thể trần thuật với các sự kiện được trần thuật. “Tôi” là nhân vật chính, tự kể lại chuyện mình, chiếm vị trí trung tâm, chính vì thế nó thể hiện rõ nhất tư tưởng chủ đề của truyện. Mọi biến cố xoay quanh “tôi”, từ thời hiện đại kể lại thời kì quá khứ (Ngày ấy). Vì kể lại chuyện đời mình, khoảng cách giữa hai thời hiện tại và quá khứ không quá xa nhau, do vậy, truyện kể vẫn đậm chất thời sự như: Tôi tự tử, Tôi chủ báo, Anh chủ báo, Chiến tranh, Thằng ăn cắp… Khi người kể chuyện là “tôi”, “tôi” kể việc “tôi” biết cho độc giả nghe. “Tôi” đối thoại, tranh luận với độc giả, “tôi” dẫn độc giả đi từ sự kiện này đến sự kiện khác theo ý “tôi” (Cái thú tổ tôm): “Vậy xin độc giả đoán nét mặt ông nghị Đào… nhà xơi nước hay không?”. Qua đó chúng ta nhận thấy được cách dùng ngôi kể của Nguyễn Công Hoan rất tinh tế và có những tác dụng tạo nên giá trị nội dung và nghệ thuật cho tác phẩm.

Điểm nhìn trần thuật

Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất phong phú trong điểm nhìn trần thuật, có điểm nhìn bên trong, bên ngoài và cả không gian lẫn thời gian đan xen trong hệ thống nhân vật và lớp ngôn ngữ bình dân ấy. Cách trao điểm nhìn đa dạng như thế sẽ tạo được hiệu ứng tốt trong cách nhìn nhận của độc giả, tạo cảm giác “trực tiếp”, “công khai”, người đọc bị lôi cuốn vào câu chuyện và cùng trải nghiệm với nhân vật như một tham thể đặc biệt trong thế giới nghệ thuật.

Truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, xuất hiện cái cười mới, cái cười cao hơn, sâu săc hơn cái cười thông thường. Tiếng cười của ông chĩa vào sự tha hóa trong xã hội, qua đó mà tầm phổ quát của nó là tố cáo trạng thái tha hóa của toàn xã hội. Khi tác giả nhảy vào làm trò, tức tác giả nhập vai nhân vật, từ bên trong. Lúc này điểm nhìn trần thuật là điểm nhìn từ nhân vật, từ bên trong. Kẻ cao đạo nói về lưu manh là giọng bề trên nói với kẻ dưới. Tất nhiên, lập một khoảng cách, kẻ khốn nạn nói về kẻ khốn nạn, khoảng cách sex bị phá vỡ. Vì đó là cái nhìn bên trong, cái nhìn tận gan ruột. Do đó nó rất thật.

Với điểm nhìn bên trong tác giả kết hợp với lối kể chuyện ở ngôi thứ ba giấu mặt nhưng di chuyển điểm nhìn vào chính nhân vật trong truyện. Những truyện ngắn của ông được nhìn xuyên qua cảm nhận của nhân vật: “rồi trong khi nhà nuôi kể lể, thì cậu lệ đánh vần để đọc lá thư”, “nó mừng quá lóp ngóp đứng dậy, vội vã theo vào trong buồng giấy” (Đồng hào có ma).

Nhiều chi tiết được nhìn nhận thông qua cách kể của tác giả nhưng với lời kể nhân vật: “Nó nhìn gánh bún riêu. Nó nhìn mẹt bánh đúc. Nó nhìn rổ khoai lang. Cơ chừng nó thèm. Nó thèm vì nó đói.” (Thằng ăn cắp), đó là những cách nghĩ của chính nhân vật trong truyện rất chân thực và có ý nghĩa. “con Thanh chờ, nó đập bàn chân nọ vào bàn chân kia cho đỡ sốt ruột” (Thanh! Dạ!). Cách tạo điểm nhìn bên trong người đọc có được cái nhìn xuyên thấu và sâu hơn trong cảm nhận và những suy nghĩ, trăn trở lo toan về cuộc sống của chính nhân vật đời thường. Truyện “Ngựa người, người ngựa” đã thành công trong việc ìn bộc lộ được những đau khổ đến tột cùng của chàng trai phu xe khi gặp phải gái ăn sương trong tình cảnh nghèo đói và phải lo cho gia đình.

Phối hợp với điểm nhìn bên trong là điểm nhìn bên ngoài trong mỗi truyện ngắn tạo nên góc nhìn đa chiều và nhìn được toàn cảnh cuộc sống trong mỗi truyện ngắn mà Nguyễn Công Hoan dày công sáng tạo. Có thể nói cách nhìn từ ngoài sôi vào những hành động, của chỉ thậm chí suy nghĩ của chính nhân vật độc giả đều có thể dễ dàng nhận thấy. Mỗi truyện là mỗi cảnh nhìn khác nhau làm nổi bật lên những sự kiện xoay quay đời sống nghèo túng và cơ cực của con người phận bé, tôi tớ, những người có hoàn cảnh cùng khổ. Trong “Ngựa người, người ngựa” mở đầu là cảnh anh phu xe lững thững dắt xe không có người ngồi từ bao giờ. Từ điểm nhìn này khung cảnh gợi mở cho chúng ta nhiều điều về con người trong truyện, có những nhận định riêng của chính tác giả về phận người: “Ấy thế!...sạch sành sanh cả”. Điểm nhìn bên ngoài được tác giả dụng ý sử dụng trong các truyện ngắn của ông, toàn cảnh cuộc rượt đuổi thằng ăn cắp được miêu tả rất kỹ, hay trong cảnh thằng ăn mày thèm miếng thức ăn của chó đến nhỏ nước giải ra thật tỉ mỉ. Thông qua những cách nhìn đó nhằm bộc lộ được tài quan sát của nhà văn cũng như tình cảm sâu sắc dành cho những thân phận nghèo nàn.

Những truyện ngắn Nguyễn Công Hoan miêu tả những sự việc diễn ra đời thường nên điểm nhìn không gian xoay quanh một vùng quê, hay khu phố, cảnh chợ búa, trong nhà, ở bệnh viện. Thời gian trong truyện cũng được miêu tả rất chi tiết, Tối ba mươi tết trong “Ngựa người, người ngựa”, khoảng thời gian rời quê hương sang tây học trong “Thế là mợ nó đi tây”, “Anh ở Sài Gòn ra hát… đã ba năm nay” trong “Kép Tư Bền”. “Hơn mười năm nay… cũng đã dai sức” (Được chuyến khách)…

Tóm lại, những thủ pháp nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được ông sử dụng rất thành công,đạt tới kỹ thuật cao trong sự miêu tả hiện thực đương thời. Những truyện khôi hài, trào phúng hay những truyện chủ yếu miêu tả những cảnh trụy lạc, những sự thối nát, lố bịch trong xã hội cũ…tất cả đều trở nên những giá trị tinh thần đại diện cho một thời, thể hiện chủ nhân đạo sâu sắc.



2.7 Thủ pháp nghệ thuật
2.7.1. Thủ pháp trào phúng

Thủ pháp nghệ thuật được coi là những phương tiện cơ bản để nhà văn gom góp kết hợp trong tác phẩm của mình. Nguyễn Công Hoan cũng vậy, thủ pháp nghệ thuật mà ông sử dụng ở đây chính là thủ pháp “trào phúng”.

Có thể nói, sự nhạy bén đặc biệt trước những mâu thuẩn trào phúng trong đời sống là đặc điểm quan trọng nhất trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan vì Ông rất có năng khiếu phát hiện ra những tình huống gây cười, mâu thuẩn hài hước trong các sự vật, hiện tượng xung quanh. Ông luôn nhìn xã hội đương thời dưới lăng kính trào phúng.

Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là một cảnh tượng, một tình huống mâu thuẫn đầy tính chất hài hước trong cái “tấn trò đời”. Để làm nổi bật mâu thuẫn trào phúng của sự vật, hiện tượng, nhà văn thường dùng biện pháp phóng đại. Phóng đại được xem như là một đặc điểm không thể thiếu của sự hư cấu nghệ thuật trong văn trào phúng. Đó là sự thể hiện “một thái độ nào đo châm biếm hoặc hoài nghi những cái được thừa nhận, có khuynh hướng lật mặt trái, hơi xuyên tạc đi một ít, chỉ ra cái không hợp lý trong cái bình thường”. Nó làm cho mâu thuẩn càng nổi bật và chất muối trào phúng càng đậm đà. Ví dụ trào phúng trong Kép Tư Bền, Ngựa người, người ngựa, Thật là phúc, Cụ chánh bá mất giày….

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan tuy trào phúng song vẫn thuộc loại “tả thực”, vẫn yêu cầu tác phẩm có diện mạo giống như bản thân đời sống, với “sự chính xác của các chi tiết”, do đó không cho phép sự phóng đại kiểu biếm họa quá đáng khiến cho sự vật bị méo mó, quái dị, không thật.

2.7.2. Thủ pháp đánh lạc hướng người đọc

Để làm nổi bật mâu thuẩn trào phúng, nhà văn còn chú ý tạo nên sự so sánh đối lập, sư lặp lại _ một cảnh tượng, một tình huống, một lời nói. Tác giả dùng thủ thuật đánh lạc hướng người đọc bằng những ngôn ngữ, chi tiết lập lờ, đánh bẩy, khiến người đọc phán đoán lầm. Đặc biệt nhà văn dựng nên một nhân vật “tôi” thạt thà, ngơ ngác, hiểu lầm để đánh lạc hướng người đọc.

- Giả định, suy đoán nhằm đánh lạc hướng. “Cái ví ấy của ai”: Các ông bà quý phái đang khiêu vũ, bỗng một ông mất ví. Ai cũng ngờ bọn đầy tớ. Hóa ra, chính họ ăn cắp của nhau.

- Xây dựng nhân vật “ngớ ngẩn” để đánh lừa. “Nỗi lòng ai tỏ”: Bà mẹ nhân vật “ngớ ngẩn” trước nỗi buồn của con gái yêu. Những phán đoán của bà về lý do gây ra nỗi buồn cho...

...


CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN NGUYỄN CÔNG HOAN.
Bằng những cơ sở về lý luận thực tiễn, soi chiếu vào những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan chúng ta nhận thấy rằng phong cách của nhà văn được thể hiện rất đậm nét.

Nó không chỉ là cách nói, cách nghĩ và cách viết của nhà văn mà đó còn là vô thức được hình thành do yếu tố xã hội ảnh hưởng chi phối. Phong cách đó ứng với hoàn cảnh sống của nhà văn hiện tại_sống giữa những xô bồ, đen tối bản thân của mỗi người “nhạy cảm” ắc hẳn sẽ cảm thấy mình cần làm gì đó để góp tiếng nói tố cáo xã hội.

Chính những cảm xúc thực tế đó mà văn chương của Nguyễn Công Hoan rất thực. Mọi thứ dường như đã cũ nhưng khi được ông viết ra nó lại trở thành một vấn đề mới mẻ và vô cùng đặc sắc.

Với hệ đề tài gần gũi, quen thuộc về con người, cuộc sống, mâu thuẩn giai cấp, giàu nghèo,… Nguyễn Công Hoan ngoài việc tạo cho mình một phong cách riêng ông còn đưa người đọc tới gần hơn với chân thật hơn của cuộc sống đương thời.

Với cốt truyện và kết cấu lạ, độc đáo thể hiện phong cách rất riêng của môt cây bút hiện thực, Nguyễn Công Hoan dường như đã gây ấn tượng tạo khiêu khích tích cực từ phía người tiếp nhận. Đây cũng chính là một giá trị căn bản mà truyện ngắn của ông mang lại. Nó gây sự tò mò ngay từ đầu và hấp dẫn đến khi kết thúc câu chuyện, càng tò mò, càng hứng thú và khi kết thúc câu chuyện người đọc vẫn cảm thấy có gì đó đau xót, trách móc và đột ngột bởi cái bất công tủi nhục của đa số nhân vật chính diện xuất hiện trong tác phẩm.

Với giọng điệu ngôn ngữ tự nhiên, suồng sả. Phần nào nói lên phong cách tự nhiên khi viết truyện của tác giả, mọi thứ diễn ra trong câu chuyện dường như quá thân quen đối với Nguyễn Công Hoan nên tác giả mới tự nhiên như vậy. Giá trị cho điểm phong cách này được hiện ra ở chổ đó chính là một sự kết nối tiểu biểu giữa nhà văn – tác phẩm – bạn đọc.

Nghệ thuật trần thuật đặc sắc là cách mà Nguyễn Công Hoan gửi gắm thông qua tác phẩm, tạo ra những nhận định sâu sắc về cuộc đời và con người. Không quá triết lí sâu xa, tác phẩm của ông được kể với nhịp kể rất đều và tự nhiên, từ những xuất phát điểm khác nhau trong điểm nhìn trần thuật tác giả đã chuyển tới người đọc những câu chuyện đầy đau khổ và bất công của người nghèo, của những tầng lớp thấp của xã hội mà ông đang sống.

Điều đáng nói ở đây chính là qua những nét nghệ thuật đặc sắc đó Nguyễn Công Hoan hiện lên là một cấy bút truyện ngắn hiện thực trào phúng. Không cay cú như những phóng sự của Vũ Trọng Phụng, cũng khác hẳn với những gì Nam Cao đã viết. Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thực sự để lại nhưng ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.

Những phong cách nghệ thuật đó được gửi gắm qua từng tác phẩm khác nhau, tạo tiền đề và sức sống mãnh liệt đối với những tác phẩm truyện ngắn của ông. Để cho những tác phẩm đó tồn tại cho đến tận bây giờ và cả sau này nữa.



C. PHẦN KẾT LUẬN
Nguyễn Công Hoan, nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam. Ông đã được nhiều thành công trong cuộc đời văn nghiệp của mình, trong đó có thể loại truyện ngắn.

Trải qua sự sàng lọc của thời gian và lòng người, Nguyễn Công Hoan đã tạo nên một thế đứng vững vàng trong văn mạch dân tộc nhờ phong cách truyện ngắn cũng như phong cách viết văn độc đáo của mình.

Ngay từ buổi đầu cầm bút, Nguyễn Công Hoan đã tự vạch cho mình một con đường đi, một con đường không phải ngay từ đầu đã rõ nét và cả về sau này không phải là không có những lúc chệch choạc, nhưng căn bản là một con đường tích cực tiến bộ nhất so với tình hình văn học công khai nước ta thời ấy - trước khi Đảng ta phát biểu và đấu tranh cho một đường lối văn nghệ chính xác, phù hợp với yêu cầu phát triển của bản thân văn nghệ.

Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan sinh động, hấp dẫn. Ông là người biết tổ chức cấu trúc chặt chẽ và thay đổi cấu trúc hình thức rất linh hoạt. Nếu như truyện ngắn của Thạch Lam tác động chủ yếu vào tình cảm và cảm giác người đọc, truyện của Nam Cao đi sâu vào tâm lí bên trong của nhân vật, thì truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan nhằm nâng cao năng lực nhận thức và khám phá các hiện tượng phức tạp của xã hội.

Nguyễn Công Hoan đã để lại cho chúng ta một khối lượng truyện ngắn phong phú với một nghệ thuật viết khác điêu luyện. Dư luận đều thống nhất đánh giá cao công lao của ông trong việc xây dựng một nền truyện ngắn Việt Nam hiện đại. “Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan cũng có thể nói là một “bách khoa toàn thư” về xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nguyễn Công Hoan là bậc thầy về truyện ngắn trào phúng trong nền văn xuôi hiện đại, nhưng ông còn là một nhà văn giàu tình cảm, viết những truyện xúc động người đọc một cách sâu sắc”.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Văn hoc Việt Nam 1900 – 1945, Phan Cự Đệ chủ biên, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam,…
  2. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan tác phẩm và dư luận, Tuấn Thành – Anh Vũ (tuyển chọn), NXB văn học, 2002.
  3. Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc, Vũ Thanh Việt tuyển chọn và biên soạn, NXB văn hóa thông tin Hà Nôi, 2000.
  4. Tài liệu mạng: www.vanchuong.com