2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
4. Mời đọc tại ISSUU
5. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
Diễn đọc: 1. Cô Vân | 2. Hải Yến | 3. Chiến Hữu | 4. Minh Nguyệt | 5. Bích Thuận | 6-33. Chiến Hữu (chương 1-28) | 34. Thu Yên
5 Kênh 9 Video
2. Kênh Cô Vân
3. Chiến Hữu Audio
Cái thủ lợn
Diễn đọc: Chiến Hữu
Ký Liễu chồng những bát không lên đĩa hết đồ ăn cho gọn mâm, rồi giơ tay đỡ lấy chậu nước. Anh người nhà vừa bưng mâm khỏi phản, Liễu cầm chiếc quạt, phảy chiếu cho cơm và xương rơi xuống đất, rồi ông đặt thau vào giữa, vén tay áo lên mời:
- Nào rước các cụ.
Tức thì năm khách ăn, cùng một lượt, chấm đầu ngón tay cái và tay trỏ vào nước đựng trong chậu thau đồng bé bản nông như chiếc đĩa tây, để cọ vào nhau và quệt lên hai mép nhờn bóng.
Họ rửa xong, người rút vuông vải mầu nước dưa giắt ở thắt lưng, người kéo thứ khăn dự khuyết là vạt áo để chùi mồm. Người không có gì lau, thì dùng luật khoa học, bắt tạo hóa phải hầu. Nghĩa là sức nóng của trời dần dần hút hết nước đi. Công việc ấy làm cũng chóng.
Rồi đồ tráng miệng được dọn ra. Ngoài xôi chè, bánh sôi sê, mảnh cộng, quanh thành mâm, ở năm chỗ lại có cả năm cái hến đựng một thứ nước quánh đen đen. Ấy là thuốc phiện. Theo lệ làng Từ Lâm bữa cỗ nhà sang trọng, nếu không có "thử khoản" dọn kèm với đổ nước, thì người ta kêu được là không lịch sự. Khách ăn, ai là dân làng bẹp thì mang về dùng, ai không nghiện hoặc vì tình thân, chủ nhân đã nhấm nháy làm hiệu mời ở lại, thì bán rẻ cho người nào có tiền trả ngay để thêm vào góp tổ tôm.
Suốt từ sáng đến giờ, cũng như cả ngày hôm qua, ánh nắng chói lọi như ném lửa xuống đất. Chẳng có tí mây mỏng để cản sức nóng. Chẳng có tí gió thoảng để thay đổi không khí. Sân gạch bỏng như nung, hắt hơi oi bức vào trong nhà có ba mặt tường chắn như cái hầm. Người ta rã tay ra vì quạt.
Ấy thế mà đã ba hôm nay, hết bọn này đến bọn khác, khách khứa kéo nhau đến đây ăn cỗ đông rầm rập. Bữa nào cũng mười lăm mâm đầy ăm áp những thịt trắng nhóng nhánh, rồi từng ấy mâm lại sạch như chùi. Rượu thi nhau cạn veo từng vò, nhuộm cho khách những bộ mặt đỏt bầm như quả bồ quân, hoặc xám xịt như gà cắt tiết.
Bữa này là bữa cuối cùng, nên các cụ được thư thả, không phải vội vàng đứng dậy để nhường chỗ cho bọn khác mới đến.
Thủ quỹ Quang, vừa say lại vừa no phưỡn bụng, chống hai tay lại đằng sau, thở phì một hơi nồng, rồi nói tiếp câu chuyện còn bỏ dở:
- Không hiểu rồi ra ông Tây ông ấy làm thế nào, chứ cứ thế này mãi thì tôi đoán thuốc ty còn mỗi ngày một cao. Rồi ra anh em mình mất cả thứ đi mây về gió.
Cụ xã Mạn, vẻ mặt rất bằng lòng, ngồi phản bên kia, nghểnh cổ lên đáp sang:
- Nhưng có thì ông Tiếu lo nhất, chứ anh em mình không bẹp tai, ta cứ bình chân như vại.
Tiếng cười vui vẻ nổi lên ở đó đây. Tiếu dúng đầu tăm đương xỉa vào chén nước, gẩy tạch tạch để rửa, đáp:
- Tha hồ nói, tôi chả động lòng. Rồi nhà các cụ có chén, mời chúng tôi đến, dễ từ được món thuốc phiện đấy phỏng!
Đoạn ông nháy mắt và mọi người cười rầm.
Lý Trung, ngồi bên cửa buồng, vén chiếc cầu đối làm màn, ghé miệng vào trong, nói to:
- Kìa, thưa cụ, các ông ấy đang nhắc gì cụ đấy ạ.
Có tiếng bà đáp ra:
- Vâng, để tôi sai nó đi mượn bàn đèn.
Tiếng cười lại rầm rộ nổi lên như muốn làm vỡ đổ nhà.
Trung vuốt hai chòm râu nhọn hoắt, vênh váo nói:
- Đây, không có tôi, có đời nào anh em ta được phiện ở đây.
Sính, một ông già cỏm rỏm, ghé mồm vào góc tường vừa ọe khan, vừa giục:
- Có lập tĩnh mau không chứ đằng này say lắm rồi.
Trung lại nói to, cố ý để pha trò và cầu lợi:
- Thưa cụ, có nghe thấy gì nữa không à?
Người ta lại cười nôn, và vì cười ông già Sính, lần này không thể giữ vững được những thứ chứa ở trong dạ dày nữa. Ông nôn ra được và muốn tỏ mình rất có ý, ông tuôn cả những thứ bát nháo ấy xuống gầm, chỗ góc tường. Con chó mực từ nãy thất nghiệp, tưởng được món bở, ngoe nguẩy đuôi, chạy vội đến nơi. Nhưng vì không kham được của quý nồng hơi men ấy, nó ngửi đi ngửi lại đống bã cơm, rồi thất vọng lại lừ lừ ra nằm ghếch mõm lên chân ở chỗ cũ.
Trung thấy trong nhà không có tiếng đáp câu của mình, muốn khỏi bẽ, ông trừng mắt nhìn ông già, cự:
- Thế kia thì ông xấu chơi lắm!
Sính mệt lử, không nói gì, lấy tay áo lau mồm, rồi xin hớp nước súc miệng.
Nhưng phó hội Bút can ngay:
- Thôi, ông Lý, đừng làm thế, mất cả vui.
Từ lúc bắt đầu bữa cỗ đến giờ, tiếng cười không mấy lúc ngớt. Như vậy đố ai dám bảo không phải nhà không có việc mừng. Nhưng sự thực xa thế quá.
Vì nhà chật, ít chỗ ngồi, nên ở hai gian bên, kê mỗi gian hai phản liền nhau, và giáp mái tranh ngoài sân, có dựng một cái rạp che lợp cót, để thêm chỗ ăn và rộng chỗ tế.
Gian giữa, trên bàn thờ che màn mỏng, lúc thường vẫn lấp lánh hai ngọn đèn vặn nhỏ. Hương vòng đưa lên một sợi khói xanh, dưới thẳng, trên rung tỏa ra rồi tan đi. Trên ỷ sơn son, bày tấm truyển thần một người đàn ông râu tóc bạc phơ, ngồi ghế bành, cạnh bàn, đặt chiếc đồng hồ trẩm cầm và chai rượu bia chưa mở nút.
Trước bàn thờ sơ sài ấy, và sau hương án, kê sát bực cửa, có đỉnh đồng, độc bình, giá gương và hai cây nến gỗ, thì là một chỗ rộng. Chỗ ấy, chiếc quan tài mộc, phất giấy hồng điều, nằm trên hai tấm mễ thấp.
Vậy đó là nhà có đám ma.
Chứ sao?
Ông tú Lịch làng Từ Lâm tạ Thế từ sáng mồng tám. Bởi ông là nhà khoa mục, nên dù nghèo, bà Tú phải cố lo việc ma chay ông cho trọng thể. Chẳng ngại tốn, bà tậu bò, mua lợn, để làm cỗ mời hàng huyện, mời hàng tổng, mời làng, mời xóm, mời giáp, mời văn thân, mời quan viên, mời họ hàng, mời học trò và mời bạn bè thân thích. Có người rất sung sướng được đi ăn đến bốn lượt.
Sáng mai mới đưa ông Tú ra đồng. Vì vậy, bữa cỗ này, bà Tú mời riêng những người thân. Cho nên người ta nhận thấy đại khái lý Trung, phó hội Bút, thủ quỹ Quang, là người làm việc làng, xã Mạn, đám Hỷ là người trong họ; thư ký Liễu, khóa Tích là học trò; quản xã Tú là hàng xóm, năng sang giúp việc. Và ông già Sính, người vẫn khen thơ ông Tú là vô địch trong buổi nho tàn.
Từ năm làng Từ Lâm cải lương đến nay, chức chánh hương hội làng vẫn nhường ông Tú, là tiên chỉ. Ngoài ông ra, không ai làm được. Chức quý giá và công việc nặng nề này, trừ tay khoa mục danh vọng, thì khi có việc, đố ai bao nổi con em. Dân Từ Lâm tuy hiền lành, nhưng lý sự đáo để.
Lúc bấy giờ bóng râm đã ra đến tường hoa. Ánh nắng dần dịu. Hơi men ủ trong dạ dày cần bốc ra cho người ta bớt lảo đảo. Cho nên, trong khi hai chiếc bàn đèn đã bầy ở hai gian nhà, mọi người tươi tỉnh, bắt đầu chuyện như khướu.
Xã Mạn chép miệng, nói to, cốt cho cả trong buồng cũng nghe rõ:
- Ông Tú nhà tôi -vì ông xã là trưởng họ- mất đi, chúng tôi thiệt đơn thiệt kép. Tôi nghĩ mà thương mà nhớ ông ấy quá.
Phó hội Bút cũng làm ra vẻ buồn rầu:
- Còn cụ thì quan trên còn trọng dụng làng này, cụ mất đi, không biết làng này còn nát đến đâu.
Nói đoạn, ông cho là câu xói móc thâm trầm, nhìn Liễu là bạn thân. Ông thư ký mỉm cười, liếc lý Trung để tỏ ý khiêu khích. Ông này hiểu ý, cau mặt đáp:
- Chà, giời sinh voi sinh cỏ, đời cua cua máy, đời cáy cáy đào. Cụ Tú mất đi, kể làng ta thua thiệt thật, nhưng chả có người này đã có người khác, chứ làng người ta thì làm sao.
Mạn hơi cáu, trừng mắt toan bẻ, song, Tiếu nói một câu cốt pha trò để xí xóa chuyện xích mích:
- Thật đấy, ông lý có công rất to, là cổ động được bàn đèn. Thế nào tôi cũng bầu ông là tiên chỉ thay cụ Tú. Để sau này ông có chết, ông dặn bà ấy cho tôi hút nhiều.
Hai tiếng tiên chỉ đến vừa đúng lúc. Từ nãy người ta muốn nói tới, nhưng chưa ai khơi ra. Bởi vậy, không ai nghĩ đến tính cách khôi hài của câu nói nữa.
Vốn trong làng, đã dăm năm nay, có hai phe kình địch nhau. Phe lý trưởng, tức là Trung và phe chánh hội, tức là ông tú Lịch, mà bây giờ ký Liễu làm đại biểu.
Liễu ghét cay ghét đắng Trung, nhất là từ hôm thầy học tạ thế. Bởi vì ngày nào cũng vậy, rất nhiều người nói đến tai Liễu là Trung khoe chắc mẩm phen này được ăn tiên chỉ thay ông Tú, lấy lẽ bây giờ chức lý trưởng nhất làng.
Cho nên, bắt ngay lấy câu của Tiếu, Trung đắc chí, cười hà hà, nói bằng giọng trêu ghẹo:
- Được rồi, ông cứ bầu tôi, rồi tha hồ ông hút.
Liễu bĩu môi, quay mặt đi. Sính nhân muốn lấy lòng Trung để ông này quên chuyện bắt bẻ mình nôn ban nãy, bèn tiếp:
- Tôi cũng bầu cho ông Lý. Làng ta tiếng vậy còn ai tranh được nổi ông.
Mạn và Bút nhìn Liễu. Hỷ cau mặt:
- Ông Tú tôi mới nằm xuống, chúng ta chưa nên nói chuyện ấy vội, có phải không, ông ký?
Nhưng Liễu không đáp. Mặt tím bầm, ông cúi gầm xuống.
Bút đáp để bênh bạn:
- Phải, tôi tưởng giá ông Ký phen này ra chánh hội, thì ông được ăn cả tiên chỉ nữa, bởi vì ông có chân nhị trường.
Liễu ngẩng mặt, cười chua chát. Ai cũng đoán ông sẽ nói một câu châm biếm hết sức cay độc. Thì quả nhiên:
- Thưa các cụ, làng ta đương có một vị hoa mục hay chữ làm tiên chỉ. Nay vị khoa mục tạ thế, thì làng nên chọn người xứng đáng, chứ tôi dốt nát, ra để nghe chửi à?
Trung như bị mũi tên độc bắn trúng tim, ông bỏ dọc tẩu, ngồi nhỏm dậy, vùng vằng nói:
- Tôi thách ai tranh tiên chỉ nổi với tôi phen này đấy.
Liễu tái mét mặt, run bắn lên. Thốt nhiên, ông ra cạnh phản khỏa hai chân xuống đất tìm giầy, rồi chạy đến gian giữa. Mọi người kinh ngạc, nhìn theo. Liễu đứng trước quan tài ông Tú, nhăn nhó, bưng miệng, gò lưng lắc đầu và rặn những tiếng khóc rung cả hai vai:
- Ô hô! Ô hô! Ô hô! Thầy sống khôn chết thiêng, thầy phù hộ cho làng ta. Thầy biết đâu giờ có những hạng văn dốt vũ dát nó định kế chân thầy, thầy ơi!
Dứt lời, Liệu lấy cổ tay áo quẹt đôi mắt để tỏ rằng nếu mắt không có nước là vì ông đã chùi khô. Ông xuýt xoa, cung kính, chắp hai tay, lạy trước quan tài hai lạy.
Hai mặt ấy mấy năm nay vẫn kình địch nhau.
Cái cớ kình địch, theo lời Trịnh Văn Liễu, thư ký ban hương hội làng Từ Lâm, là thuộc về lịch sử. Bởi vì Nguyễn Bá Trung họ Nguyễn, mà ông họ Trịnh Liễu vẫn nhận mình là con cháu nhà chúa. Bị loạn lạc, ông cha ông mới đến làng Từ Lâm. Cho nên ông nhất định nhận họ Nguyễn là thù.
Liễu là tay giàu có trong làng. Ông vẫn tự hào rằng chúa Trịnh Kiểm là bậc công thần nước Việt Nam, đã phò Lê, diệt Mạc, nên con cháu đời đời được hưởng phúc trời, không ai đến nỗi nghèo ngặt khổ sở. Ông kể ra những ông quan to, những nhà giàu lớn có họ Trịnh ở khắp nước Nam, và nói vanh vách chi này là trưởng, chi là thứ.
Thôi, sự khoe khoang về giòng giống ấy có ích gì cho độc giả. Ta hãy mặc Liễu với tổ tiên họ hàng ông ở đó. Ta chỉ nên biết về Liễu mà thôi. Liễu có chân nhị trường. Cái đó độc giả đã nghe Bút nói và chắc còn nhớ. Liễu chỉ được thi có hai khoa. Khoa thứ nhất, nói rằng để đi cho biết cửa trường, thì ông vào được kỳ đệ nhị. Khoa thứ hai chẳng may ông bay ngay vào kỳ đệ nhất. Ông bảo vì bị sốt rét. Nhưng cái đó không quan hệ cho danh giá ông. Người ta vẫn gọi ông là nhì, nhì Liễu. Rồi nhà nước bỏ chữ nho. Ông bất mãn. Ông phàn nàn mãi rằng mộ cụ thân sinh đắc địa thì còn thi cử mộ cụ thân sinh đắc địa thì còn thi cử, ông tuy chẳng đỗ cử nhân cũng được cái tú tài như thầy. Thế là không được làm học trò, ông xoay ra làm thầy vậy, thầy thuốc và thầy đồ, để mặc ruộng nương cho vợ cấy hái.
Song, ba mươi mẫu của ông mới là kế sinh nhai chính. Có nó, ông mới chỗm chệ làm thầy được. Thật vậy, ông làm thuốc có ai dám đón đâu, mà gõ đầu mươi đứa trẻ trong làng, ông đủ ăn sao được. Ông ở trong khu vực ruộng bốn sào, gồm ba nếp nhà gạch, một thửa vườn trồng cau và cam. Ông thường ngồi nhà giữa, trước có sân lát gạch bát to. Một phần tư sân là giàn, cạnh mỗi cột bày một chậu cây kê trên trồng gạch. Người ta thấy những cây lan lá biếc, cây quế hoa thắm, và cây trà càng mập mạp. Giữa giàn hoa là cái bể con, đầy nước, nổi lên như một hòn non bộ, bày đủ các điển tích, nào ngư tiều canh độc, nào Tô Vũ mục dương, nào Tô Đông Pha du Xích Bích. Trong làn nước xanh, lơ lửng dăm con cá vàng, đuôi xòe, uốn mình mềm mại.
Năm nay, Liễu ngót bốn mươi, da trắng trẻo và nhẵn thín. Quả ông là con nhà nho, trông thật phong nhã. Ông làm thư ký vì thầy học ép mãi. Thỉnh thoảng, ông cũng nhận cành cau, bao chè, thôi thì cũng như người ta trả công cho ông. Ông là tay giúp việc rất đắc lực của ông Tú. Ông Tú làm chánh hội, vì túng, thỉnh thoảng phải xơi bẩn nên cần phải có Liễu. Bởi vì, nếu có gì lôi thôi đến tai quan, chính Liễu lên tận huyện nói hộ. Vì quan nào thấy Liễu giàu có, mà chẳng để cho đi lại ra vào.
Song cũng bởi làm việc làng, nên Liễu mới thấy lắm cái bực mình và vì bênh thầy, nên sự kình với Trung càng ngày càng rõ rệt.
Trung giàu hơn Liễu. Về tiền bạc, ông nhất làng Từ Lâm. Ông năm nay ngót năm mươi. Ông để tóc dài, nhưng cạo ở giữa đỉnh đầu, nên có cái búi tóc to vừa bằng ngón tay cái. Mặt ông bì bì lắm thịt, nên thoạt trông người ta khó lòng bảo được là thông minh. Đôi mắt ông không mấy khi trông thẳng ra ánh sáng. Lúc nào cũng che bằng cặp kính đen. Vì nếu sáng quá, ông trông không rõ. Nó thuộc về thứ mắt bẩy lẻ. Ông có bộ ria rất xứng với môi về bề dày. Bộ ria ấy đen, rậm, cứng, cong và nhọn, như hệt hai dấu ngã chầu nhau.
Thuở bé ông có đi học mà cũng học ông tú Lịch. Nhưng cắp sách được có ba tháng tròn, thì ông trốn, trốn biệt cho đến tận lần này ông mới trở lại nhà thầy học. Đến khi ra làm lý trưởng, ông mới hối hận, và cuống cuồng học viết có mỗi một chữ ký và bảo con dạy cho chữ cái quốc ngữ. Khi sát hạch trên tỉnh, may cụ Thương tá lại ngơ đi cho, chỉ khuyên ông nên thuộc mặt chữ hơn và tập thêm đánh vần nữa. Song từ đó, ông bận quá, chưa có lúc nào sờ đến quyển sách, mà xét ra cũng không cần. Bằng lý trưởng ông đã lĩnh về rồi, học làm gì cho thêm nhọc xác. Công việc về chữ nghĩa, ông đã có nho bên huyện làm hộ. Vậy mà chả vấp váp tí nào. Việc làng, ông cứ hứa bừa. Cốt tốt với quan là ông chẳng cần ai. Mấy lần bị dân kiện, song, ông thu xếp chỗ quan nha là xong ngay. Cho nên làm việc làng, ông chỉ bới móc. Mà ông bới móc thực tài. Bất cứ việc gì, từ vợ chồng người ta đánh nhau trong nhà cho đến ai văng tục, văng rác mà ông nghe tiếng, ông đều ăn uống được cả. Ông bảo trong thời kỳ làm việ,c ông phải làm tiền cho ba việc: Một là thu lại cái vốn đã bỏ ra và tiền thù phụng quan, hai là kiếm chút phẩm hàm và ăn khao, ba là kéo lại một tí lãi.
Ở trong nhà, ông thường ngồi buồng khách, tức là cái trái hướng tây nam. Trước kia, phía ấy là tường. Nhưng từ ngày làm lý trưởng, ông phá ra làm cửa, và xây bực lên xuống. Trong buồng, ông kê tủ chè, sập, bàn, (cái này để hứng bụi hơn là để viết) và vài chiếc ghế đẩu đặt sát tường. Trên tường, phía cao nhất, ông treo ảnh vua. Sau bàn giấy có tranh hồ Hoàn Kiếm vẽ sơn, mua của hàng bán rong, và hai bên, hai cái tay thước mộc.
Ông đã quá niên hạn để từ dịch, nhưng còn làm nữa để mong có chút phẩm hàm. Vả lại làm việc mà quan nể, dân kiềng, ông vẫn tự hào rằng từ xưa đến nay làng Từ Lâm mới có mỗi mình ông. Cho nên tội gì bỗng dưng nhường quyền hành cho người khác.
Làng Từ Lâm là một làng có độ năm trăm đinh, chỉ sống về cày cấy. Hồi chữ nho còn thịnh, dăm ba mươi năm lại có người tên chiếm bảng vàng. Cho nên dân rất trọng vọng. Bởi thế ông tú Lịch phải ra chánh hội từ ngày làng bắt đầu cải lương. Hiện nay nho học chỉ còn có mỗi mình ông thư ký có chân nhị trường.
Dân Từ Lâm ít đi ra ngoài. Người ta đổ vì hướng đình nên làng không có đất xuất ngoại. Ngày xưa một vài người thử đi buôn bán ở phố huyện, nhưng người thì chết, người thì lụn bại. Các cụ nói rằng đình làng xưa kia quay ra mặt sông, nhưng một ông phù thủy Tầu sai quân môi khênh có một đêm, xoay trái hẳn lại. Bởi vì, nếu cứ để nguyên đình hướng trước, thì sau cũng có người sang làm vua bên Tầu.
Dân không được học Pháp-Việt, vì không có trường, có lẽ họ thấy sự học không cần lắm. Phải, ruộng tốt, mưa hòa gió thuận, làng xóm được bình yên có do dân biết chữ đâu. Bởi thế làng Từ Lâm là cái đảo nổi trên biển ruộng hoa lý, thì dân cũng như sống trong một thế giới riêng, không quan tâm gì đến việc xẩy ra hàng ngày của các làng bên cạnh, làng ở xa đường cái chánh xứ độ ba cây số, có lối nhỏ đi vào ruộng vừa hai bánh xe tay. Nhưng xe tay không thể vào đến tận làng, vì quãng ấy, nhiều chỗ sụt hẳn bằng mặt bờ ruộng. Hễ mùa mưa đến thì đỉa ở bên đường nọ có thể sang tán chuyện với bạn ở bên đường kia. Gián hoặc cũng có chỗ cao ráo phẳng phiu, nhưng lại hay bị người tát nước xẻ ra và cứ để mặc kệ như thế.
Đường trong làng thì quanh co và hẹp, gồ lên thụt xuống như mặt sóng, đó là vết trâu đi. Cành cây hai bên mọc chìa cả ra giữa, ít lúc đường được khô hẳn. Nhất là những nơi người ta buộc trâu, thì muỗi bay tung hoành, và cả một khu đất nhuộm màu đen, xông lên một hơi nồng nặc.
Dân Từ Lâm ăn nước ở ao chùa. Vì vậy răng họ không phải nhuộm công phu, tự nó cũng đã như cải mả. Đứa trẻ nào cũng giống đứa trẻ nào ở chỗ da đen, mắt toét, bụng ỏng và đít vòn. Người lớn cũng giống nhau ở đôi con mắt, người thì có con ngươi trắng bệch, người thì động ra gió là phải rụi lông mi, người thì mắt thâm quầng, lúc nào cũng có rỉ. Hình thức đã giống nhau thì tinh thần cũng tương tự. Bởi thế phần đông họ có sự hiểu biết kém sự hiểu biết của ông lý làng họ. Mà sự hiểu biết của ông này lại chưa to bằng cái búi tóc của ông ta.
Quanh năm, người ta chỉ nghĩ ăn, ăn của nhà, ăn của làng. Bởi thế, tục hương ẩm rất nặng. Có đám xá thì đứa bé lên tám cũng mượn khăn áo ra lễ đình để ngồi xếp hàng bằng tròn ở hành lang, nhai trầu bỏm bẻm, chờ đủ bốn người một cỗ để uống rượu. Chúng cũng nốc khỏe ngang với người lớn và không nói với nhau câu nào, cắm cổ ăn mau để được nhiều. Ăn xong chúng đem gói phần về chia cho cả nhà. Chúng chỉ có một điều ước muốn là mau cho chóng lớn để được ngồi hẳn trên đình, cỗ sang hơn, lại có người hầu hạ.
Bởi thế, quan nào về trọng nhậm huyện ấy cũng khen dân làng Từ Lâm thuần và khuyên làng khác nên theo, theo gương tốt của làng ấy.
Sáng hôm sau, mặt trời đỏ như miếng sắt nung, lại tung ra những tia lửa chói lọi. Đám ma ông Tú cử hành ngay từ sáu giờ để tránh nắng.
Bọn con cháu người khuất, vì phải phục dịch vần vật mấy hôm đằng đẵng, hoặc làm cỗ, hoặc làm lễ hay tiếp khách, nên đều mệt nhoài. Họ theo sau cữu một cách uể oải. Chỉ bọn đàn bà là phải cố khóc lóc to tiếng cho làng nước khỏi bàn tán. Người đi đưa ông Tú cũng khá đông, ai nấy nóng bức khó chịu. Họ theo sau đám ma, nhưng nghĩ rất ít đến người chết. Nhân dịp gặp họ, họ nói đủ các thứ chuyện về chính trị, xã hội, kinh tế và văn chương. Và tất cả giá trị độ xu rưỡi.
Được một lát các diễn giả quai hẳn về một vấn đề.
Tư Bỉnh hỏi thầm phó hội Bút:
- Thế nào, chiều hôm qua ông cũng ở trong cụ Tú đấy chứ? Tôi nghe nói ông ký Liễu vờ vật mình vật mẩy khóc kháy ông lý Trung thế nào kia mà?
Bút nhổ cốt chầu, gật đầu:
- Ông ta khóc thật chứ, chứ bỗng không ai khóc được.
Sính cãi:
- Thế lại không là khóc kháy khóc sỏ. Các ông phải biết, cụ Tú mất đi, ông ký Liễu như người mất đầu. Còn cụ, ông ta còn kiếm ăn được, chứ từ nay ai che chở cho ông ta.
Tiếu vốn công bằng nói:
- Cụ bảo thế không đúng... Ông ký Liễu có phải như người khác ra làm việc làng để kiếm ăn đâu. Làng này trừ ông lý ra, còn ai giàu được bằng ông Liễu. Chính cụ Tú thường vẫn hay vay mượn bà ký. Tôi cho là ông ta sợ ông lý lên ăn tiên chỉ thì không xứng đáng, nên mới thốt ra tiếng khóc ấy.
Thủ Quang lắc đầu:
- Không đúng. Đã làm việc làng, ai không ăn uống chẳng nhiều thì ít. Có phải vì túng mới ăn đâu. Ăn cho khỏi mang tiếng là ngù ngờ, ăn để được lòng người cộng sự.
Cả Thiêm lắc đầu, trỏ tay về mé Liễu:
- Tôi thì tôi không tin như thế. Các ông xem ở vùng này, cụ Tú có đến mấy trăm học trò, mà hôm nay chỉ duy có ông Liễu là khăn trắng, áo trắng, thì đủ hiểu ông ta đối với cụ thân mật nhường nào. Cho nên thấy chức tiên chỉ quyết về tay ông lý, ông ta thương nhớ cụ Tú, nghĩa là thương làng có một ông tiên chỉ dốt nát.
Ba Xích đáp:
- Phải, ông nói chí phải. Tôi cũng không bằng lòng cho ông lý ăn tiên chỉ. Tiên chỉ phải là bậc có danh vọng, nếu không có bậc danh vọng, thà làng không có tiên chỉ còn hơn.
- Và cái thủ lợn làng biếu, quý giá lắm chứ! Ông có thể bỏ tiền ra mua mười cái cho cả nhà ông ăn một lúc, mặc ông; nhưng nếu ông không có danh vọng, thì không khi nào ông được chức tiên chỉ để hòng lấy thủ lợn biếu của làng.
Bút gật đầu cho là có lý:
- Mấy lại như thế nhục làng lắm. Ông thử nghĩ mà xem, mọi năm vào đám, còn ông Tú thì làng còn trông thấy ông tiên chỉ đội mũ, mặc áo cân đai bối tử đường bệ biết bao nhiêu. Nay nếu làng có một ông tiên chỉ to lớn cục súc, đứng mệnh bái thì trông nó gớm lắm.
- Ấy thế mà tên lại đứng đầu văn tế, phỏng còn giời đất nào!
Xích biểu đồng tình:
- Khoa mục làng ta đến cụ Tú là hết, mà học mới chẳng có ai, thì tôi tưởng chức tiên chỉ làng, nên lấy xuống đến chân nhất nhị trường mới phải.
Bút sung sướng cười ha hả, vỗ vai Xích, khen:
Tri kỷ lắm. Ông nói chí phải. Ông ký Liễu tiên chỉ mới xứng đáng.
Thủ Quang cau mặt cãi:
- Không được, các ông thiên lắm, hãy hỏi một người làm lý trưởng, một người làm thư ký, ai hơn ai?
Thiêm hùng hồ hỏi lại:
- Nhưng có một người có chân nhị trường, một người chưa thuộc quốc ngữ, còn chữ ta đặc cán táu thì ai hơn ai?
- Bút chêm vào:
- Dễ ông thủ quỹ không nghĩ đến rằng người thư ký ấy chẳng có thể ra làm chánh hội hẳn. Chánh hội kém gì lý trưởng.
Sính vuốt râu bạc, tức:
- Chánh hội gì hạng nhãi ranh ấy.
Xích trừng mắt:
- Ông nói thế cũng thiên.
Bỗng tiếng trống cái đổ hồi, làm tắt câu chuyện đương nồng nàn. Mọi người nhìn ra, phu đòn đã đang hạ từ từ cữu xuống mặt ruộng, để bắt tay vào khiêng quan tài chuyển vào huyệt.
Tiếng kèn rền rĩ, đưa theo gió một giọng não nùng. Con cháu và họ hàng người khuất cảm động nỗi sắp vĩnh quyết, đều gào khóc, hoặc sụt sịt lau đôi mắt đỏ hoe. Ông già Sính như còn hậm hực câu nói của Xích, nên yên một lát, bỗng lại nói:
- Tôi không thiên, tôi chỉ theo lý.
Thế là câu chuyện lại được nói tiếp. Chẳng ai để ý đến hạ huyệt. Bút đáp:
- Hãy hỏi, nếu lần này ông Liễu làm được chánh hội, thì ai đáng ăn tiên chỉ hơn.
- Nhưng ông Trung làm lý trưởng đã lâu năm.
Cụ Bính giảng:
- Cụ phải biết, chức chánh hội to lắm. Có làng, ông tổng đốc về hưu trí còn ra làm chánh hội, quan phụ mẫu sợ xanh mắt.
Bút tiếp:
- Chứ ông tổng đốc hưu trí quyết không đời nào lại làm lý trưởng.
Xích cười nhạo:
- Để chịu cái vạ đầu chầy đít thớt.
Tiếng khóc ran dậy lên ở góc cánh đồng. Người ta thấy Liễu đứng dạng hai chân bên thành huyệt, rồi cúi xuống, đặt chiếc địa bàn vào giữa quan tài. Một lát, mai đất thứ nhất bắt đầu ném xuống.
Mặt trời đã cao. Ánh nắng làm đẫm các lưng áo. Không có một tí gió, dù ở giữa cánh đồng thông thoáng.
Thấy Liễu đã xong việc ở mộ, Bút vẫy lại, rồi nói với Bính:
- Đấy, ông nhìn, trông dáng đi bệ vệ có kém gì khoa mục.
- Mấy vị tiên chỉ dòng dõi anh hàng bánh đúc thì làng ai nghe. Đằng này ít ra cũng là con ông Khóa.
Quang bênh Trung
- Con nhà bán bánh đúc, nhưng cũng làm lý trưởng, giàu ba bốn mươi mẫu ruộng.
- Ông Liễu kém quái gì. Bây giờ ông ta còn làm thư ký, thì chức tiên chỉ chỉ còn có người bảo vào tay người nọ, người kia, chứ đến ngày ông ấy ra làm chánh hội, thì chẳng phải bàn tán nữa.
Sính hất hàm:
- Ai bầu cho ông ấy làm chánh hội mới được chứ?
Ba bốn người nhâu nhâu:
- Tôi bầu, tôi bầu.
Xã Túy từ nãy chỉ đứng nghe, bấy giờ mới bĩu môi:
- Các ông bầu, ông Liễu đã chắc chưa? Các ông tưởng cứ có tiền thì có phiếu hẳn. Có tiền lạy người ta, chắc người ta bầu cho à.
- Đấy, rồi các ông xem.
- Ông Liễu có làm chánh hội cũng không ăn nổi tiên chỉ làng này. Là tôi phá. Không có, thì lên đến quan, chứ chúng tôi không chịu.
- Các ông lên quan, dễ đằng này lép.
Cuộc cãi vã bắt đầu kịch liệt, thì bỗng hồi kèn rên rỉ nổi lên, linh xa đã đặt lên vai người khênh.
Lý Trung về từ bao giờ. Ký Liễu cũng vừa vái trước mộ xong, ông giương ô, đứng ở gò cao, trông cho đám rước được nghiêm chỉnh. Người đưa đám, mỗi người về một đường.
Thằng Mới quăng mõ và dùi xuống giường, lẩm bẩm một mình:
- Mẹ kiếp, nay họp, mai họp, chỉ khổ ông về hầu hạ.
Nói đoạn, nó ra vườn hái nắm lá chè tươi cho vào ấm, đổ nước, rồi đặt lên bếp, dóm lửa.
Vợ nó đã mang chổi ra đình quét sàn, song sợ việc làm không chu đáo, nên nó giao cho thằng cu lớn coi bếp, vác đôi chiếu, cái đèn và cái điếu đi.
Một lát, gian đình bên phải đã thành một chỗ sạch sẽ tinh tươm. Thằng Mới vào gần hậu cung, mở hòm nhỏ, lấy bốn chiếc chén trắng và cái đĩa tây cáu vàng, nó lau tất cả bằng vạt áo nó, nó bày cạnh đèn điếu ở giữa chiếu.
Trung lững thững bước lên thềm đá, dõng dạc hỏi to:
- Có đứa nào đấy không, mày ơi?
Cả hai vợ chồng thằng Mới cùng đồng thanh thưa:
- Dạ.
Ông Lý mắng:
- Mày để sân đình bẩn lắm.
- Bẩm, con vừa đi giao mõ về.
Trung cau mặt:
- Động nói là cãi! Thế đã có ai đến chưa?
- Bẩm chưa ạ.
- Gớm, khệnh khạng quá. Giá có ẹc một con lợn thì đuổi chả hết người!
Ông toan nói nốt bằng câu tệ hại hơn, nhưng thấy Bút sắp đến nơi, nên ông phải im. Trung nhoẻn miệng cười:
- Đấy, ông xem, bao giờ cũng chỉ có ông đến trước tiên, còn các ông ấy đố có đến đúng giờ bao giờ. Thế nào, ông ký Liễu có ra không?
Bút chẳng giấu mình về phe Liễu, gật đầu đáp:
- Việc này quan trọng, sao ông ta chẳng ra.
Muốn mua chuộc Bút, Trung chán nản nói:
- Tôi thì tôi thiết gì những cái này. Đấy, có ông biết đấy, ra làm việc làng nào, chứ làng này, chỉ tổ nghe chửi. Mà thực ra, chúng mình có sơ múi gì. Làm việc mửa mật, mỗi lần có giấy quan đòi, thì biện thêm tiền nhà đi. Thỉnh thoảng có chỗ họ cho bao chè, cành cau, hỏi thấm vào đâu với cái tết mình phải mang lên huyện. Bởi vì chúng mình không ác tâm được.
Vào địa vị người khác mà làm lý trưởng ngần ấy năm, dễ hòa vốn rồi.
Bút không muốn công kích, gật đầu:
- Phải.
Nhưng Trung cho là Bút biểu đồng tình, thì ngạc nhiên, nên sung sướng tiếp:
- Thế mà các ông ấy lại ép tôi ra tiên chỉ. Tôi cũng cố từ chối thôi. Một làng không thể không có người đứng đầu, nhưng, giá có ai có thế lực thay cụ Tú thì tốt quá.
Thấy Trung có ý vơ vào, Bút mỉa:
- Ông nghĩ chí phải, hơi đâu cứ đeo thêm vạ vào mình mãi. Mà giá ông có thông chữ nho, chữ quốc ngữ, mới xứng đáng.
Trung bị một quả trùy nhẹ, yên lặng không nói nữa. Hai người vào tới chiếu, mời nhau ngồi. Thằng Mới rót nước xong, Bút bàn:
- Hay ta bảo khán thủ đi mời các ông ấy, chứ đợi đến bao giờ.
Không thể đổ tức giận về câu nói của Bút ban nãy vào đầu ai cho bõ hờn, Trung đáp:
- Gớm làm như tiên sư người ta không bằng, việc là việc công cả, chứ việc riêng đếch gì ai mà phải mời năm lần bảy lượt.
Nói đoạn, ông đặt thuốc vào điếu và châm đóm kéo một hơi dài. Ông uống hớp nước nóng rồi vờ say để được ngồi yên. Ông đã hiểu ý Bút rồi.
Nhưng bỗng Bút nói:
- Kể ra thì bây giờ, ông nhất làng này đấy nhỉ.
Trên mặt Trung nở ra một nụ cười, và ông tươi tỉnh đáp:
- Không dám.
Rồi thấy có cơ hội để dò ý bên địch, ông tiếp:
- Nhưng giá bây giờ ông ký Liễu ra làm chánh hội, thì quyết tôi nhường tiên chỉ cho ông ấy ngay.
- Ông nghĩ chí phải, vì ông ấy có chân nhị trường.
Bị một trùy nữa, Trung lại căm. Nhưng muốn bất chấp cả cái dốt nát của mình, ông đáp cho bõ tức:
- Nghĩa là tôi nhường vì tôi không muốn làm, chứ một người chánh hội mới ra, giá trị sao bằng người lý trưởng đã quá niên hạn.
Bút cười:
- Nói thế, chứ ông ký Liễu không ra chánh hội đâu mà.
Trung như lượm được một tin mừng, hỏi dồn:
- Thật à? Sao bảo ông ấy ra?
Bút lắc đầu:
- Không.
Trung muốn dò Bút:
- Hay là ông ra vậy. Phi ông hay ông Liễu, còn ai xứng đáng hơn.
Được phỉnh Bút sung sướng, bèn thật thà đáp:
- Đành vậy, nhưng tôi làm gì có tiền.
Thấy không cần biết hơn nữa, Trung nói:
- Ồ, ta chuyện mãi, quên ngay đi mất. Mới! Gọi Khán thủ mày, bảo tuần đi mời từng ông một nhé, còn mày phải ở luôn đây hầu vặt.
Thẳng Mới đi, Trung hớn hở, đứng ra bao lớn hứng gió. Một lát ông nói:
- À ông phó hội ạ, cái bọn thợ sơn làm đồ thờ nhà tôi khéo lắm. Tôi muốn bàn với các ông, nhân tiện mặc cả sơn cửa võng đình, kẻo để mộc thế này, khó coi lắm.
Bút gật:
- Ông nói phải lắm, nhưng có sơn thì sang tháng hãy hay, chứ vài hôm nữa, đám xá đến nơi, sơn sao cho kịp.
Có tiếng xôn xao ở góc đình. Trung nhìn thấy Quang, Tiếu, Túy, Hách, những người về phe mình, thì sung sướng. Hình như ông không cô độc nữa.
- Gớm, mau lên các bố, có phiện đây.
Bốn tiếng cười nổi lên để đáp lại sự thông thảo của Trung.
Tiếu nhoẻn môi thâm sì, đùa:
- Thế thì ai xứng đáng ăn tiên chỉ hơn ông.
Trung vội vàng nháy mắt, liếc vào chỗ Bút, ra hiệu cho các bạn. Quang kiễng chân, ngó vào trong:
- Có cóc khô bàn đèn đâu, ông Tiếu được cái mừng hụt!
Các huynh thứ trong làng lục tục ra dần, tất cả đến mười lăm vị. Song chưa ai bắt đầu bàn việc, vì còn đợi một người quan trọng. Người ấy tức là ký Liễu. Trung đi ngang dọc, rồi gọi:
- Mới! Mày mời ông thư ký một tin nữa đi, nói rằng các cụ đã đông đủ cả. Ông ấy bận gì cũng bỏ đấy ra cho xong nhé.
Thằng Mới vừa bước xuống khỏi bậc đá, thì Liễu tất tả đến. Ông nghển cổ qua hàng lan can, rồi nói vào:
- Chào các cụ, xin lỗi các cụ nhé, con mẹ khán Tếch cứ cài nhài xin giấy khai sinh cho con nó mãi. Không biết ông ký Dưỡng trước kia làm ăn ra sao, mà sổ sách biên lung tung, khó tra quá.
Mọi người xen nhau, ngồi yên lặng thành vòng tròn trên hai chiếc chiếu. Ai cũng muốn nói ngay đến việc, nhưng không ai chịu khơi mào. Bởi vậy họ uống nước, hút thuốc và rung đùi.
Một lát, Liễu tuy biết tỏng việc bầu tiên chỉ, nhưng vờ ngạc nhiên hỏi:
- Thế nào, các ông bàn việc gì thế, xong rồi à?
Trung đằng hắng, hơi run run:
- Kìa cụ nhất Tời, xin cụ nói đi.
Thấy Trung gạt trách nhiệm cho mình, ông già ngồi quay phắt vào phía trong đáp:
- Thôi, ông nói đi, tuổi với tác thì làm đếch gì.
- Ồ, kính lão đắc thọ, cụ nói làng nể, chứ tôi nói thì ai nghe.
- Ông là ông lý thay quan làm việc làng, thì ông nói đi.
Phó Lan pha trò:
- Hay là tôi nói.
Rồi ông cười một mình bằng hai hàm răng nhuôm nhuôm.
Không thấy người cười theo, Lan chữa thẹn:
- Đùa đấy chứ, cụ Tời nó đi thì phải hơn.
Tời quay lại nhìn khắp mọi người, rồi cau có:
- Ừ thì nói!
Cụ thong thả, đặt thuốc vào điếu và châm đóm. Muốn chừng Trung nóng ruột, bèn đưa cái xe và rót sẵn chén nước.
Hút xong, Tời nghiêm trang vuốt chòm râu bạc, gõ xe vào bát điếu và lên giọng. Mọi người im phăng phắc.
- Nghĩa là tôi chỉ quen nói cộc lốc. Các ông biết đấy, cụ Tú mất đi, ta nên bầu một ngôi tiên chỉ cho khỏi sái làng.
Mọi người nhìn cả về Trung. Ông này luống cuống một cách sung sướng, Tời tiếp:
- Vậy ta nên chọn người.
Quang đỡ lời:
- Phải, kẻo nay mai đám xá đến nơi, phải có người đứng mệnh bái chứ.
Tời tiếp:
- Mấy lại làng không thể không có tiên chỉ. Vậy ý các cụ thế nào, xin cho biết.
Trung đằng hắng:
- Trình các cụ, cụ Nhất nói chí phải. Vậy xin làng chọn lấy một người, trước nữa thay mặt dân tế thần nay mai, sau nữa, có việc gì thì...
Không biết nói tiếng gì cho phải, ông ừ ừ rồi chịu cho câu văn què.
Tời nhìn Trung bẽn lẽn, nhoẻn miệng cười, thật thà giục:
- Thì nhận đi cho xong! Nghĩa là thế. Vờ vịt bàn lắm rồi sau cũng lại đến thế.
Trung cười hể hả. Nhưng Bút chặn họng:
- Tôi xin thay lời ông lý để nhắc lại ý ông vừa nói chuyện với tôi ban nãy. Ông lý tôi vì việc quan đã nhiều, nên không muốn nhận chức tiên chỉ.
Ai nấy ngớ ra, Trung cau mặt cãi:
- Thì ông để mặc tôi nói, ai mượn ông?
Bút cười đắc thắng:
- Tôi thấy ông không nói, sợ ông lại bị ép nài, nên phải giúp ông. Ông chả vừa bảo tôi ban nãy thế là gì?
Trung đập ống thuốc xuống chiếu:
- Ban nãy là ban nãy, bây giờ là bây giờ, chứ lộn ẩu thế nào được.
Bút cáu:
- Đấy thì ông nói đi. Tôi không bầu cho ông là một.
Trung hăng tiết:
- Tôi không cần ông. Ông không bầu đã có khối người.
- À, ra ông khinh làng thực.
Mặt đỏ gay, Trung đứng phắt dậy. Quang nắm áo co lại:
- Thôi, ông phó hội ông ấy say ấy mà.
Bút trừng mắt:
- Tôi không say, ông cứ chửi bố đứa nào bảo tôi say?
Trung trỏ vào mặt Bút:
- A, anh phó hội, ở giữa đình, anh dám ăn nói thế à?
Bút nắm sẵn cái bát điếu hất hàm hỏi:
- Anh gọi ai là anh?
- Tao bảo mày đấy.
Hai người xông vào nhau. Nhưng cuộc loạn đả không thành, vì người ta vội vã giữ dịt lấy cả đôi bên, và cố khuyên giải bằng những câu pha trò nhạt hoét.
Liễu lúc bấy giờ mới lên giọng:
- Thôi, tôi xin nói một điều này, có phải thì các cụ nghe, không phải thì các cụ bỏ đi. Làng ta cải lương đã lâu. Làm việc dân đã có ban hương hội, giao thiệp với quan trên đã có chức lý trưởng. Vậy tội tình gì có thêm ông tiên chỉ nữa làm gì?
Tuý, Sính nhâu nhâu cãi:
- Không nghe được, không có tiên chỉ thì sái làng đi.
Liễu vẫn ôn tồn:
- Xin các ông cho tôi nói nốt. Vả thời buổi văn minh, ta nên để sự nghĩ ngợi việc bầu tiên chỉ để nghĩ ngợi sự làm ích cho làng chả hơn ư. Ấy là vừa mới chớm việc bầu tiên chỉ, đã có chuyện lôi thôi, nữa là khi có tiên chỉ rồi.
Trung vẫn còn giận lắm, chêm vào:
Ông ký nói có lẽ phải, mà cũng có lẽ không phải. Xưa nay phép vua thua lệ làng. Từ ngày có làng Từ Lâm đến giờ, chưa bao giờ không có tiên chỉ. Nay ông dám đổi cả lệ làng đi hay sao. Ông là ông gì mà hách thế.
Liễu tái mặt:
- Không phải thế, ông lý ạ. Làng Từ Lâm là một làng văn vật, đã là làng văn vật, phải có ông tiên chỉ khoa mục hay ít ra cũng là bậc văn nhân, biết chữ. Nay làng hết khoa mục, không lẽ bất cứ ai cũng bầu làm tiên chỉ, để hàng huyện cười cho thối óc à!
Quang tranh lời để cãi:
- Này ông ký, ông tiên chỉ là nhất làng, nếu làng còn khoa mục thì nhường cho khoa mục là phải. Nhưng nay không còn khoa mục thì ai nhất làng người ấy ăn tiên chỉ.
Hỷ lè nhè:
- Nhất làng ở cái tư cách, ở cái con dòng cháu giống, chứ không nhất làng ở cái chức vị mà thằng khốn kiếp nào có tiền cũng có thể mua được.
Thấy câu châm chọc thâm độc quá, Tiếu vốn công bằng, song cũng tức, bèn đứng dậy:
- Thôi, tôi nhất định bầu cho ông lý.
Phe lý trường hưởng ứng:
- Phải, ta cứ lập biên bản, rồi đệ trình quan. Mặc kệ.
Mạn hạch:
- Mặc kệ là thế nào?
Bút nói to để át mọi người:
Ông ký Liễu có thể ra làm chánh hội phen này, mà đối với chức lý trưởng, thì chánh hội to hơn nhiều, thế thì ông Liễu mới đáng ăn tiên chỉ. Lắm làng lý trưởng chỉ làm đầy tớ cho chánh hội.
Trung lại toan xông vào. Nhưng Mạn đã giữ gì cả hai tay. Túy nói:
- Tôi nói câu này, như đi guốc và óc ông ký Liễu. Sở dĩ ông ký phá việc bầu tiên chỉ hôm nay, là vì ông không muốn để ông lý được. Ông lý rất xứng đáng. Kể ra ông Liễu ra chánh hội, thì ông ấy cũng có lý được ăn tiên chỉ, nhưng ông ấy sợ trượt tránh hội, thì thà không được ăn ông ấy đạp đổ trước.
Thấy câu nói đúng tâm lý, ông Liễu yên lặng một lát, mới bẽn lẽn đáp:
- Ông nói không phải, từ nãy ông có nghe thấy tôi có một nhời nào lôi thôi không? Tôi chỉ bảo làng ta cải lương, và thời buổi văn minh thì bỏ cái tiên chỉ đi là chính đáng.
Rồi đứng dậy ông hỏi:
- Ông nào đồng ý với tôi, xin đứng dậy về cả. Mặc ai bầu ai làm tiên chỉ, ta không biết.
Hỷ ghé tai Liễu, lo lắng hỏi:
- Thế ngộ người ta cứ bầu thì sao?
- Bầu sao được, đã có quan xử chứ. Mà bận sau, có mõ rao họp bầu tiên chỉ, ta không ra đình nữa.
Rồi ông nói to:
- Nào, ai theo tôi thì đi về.
Dứt lời tiếng guốc lê lộp cộp trên sàn gỗ, bảy người kéo nhau xuống sân, mặc cho bọn lý trưởng nhìn theo căm hờn.
Trước đình, lưng chừng cây đa, phấp phới lá cờ đại từ ngoài đường cái chánh sứ nhìn vào, người ta cũng biết làng Từ Lâm sắp có đám.
Quả vậy, mấy hôm nay, chỗ nào cũng tấp nập. Từ miếu về đình, đường đi mới rẫy cỏ đất san phẳng phiu. Lá cây mọc hai bên bờ rào chìa ra đường phải phát cụt, cho lối đi thêm rộng rãi. Quanh sân đình, dưới gốc bàng, mới dựng lên vài quán nước chè tươi. Nó là bốn cái gậy, chôn chặt xuống đất, đỡ tấm mái liếp đặt chênh chếch. Bác phó cạo đã tìm cái đanh đóng lần trước ở thân cây đa, để treo gương. Vài hôm nữa, bác làm ngay ở đấy, vừa được đắt hàng, vừa được xem rước, xem tế, vừa được mách nước cờ. Trên cái bàn sơn xanh, cao đến ngực, đằng trước, bày ghế dài gỗ tạp, có úp nhiều cốc, rượu bia, nước chanh đứng thành hàng, cạnh tủ kính con, trong sắp thuốc lá giấy xanh, giấy tím và bánh khách vàng.
Cờ cắm ở sân đình lúc nào cũng hớn hở. Buổi chiều ăn cơm xong, trẻ con rủ nhau ra nô đùa, làm huyên náo. Người lớn cũng vậy, họ cởi trần, phe phẩy chiếc quạt nan, ngồi chéo khoeo ở bụng đá hai bên giải vũ, để chuyện trò về đám xá.
Hình như cả làng sắm sửa chờ ngày vui, được ăn cỗ.
Mồng tám là ngày mở hội.
Ngay từ sớm, những hồi trống cái đã đi đôi với tiếng bi li ở trước cửa miếu. Một cuộc rước linh đình đang sửa soạn. Hàng chục lá cờ dựng ngả vào các thân cây. Chiếc kiệu bát cống lở sơn, đặt chính giữa cửa, ngang bậc thềm lên xuống.
Ánh nắng đã gay gắt. Tiếng trống càng làm thêm nóng ruột. Gốc nhãn, dưới bóng lá dày, phường trống con thỉnh thoảng tập lại cho đều. Trong miếu, những áo thụng lam bạc màu đi lại tấp nập.
- Vào trình cụ lý xin rước ngài về dinh, kẻo trưa rồi.
Ấy là lời Khán thủ. Hôm nay trông bác lạ hẳn đi. Bác đội khăn lượt, mặc áo the, thắt lưng đỏ ra ngoài, và đi guốc. Trung ra hiên, đưa đôi mắt trịnh trọng nhìn ra xa để ngóng đợi, rồi đáp:
- Chốc nữa, chưa đến giờ.
Giờ đây không phải giờ của đồng hồ. Nó có ý nghĩa khác.
Muốn hiểu nghĩa ấy ta hãy ngắm qua ông một chút.
Trước hết ta phải khen cái cằm của ông quá nhẵn thín. Ngay từ sớm ông đã gọi phó Bưởi đến xử tử hổ bộ râu mọi ngày mọc bừa bãi cả trên má, xuống cổ. Cái cằm ấy bây giờ nó trắng hơn cả chỗ khác trên mặt. Còn bộ ria, nó vẫn là hai dấu ngã đối rất chọi trên môi. Ông đội mũ vuông bằng giấy, phất một lượt màu huyên, có đoi giải dài thõng sau lưng, mặc áo thụng lam mới, và đi hia mới. Bộ áo mũ này nó mỉa mai bộ áo công của làng một cách cay độc, vừa cũ, vừa bạc màu. Nhất là cái áo thụng sắm đã lâu ngày, nên nó chảy dài xuống gần đến gót. Của ông lý là những của vừa mới sắm. Ông bỏ tiền túi ra mua tận trên Hà Nội. Vì năm nay dù chưa chính thức ăn tiên chỉ, ông cũng được cắt ra thay cụ Tú đứng mệnh bái về dịp tế thần.
Bởi vậy, ông bảo chưa đến giờ. Vì ở sân miếu vẫn còn ít người xem quá. Như vậy nó tủi công sắm sửa của ông đi. Nhất là ông cần chờ Liễu, để có dịp trêu tức nhau chơi. Ông ôn tồn nói:
Anh nào về nhà anh ký Liễu hộ tôi. Giục ông ấy ra ngay, nói rằng ông chủ tế mời nhé. Gớm, việc tế tự mà không siêng năng tí nào, phải tội chết!
Nói đoạn, ông đi loăng quăng ở hiên, yên trí rằng từng ánh mắt phải nhìn theo mà tấm tắc, ông xuống thềm, ngó vào trong kiệu, đặt lại đôi đèn nến cho ngay ngắn. Rồi ông vui vẻ hỏi han phường bát âm, bắt họ đi thử một vài điệu.
Một lát thấy bóng Liễu đến, tay mang áo thụng, ông chạy tận ra cột đồng trụ, niềm nở đón và tươi tỉnh mời:
- Mời ông vào rước.
Ông cho là những dáng điệu, những lời nói của ông càng ngọt ngào, dịu dàng bao nhiêu, tất Liễu càng bực tức bấy nhiêu. Bởi vì chốc nữa, ông đứng chủ tế, Liễu sẽ như bị kim chọc vào mắt. Bọn họ sẽ căm hờn khạc ra máu được. Nhưng căm hờn thì làm gì. Nghĩ vậy, ông mát gan, mát ruột.
Liễu vào trong miếu, mặc áo thụng xong, thì làng bắt đầu rước. Trống cái và bi li điểm ba hồi chín tiếng. Đinh tráng áo nẹp viền đỏ trắng chạy lại cầm lấy cờ và xếp hàng đôi rước kiệu. Phường trống con và bát âm nối nhau lên tiếng.
Bỗng hai cánh cửa mở toang ra, Sính áo thụng đi giật lùi, giơ cao cái kiểng điểm từng tiếng một đều khan.
Liễu khuỳnh hai tay ngang mặt, nâng bát hương sứ, khói nghi ngút.
Sau ông này, Trung rước họp sắc, cũng khuỳnh tay ngang mặt. Cái khăn lụa màu hoa đào mọi khi phủ hòm sắc, thì ông trân trọng phủ lên đầu ông. Nó bay phấp phới. Trong bộ mặt và dáng đi cố làm cho ngay ngắn của ông, người ta thấy ông hãnh diện lạ thường. Theo sau ông, các cụ thứ chắp tay nghiêm chỉnh đi chen nhau.
Bát hương và hòm sắc xuống một bậc, thì hai chiếc lọng giương sẵn đã ngả ra đón. Liễu theo kiểng đặt bát hương vào giữa kiệu. Rồi kiệu khênh cao đầu, để lên vai mọi người và bắt đầu từ từ theo chiêng trống mà tiến. Trung nâng cao hòm sắc, đội lên đầu, hai tay giang ra để giữ. Ông có nét mặt oai vệ. Đầu ông đội cả phẩm tước Ngài của vua ban kia mà. Ông đi từng bước, thong thả, mắt liếc bên nọ, bên kia. Rồi đám rước ra đến đường, ông vẫn đội hòm sắc, lên ngồi trên xe cao su. Người phu xe, ông bắt đội khăn, mặc áo thâm dài, buộc thắt lưng đỏ và quấn xà cạp đỏ.
Từ miếu về đình, đám rước đi mất hai mươi phút. Dưới ánh nắng chói lọi của mặt trời, trên trán mọi người đã rỏ từng giọt mồ hôi.
Lúc bấy giờ, Trung chỉ nghĩ đến sự nghi vệ của cờ, kiệu, trống chiêng. Thấy hai bên đường, người ta đứng rạp để nhìn và chắp tay suỵt soạt vái hòm sắc, ông sung sướng vô hạn.
Nhưng Liễu thì hết sức khó chịu. Ông rất cáu tiết vì tính khệnh khạng của thằng cha. Mọi năm ông Tú rước sắc thì đâu có nhố nhăng như thế này. Ông Tú đi bộ chứ có đi xe đâu, mà chẳng bao giờ ông đội cả hòm sắc lẫn khăn đỏ lên đầu. Thật là tiểu nhân đắc chí.
Liễu chỉ mong bánh xe sì bơm cho bên địch phải một phen bẽ mặt.
Nhưng cuộc rước được bình yên. Trống cái và trống con đổ hồi. Tràng pháo nổ lẹt đẹt. Kiệu bát cống đặt giữa sân đình, cạnh thềm đá, Liễu lại vào việc.
Phường bát âm đi bài lưu thủy, Liễu nâng bát hương, tiến bước trên bậc thềm. Biết rằng Trung đi theo mình, nên ông tiến rất nhanh chóng. Hình như ông muốn rút ngay cái gai trước mắt đi vậy.
Đặt bát hương và hòm sắc lên bàn thờ, Trung và Liễu cùng ra, rồi cùng đứng ngang nhau, trên chiếc chiếu trắng, lại tạ bốn lạy, rồi sang bực bên cạnh, ngồi nghỉ một lát để chờ tế.
Tiếng xướng "khởi trinh cổ" ề a, tiếng chiêng và bát âm nổi dậy.
Trung đứng chắp tay cạnh chiếu thứ nhất, nét mặt nghiêm chỉnh.
Tựu... vị...ị!
Theo tiếng xướng, mọi người thong thả, thứ bậc đứng vào chiếu.
Đàn bà, trẻ con vây xung quanh để xem. Họ chú ý quá, đến nỗi các điệu bộ chân tay đều theo nhịp bát âm cả.
Người ta thì thào:
Ông mệnh bái mọi năm lễ chiếu hoa. Ông mệnh bái năm nay lễ chiếu trắng. Người nữa nói:
- Trông ông ấy mũ áo, chẳng biết Người có buồn cười không, chứ tớ thì cứ phải cắn môi lại.
Lại người nữa nói:
Ông ấy đường bệ chả kém gì cụ Tú mọi năm.
Họ còn bình phẩm từng nhân vật một, nhưng đại khái ai cũng chỉ trỏ ông chủ tế nhiều nhất. Vì mới năm nay, Trung đứng mệnh bái là lần đầu.
Để tai nghe những lời phê bình, nhất là Trung và Liễu. Bị chế nhạo, Trung như thấy bị chất lên đầu một gánh nặng. Ông bẽ bàng xấu hổ. Nhưng bỗng câu khen đến tai ông, ông lại như cởi tấm lòng, nhẹ bỗng. Liễu thì trái lại. Cho nên cả hai người, không ai được yên tâm chút nào.
Liễu vào chân đọc chúc. Ông đứng chờ cạnh đăng bày rượu tiến tước. Ông ngắm ông chủ tế bằng cả đôi mắt hằn học và cả một tấm lòng đố kỵ.
Thấy Trung vô ý đứng không được vào giữa chiếu, ông che miệng ghé gần ông tây xướng:
- Thật là anh mán.
Rồi khi thấy Trung lễ dậy giẫm lên vạt áo thụng vướng suýt ngã, Liễu bèn hai mắt long lên, tưởng chủ tế ngã, thì quyết ngả vạ.
Trông bộ mặt đáng ghét đắc chí của Trung, Liễu bỗng nẩy ra một ý ngh. Không thể để mãi sự nhố nhăng, lố bịch, có cái địa vị chướng mắt được. Ông phải bài trừ. Ông phải nhận trách nhiệm bài trừ. Ông phải ra tay bài trừ. Và trong giây phút, cả chương trình hành động vụt nẩy ra trong óc.
Bỗng ông nhăn nhó, cố gò lưng xuống để đứng khom khom. Rồi hai tay ông ôm bụng, xoa rối rít. Trương Đài đứng cạnh, hỏi:
- Làm sao thế, ông ký?
Liễu cắn răng, mãi mới đáp được:
- Tôi đau bụng quá. Ông hỏi ai có dầu cho tôi xin.
Rồi gượng một lát, ông lạng lạng, một tay ôm chặt lấy chân án thư, một tay vớ lấy vai Đài, nhưng yếu sức, ông ngã nhè nhẹ xuống sân gạch.
Mọi người sợ hãi, xúm lại. Chủ tế, bồi tế, đông xướng, tây xướng, tuy không dám rời chỗ đứng. Nhưng ai cũng quên phút thành kính mà quay lại nhìn bệnh nhân.
- Tôi đau quá, giời ơi!
Rồi Liễu rên rỉ. Người ta vực ông dậy, nhưng ông oằn oài, chân tay rung nẩy lên.
- Các ông cho tôi nằm, kẻo đau lắm chết mất.
Tiếng xì xào mọi nơi:
- Hẳn là ông ký không thành kính, đến chậm trễ nên Ngài hành tội.
- Hay là Ngài không bằng lòng ông lý đứng mệnh bái.
Mặc những lời bàn tán, Liễu cứ kêu đau, vì ông có mục đích khác, ông nằn nì:
- Các ông cho vực tôi về nhà, không tôi chết mất, rồi tôi lễ tạ sau cũng được.
Thấy người đau đớn kịch liệt, ai cũng thương hại, nên phải theo lời yêu cầu. Song Quang ngăn:
- Không thể được. Trong khi tế, ông ký hãy phải ở đây.
Liễu thở phì phò, như bất tỉnh, và quằn quại. Sau hết, người ta phải khênh ông vào giải vũ, đặt ông ngồi tựa vào tường và cắt khán Thủ trông nom.
Từ lúc Liễu bắt đầu nổi bệnh đến bây giờ, sự tế lễ vẫn không ngừng.
Tiến tước xong tuần rượu sau, ông đông xướng khuỳnh tay, hô:
- Đọc chúc... ư!
Bỗng ai nấy sực nhớ ra. Người ta ngơ ngác nhìn nhau, rồi quay cả lại giải vũ: Việc đọc văn là việc ông thư ký.
Nhưng Liễu vẫn đang đau, có phần kịch liệt hơn ban nãy. Ông lăn lộn trên bục gạch, mê man nằm cả ra ngoài chiếu.
Thế thì làm thế nào? Ông thư ký thông thạo chữ nho, lại có giọng tốt, bao nhiêu năm nay vẫn giữ việc đọc chúc. Bây giờ bỗng ông phải nằm một xó. Nguy đấy. Ông mệnh bái nhìn ông thủ quỹ, rồi che tay lên miệng:
- Ông phủng chúc hộ.
Quang ngần ngừ, nhưng không thể từ chối việc không có gì là nặng nhọc. Quang sắp lại tay áo thụng, và kính cẩn lên mấy bậc thềm. Đến tiền án, ông giơ tay cho áo tụt xuống khỏi vướng, đoạn lùa qua cây đèn nến và giá gương để nắm lấy bản chúc. Nhưng vì không quen việc, nên ông lúng túng. Ông không biết đưa cái giá lềnh kềnh ấy ra đằng nào cho lọt. Mọi bận ông không để ý đến công việc này mà Liễu làm rất thành thạo. Bao nhiêu mắt trố lên nhìn để chờ, thì may quá, Túy đã nhanh trí, đi rảo đến cạnh, nhấc cây nến ra để lấy chỗ cho ông nâng bản chúc.
Quang đỏ mặt, tiến tước xuống thềm, đến chiếu chủ tế, ông đứng cạnh Trung và đưa.
Song, công việc ông chưa hết. Ông mệnh bái nói khẽ:
- Ông đọc chúc hộ.
Quang chối:
- Tôi đọc thế nào được.
Và ông đông xướng xướng luôn:
- Quy...i!
Chủ tế không đáp, thong thả quỳ xuống chiếu.
- Giải quy...i!
Thấy mọi người quỳ, bất đắc dĩ Quang cũng phải theo. Ông đưa ông mệnh bái bản chúc và toan đứng dậy.
Biết Quang định chuồn, Trung vừa vái vừa nói nhỏ:
- Ông ở đây.
Rồi vội vàng ông đưa trả Quang. Thế là Trung buộc chết Quang vào một công việc nguy hiểm.
Nhưng bất đồ Quang không cầm:
- Ông đọc, tôi giọng xấu lại không đủ chữ.
- Tôi đứng mệnh bái, không đọc được.
Tất cả các chấp sự đều nghe rõ và hiểu cả sự lúng túng này. Ông đông xướng nhìn quanh để tìm một người rồi gọi:
- Ông phó Thiếp vào văn đi vậy.
Thiếp xua tay, lè lưỡi, lắc đầu và tìm hướng lánh mặt.
Đám Nhã Nhắc ông đông xướng:
- Hay ông vào.
- Tôi vào thế nào được.
Sự yên lặng trở nên nghiêm trọng. Chùng chình một lát, ông mệnh bái nói:
- Thử xem ông ký Liễu thế nào, nếu ông ấy đã đỡ thì mời ông ấy vào việc vậy.
Thế là không ai sai, nhưng Quang được dịp nghe lời ngay. Ông đặt chúc xuống chiếu, đứng dậy liền như người thoát nạn. Ông chạy sang giải vũ và khi thấy Liễu còn đau xoắn xuýt, ông chỉ đứng đấy để đưa tin lên:
- Ông ấy không thể ngồi dậy được.
Sự bối rối trở về với Trung. Không thể đùn cho ai được, ông phải nâng lấy giá chúc. Và cố nhiên ông đành liều. Ông nhìn tờ giấy chữ nho từ đầu đến cuối, rồi gật đầu gọi ông đông xướng. Ông hỏi những chữ khó và nhẩm cho thuộc lòng. Muốn cẩn thận hơn ông ôn lại một lượt nữa.
Đoạn, khi yên chí rằng ông chủ tế đã đủ sức để đọc văn, ông đông xướng xướng "đọc chúc". Trung đằng hắng mấy tiếng, giơ bản gỗ sơn son lên ngang mặt. Cả tay lẫn giọng ông run như cầy sấy.
Cạnh đó, Liễu đã khỏe mạnh như thường, đứng lắng tai nghe từ bao giờ.
Kết cục, Trung làm cho làng không thể tha thứ mà không bắt vạ được. Một là những chữ ông thuộc thì lại là "tác" đánh ra "tộ", hoặc là chữ dưới đọc lên chữ trên. Hai là đến duệ hiệu của Ngài, ông dám đọc to tướng và không vái. Trung cố cãi, nhất định cãi, lấy lý rằng không phải việc ông, nhưng ai nghe. Liễu trợn mắt khép án hùng hồn nhất:
- Đứng mệnh bái, ông phải biết chữ mới được chứ. Thế ngộ người đọc văn cũng vô học như ông, họ đọc bứa bừa đi, thì có chết không. Mà Ngài đã hành tội thì hành tội cả làng, cả làng sẽ bị khổ sở, chứ riêng gì ông. Tôi xin các cụ phải thẳng tay mới được.
Trung cằm tức, nhưng không cãi nổi, vì cả làng về một bè. Cả làng về một bè, vì cả làng sẽ được chén. Ông lại xấu hổ nữa, vì bị ngả vạ vì tội dốt, dù cái dốt ấy chẳng ai lạ gì. Song, lần này nó thành tích và gây nên dư luận. Ông chết điếng.
Nhưng thực sự, mấy con lợn béo sẽ chết thay cho ông, vì ông phải mổ nó để tạ thần và tạ làng. Liễu đắc chí, nói chọc:
- Chỉ những loài vô học như loài lợn là thiệt thân mà thôi, vì chúng nó phải thế mạng cho chủ.
Rồi một lát, ông thêm:
- Loài vô học nọ chết thay cho loài vô học kia cũng thế.
Nói được câu sâu sắc, ông hả dạ cười khanh khách. Và trong khi đánh chén ở đình, ông dở đùa dở thật bảo Trung:
- Thế mà bố còn định ăn tiên chỉ để bố giết hại cả làng nữa kia!
Thằng Mới đặt thủ lợn vào mâm đồng đậy lồng bàn. Nó đội lên đầu vừa đi được mấy bước, đã bị Liễu gọi giật lại:
- Mới!
- Dạ.
- Mày mang cái gì đi đâu đấy?
- Bẩm ông con mang thủ lợn đến đằng ông lý.
- Để làm gì?
- Bẩm biếu ạ.
Liễu khuỳnh hai tay cạnh sườn trợn mắt, hỏi:
- Ai bảo mày biếu ông lý?
- Bẩm ông thủ quỹ ạ.
Liễu hầm hầm quay lại, hỏi Quang:
- Ông thủ quỹ. Ông sai thằng Mới đem thủ lợn đến biếu ông lý phải không?
Trung đứng dậy mặt đỏ gay, sừng sộ trả lời thay bạn:
- Phải, lệ làng phải đấy.
Liễu quắc mắt:
- Lệ làng nào chứ lệ làng này không có cái lệ nhục nhã ấy.
Trung tiến mấy bước, hỏi:
- Ông bảo thế nào là nhục nhã. Lệ làng thế đấy. Ông là gì mà ông dám phá lệ làng!
- Lệ làng nào có cái lệ biếu lý trưởng thủ lợn.
- Tôi hỏi thế mọi năm lợn cúng thần rồi có biếu cụ Tú cái thủ hay không?
- Có, bởi vì cụ Tú là tiên chỉ, chứ ông là thứ bậc gì?
- Thế thì ông lầm to. Con lợn tế xong, dân làng chia nhau ăn uống, còn cái thủ thì kính ông mệnh bái. Năm nay tôi mệnh bái, tôi có quyền bắt làng phải biếu thủ lợn.
Mọi người nhao nhao, Tời cự:
- Làng thảo thì làng biếu, chứ ông bắt thế nào được.
Trung biết mình hớ, cuống quýt, chối:
- Nào ai nói bắt.
Liễu trỏ tay:
- Thì ông vừa mới nói.
- Các ông nghe sai. Tôi chỉ nói, ai mệnh bái thì làng biếu cái thủ lợn. Giá ông đứng mệnh bái thì làng biếu ông ngay.
Liễu cãi:
- Không phải thế. Làng biếu ông mệnh bái mọi năm, vì ông mệnh bái là tiên chỉ. Vậy đó là làng biếu ông tiên chỉ chứ không phải biếu ông mệnh bái. Chính lệ làng như thế, chả tin ông giở khoán ra mà xem.
Trung tức quá:
- Ai chả biết ông lắm chữ, hơi tí thì giở khoán ra lòe.
- Vậy thì các cụ đặt khoán làm gì?
Trung không cãi nữa, cáu tiết giục thằng Mới:
- Mới, mày cứ đi cho tao.
Liễu quát:
- Mới, mày đi thì mày chết với tao.
Hai người bắt đầu hăng, tiếng bàn tán xôn xao khắp các chiếu, Quang hỏi:
- Vậy ra trong mấy hôm làng tế này, làng vẫn phải biếu cụ Tú?
Liễu gật:
- Phải, cụ Tú mới mất, làng còn phải biếu cho đủ ba năm.
Tiếu ôn tồn giảng giải:
- Thế thì khí quá. Tôi tưởng thủ lợn hôm nay kính ông mệnh bái cũng được, còn thủ lợn ngày mai, hãy biếu cụ Tú. Giá ông đứng mệnh bái, tất ông được biếu, chứ sao.
Liễu lắc đầu:
- Tôi nhất định không nghe. Phải biếu cụ Tú cả.
Trung hùng hổ giơ nắm tay:
- Ông không nghe mặc ông. Tháng Mới cứ đi cho tao. Liễu chật ngay chiếc khăn xếp ra, vứt bẹp rúm ró xuống sân đình:
- Tôi cứ không nghe. Ông làm gì tôi tốt.
Trung lại quát:
- Mới, mày cứ đi, tội vạ đâu tao chịu.
Thằng Mới không biết nghe ai. Nó vội vã đi. Biết thế nào cũng sinh to chuyện. Trung tiến ngay lại chỗ Liễu để thị uy. Nhưng Bút vội vàng ôm lấy Trung và thấy họ bênh nhau ra mặt, Quang cũng lại ôm lấy Liễu. Nhưng ông này nhanh chân, chạy bổ đến thằng Mới, giơ chần đạp nó một cái. Tức thì mâm rơi kêu loảng xoảng và thủ lợn bắn xuống thềm, rồi rơi từng bậc xuống sân, nằm chổng kềnh.
Trung thấy như chính mình bị đạp, xổ sang bên địch. Nhưng người ta đã nhanh tay, giữ ghì lại. Liễu kêu ầm ĩ:
- Giời ơi! Nó phá làng! Lý trưởng nó phá làng! Làng nước ơi!
Trung cố giằng ra, vùng vằng:
- Các ông cứ mặc tôi, lên quan phen này thì lên. Tôi đành mất lý trưởng với nó phen này.
Mọi người can:
- Thôi ông, ông nóng quá.
Liễu cầm chiếc guốc, trợn mắt trỏ mặt Trung:
- Mày lại đây.
Và vừa định xông lại, ông cũng bị người ta giữ.
- Thôi, tôi xin ông. Giữa chỗ thờ tự, phải tội chết.
- Các ông cứ mặc tôi. Đành tôi sống mái với nó phen này. Tôi không chịu. Chẳng có thì lên đến quan chứ.
Liễu kèn cựa, nhưng không được. Bỗng thấy cái cột đình ở cạnh, ông vật đầu đánh bốc vào, và ngã gục xuống, kêu:
- Ông liều với mày đây.
Mọi người sợ hãi, chạy lại. Trung vội vàng phân bua:
- Cả làng làm chứng cho tôi nhé. Nó phá lệ làng rồi lại đập đầu ăn vạ đấy nhé. Tư Bính tức:
- Nhưng tại làm sao, tại ai mới được chứ?
Người ta hết sức can:
- Thôi, ông Tư! Làng đang vào đám vui vẻ, để rồi ta thu xếp với nhau sau. Vả chỗ người lớn cả. Làm thế con em nó cười.
Trung quả quyết:
- Tôi không sợ ai cười. Rồi nó lên quan với tôi. Làng có Trung thì đừng có
Liễu, mà có Liễu thì đừng có Trung. Nhất là việc này đến thượng thẩm, chứ tôi không chịu thiệt cái thù lợn.
Tời muốn thu xếp cho yên, bèn len lén chạy ra máy thằng Mới:
- Mày cứ đội thủ lợn đi, nghĩa là cho ông lý trông thấy, nhưng mày giấu ở hậu cung ấy cho tao.
Rồi cụ đến Trung trỏ cho ông ta trông thấy. Cụ lại sán ngay cạnh Liễu, ghé vào tai:
- Nó cất vào hậu cung, chứ không đem biếu đâu, chả tin chốc nữa ông vào mà xem.
Mưu ấy quả có hiệu lực. Trung và Liễu nguôi giận tức thì. Hai người cùng tưởng thắng trận và cùng nhìn bên địch bằng vẻ mặt đầy kiêu ngạo.
Đi kiện, thầy không nên cậy có lý. Phải, lý thì làm gì, một ông quan xử kiện mà phải tựa vào luật, là một ông quan kém.
Liễu gãi tai thở dài, đáp:
- Lạy quan lớn, như thế là anh lý chúng con xử ức chúng con quá. Mà cũng là cậy thế, khinh miệt cả làng.
Ông huyện cười, gật đầu, xua tay:
- Khoan, thầy vừa nói đến tiếng cậy thế, đúng lắm. Đó là thầy lịch duyệt rồi. Phải, lý trưởng có thể khinh miệt cả làng được, vì hắn cậy thế. Vậy sao cả làng thầy không cậy cái thế lực nào để khinh miệt lại hắn có được không. Nghề đời là vậy, người ta có chỗ bấu víu, mới dám làm bừa. Cho nên từ nãy đến giờ tôi vẫn khuyên thầy thôi, đừng kiện nữa, dĩ hòa vi quý. Mà cái vết thương thầy nại ra, chứ sao nó thế kia được.
Liễu ngây người, gãi tai:
- Lạy quan lớn, anh lý chúng con là tôi con quan lớn, chúng con cũng là tôi con quan lớn.
Quan lại gật đầu, ngọt ngào hơn nữa, dỗ dành:
- Hiểu rồi, nghĩa là thầy tưởng tôi không bênh thầy chứ gì. Nhưng mà, này thôi, cứ về đi, rồi tôi kiếm việc khác làm ơn cho thầy. Không đâu mà thiệt.
Dứt lời, quan phụ mẫu lấy gói thuốc lá tím, giá mua là năm xu, rút ra một điếu, dập một đầu xuống bàn, ngậm lên miệng, rồi giơ cả gói mời Liễu. Liễu cảm động, khúm núm, chạy vội đến gần, đưa hai tay ra đỡ, nhưng không dám lấy, lại đặt trả xuống bàn. Quan hất hàm:
- Lấy một điếu mà hút.
Rồi ông đánh diêm châm cho ông, đoạn đưa que còn đỏ cho Liễu. Liễu nâng diêm, dào dạt như muốn khóc.
Chưa bao giờ ông thấy quan tử tế như lần này.
Cuộn khói lên trắng tỏa trần nhà, đượm gian buồng, một vị thơm tho thân mật.
Ông huyện đập ngón tay trỏ cho điếu thuốc lá rơi tàn, rồi nói:
- Tính thầy thẳng, nên thấy những cái gai mắt thì hay tức. Ấy, ngày trước tôi cũng thế. Nhưng đến bây giờ, tôi bị lăn lộn nhiều ở đời, thì những tính nghĩa hiệp ấy mất cả. Mà cũng vô lý lắm kia. Những việc không dính dáng gì đến mình, mình cũng bất bình, lăn lưng vào mà can thiệp, can thiệp một cách hăng hái.
Thấy Liễu hai mắt nhìn lừ đừ xuống đất, như một người đầy tin tưởng, quan tặc lưỡi, nói tiếp:
- Mà việc thầy định làm hôm nay cũng vậy, chứ khác gì. Lý trưởng tranh phần biếu, có thiệt quái gì thầy.
- Lạy quan lớn, nhưng mà...
- Không, tôi nói thiệt, là thiệt riêng của thầy kia! Lợn là lợn của làng mổ. Ăn thì thầy cũng đã ăn rồi. Mà miếng thủ có ngon hơn gì miếng khác. Ấy thế mà cũng sinh sự đánh nhau để đi kiện. Tôi chỉ muốn các thầy vui vẻ làm việc với nhau để giúp tôi, đừng bới móc nhau ra, rồi con em nó cười. Vả lại, thầy cũng như thầy lý, tôi biết coi ai hơn ai, xử cho ai được, ai thua. Cho nên tôi can thầy, thầy nên nghe tôi là phải.
- Lạy quan lớn thương chúng con, xin quan lớn cứ công minh mà xử, dù ai được, ai thua, con chắc chúng con cũng không chịu ở tòa sơ cấp này. Chúng con theo nhau đến tòa án tỉnh, đến tòa thượng thẩm.
Quan cười, gật đầu:
- Được rồi, tôi hiểu. Các thầy đều giầu, cho nên nhất định không nhịn nhau. Việc ấy là việc riêng mà cũng là quyền của các thầy, cái đó đáng nhẽ tôi không nên khuyên can thì phải. Nhưng tôi hãy hỏi, khi việc lên đến tỉnh, các thầy có dám vào thẳng cụ chánh án mà khấn hay không. Liệu cụ có tin các thầy mà nhận lời hay không. Cụ rất đa nghi. Nên hễ ai vào mà không có người thân tín đưa, cụ ngờ ngay là mật thám. Chính cụ thuờng nói bất cứ giờ nào, sở mật thám cũng có thể bắt quả tang tất cả quan trường nước Nam này về tội hối lộ. Như thế tất thầy phải cậy đến tôi đưa vào hầu cụ. Nhỡ ngộ thầy lý cũng cậy tôi, thì tôi biết nhận ai, từ chối ai, thầy phải tránh cho tôi sự khó nghĩ ấy mới được.
- Bẩm nếu như thế cụ chánh án cứ công minh, rồi chúng con lên thượng thẩm.
- Ôi! Lúc ấy thì tiền húc nhau với tiền, chứ đừng nói gì đến pháp luật nữa. Thầy phải hiểu rằng pháp luật có chân, nó biết đi, chứ nó không đứng yên đâu. Từ nãy, thầy vẫn tin pháp luật quá. Nhưng pháp luật có đến hàng vạn điều, điều này dựa vào điều nọ, nên một ông quan tòa muốn gỡ tội cho ai, có khó gì. Rồi kết cục, tiền mất mà việc không được, thầy mới hối là đã dại, không nghe tôi.
Liễu trầm ngâm, thở dài. Quan tiếp:
- Cho nên thà thu xếp yên ấm ngay từ lúc đầu cho đỡ bị mang tiếng còn hơn.
Liễu ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
- Lạy quan lớn, quan lớn thương chúng con, dạy thế, chúng con xin vâng lời.
Quan cười, gật gù, đắc chí nói:
- Phải, như thế là thầy biết điều lắm. Tôi tin rằng thế nào thầy cũng nghe ra. Người nóng nảy đến đâu cũng có lúc hiểu lẽ phải. Thầy thì tốt bụng, làm việc này, chẳng qua như rửa mặt hộ làng. Coi việc làng như việc riêng của mình nên nhất quyết thầy bỏ tiền ra để theo kiện. Ôi còn việc này nữa...
Vừa nói, ông vừa cầm tập giấy bạc để trên bàn:
- Thầy định khấn tôi bao nhiêu đây?
Rồi đếm bằng mắt, ông tiếp:
- Năm chục, thôi được, tuy việc không phải dùng đến tiền, nhưng tôi hãy cứ nhận, cũng như tôi tạm vay thầy, để việc sau.
Rồi bỏ ngoén tiền vào túi và như muốn xí xóa, ông hớn hở cười:
- Tháng này tôi cũng túng.
- Liệu gãi tai:
- Dạ.
- Vả lại những lời tôi khuyên can, cũng đáng mấy ngần này. Nếu không nghe tôi thì việc dây dưa ra. Mỗi thầy lại mất không hàng nghìn à.
Liễu tiếc tiền nói:
- Dạ, chúng con tôi con quan lớn thì mấy chúng con cũng không oán thán, nhưng việc này con phải, anh Lý còn trái, mà anh lý con không tốn kém gì.
Ông huyện cười:
- Ồ, thầy đừng hậm hực nữa. Rồi tôi bắt lý trưởng phải lễ tôi đúng một trăm, kém không được.
Liễu tươi tỉnh, như được kiện, sung sướng đáp:
- Dạ, không có thì, bẩm quan lớn tha tội cho con, con tức lắm.
- Phải, lúc nào tôi chả công bình, bao giờ tôi coi lý trưởng hơn thầy được.
Không còn việc gì nữa, ký Liễu hề hả vái chào quan rồi lùi ra.
Trung mấy hôm nay không ra khỏi ngõ. Ông phải luôn có mặt ở nhà để tiếp các người đến hỏi han công việc. Ông đắc chí, vì đang trả thù ký Liễu một vố đau.
Nguyên từ hôm ông huyện bắt phải mang nộp đủ trăm bạc, để đền công ông đã dỗ dành Liễu thôi không kiện nữa, thì Trung lại được quan bảo cho biết rằng Liễu đã xin ra chánh hội và được nhận lời.
Nhưng Trung không thể chịu đựng được điều uất ức ấy.
Liễu làm nổi chánh hội, tất thế nào chức tiên chỉ rồi ra cũng phải tranh nhau. Vậy ông nên dập ngay đi từ đầu, nghĩa là phá. Cho nên ông xui xã Túy ra tranh. Được thì càng hay chẳng được thì ông cũng sung sướng vì đã làm cho Liễu lệch nghiệp. Mà khi có ít tiền, người ta không dám mạnh bạo nữa.
Nghĩa là người ta phải tự nhụt đi.
Trung quả quyết bảo với Tuý:
- Ông cứ ra, tốn kém bao nhiêu tôi xin chịu. Ở trong làng, lý trưởng, chánh hội có ăn cánh với nhau, làm việc mới mong có lợi cho cả đôi bên. Chứ để ký Liễu lên chánh hội, chỉ giữ miếng nhau, còn thú nỗi gì.
Thế là ông đưa trăm bạc cho bạn, bắt ông này giao thiệp thết đãi những tộc biểu khác để lấy vây cánh. Còn ông, ông đứng làm quân sư. Cho nên, cần lắm ông mới lên huyện để vấn kế cụ Thừa Sinh, còn hàng ngày ông phải ở nhà, vì vụt một cái, Túy lại cho người đến hỏi ý kiến.
Lúc ấy, chừng vào một giờ chiều, Trung đang lim dim nằm ngửa, vén đùi cạnh bàn đèn vắt tay lên trán. Rồi lơ mơ, ông nói:
- Nếu thế thì tôi phải xin quan mời cụ Sứ về chứng kiến một cuộc bầu cử mới được.
Rồi mở choàng mắt ra, ông ngơ ngác:
- Ừ, đâu rồi?
Đoạn ngồi nhỏm dậy, ông gọi:
- Cúc ơi!
- Dạ.
Một đứa ở gái lên, đứng ở bậu cửa, ông hỏi:
- Cụ Nhất đâu?
- Thưa cháu thấy cụ ấy ra cổng từ nãy.
Ông cuống quýt hỏi:
Cụ ấy ra cổng làm gì, thế cụ ấy có bảo gì mày không?
- Cháu không biết, lúc ấy cháu ở dưới bếp.
Trung nhăn nhó:
- Mày thử hỏi bà lý xem nào. Để sổng cụ này thì rầy rà to. Tao đã nói gần rồi.
Bà lý ở hè nhà trên đáp:
- Cụ ấy bảo về một tí rồi đến ngay mà.
Trung cau có:
- Khỉ quá, cụ ấy lại đến nhà ký Liễu mất rồi.
Rồi ông lẩm bẩm:
- Hay là ký Liễu cho ông cụ đến đây thám chăng.
Nghĩ ngợi một lúc, ông bảo Cúc:
- Mày đến ngay nhà cụ Nhất nhé, mời cụ đến chơi ngay, cứ bảo tao nói có việc gì cần ấy.
Trung mở chụp đèn, lấy kéo rút bấc đèn lên, rồi tháo tẩu ra, lấy móc nạo quèn quẹt.
Bà lý muốn chừng nghe tiếng nạo, phàn nàn:
- Chả biết hơi đâu mà thế! Phần được người ta nắm chắc trong tay, thành ra ở giữa vừa mất tiền, vừa không khéo lại đèo thêm cái nghiện.
Trung vênh váo cãi:
- Nghiện được cũng còn khó. Nếu nghiện thì lớp chữa đình tôi đã nghiện rồi. Người ta ăn chơi ăn bời để tiếp khách mà cũng kêu ra kêu vào.
- Chứ lại chả kêu, ai đời lại vận của nhà đi cho người khác làm chánh hội bao giờ.
- Chà, đàn bà biết gì?
Độ nửa giờ sau, cụ Tời đến. Trung mừng rỡ nói:
- Cụ đi đâu thế, tôi cho nó mời đấy mà.
Tời ngồi vớ cái gối, nằm ngả xuống, đáp:
- À, tôi có về nhà đâu.
Nghi ngờ, Trung bắt nọn.
- Cụ lại đến đằng ông ký chứ gì, tôi đã xin cụ rồi cơ mà.
Thản nhiên, Tời cười:
- Thì cũng phải đảo qua loa lại đằng ấy một tí, nghĩa là cũng như tôi hay chạy lại đằng ông xã Tuý, hay lại đây ấy mà!
Rồi gãi bụng, Tời nhăn nhó:
Đến khổ, tôi cũng duyên nợ gì với các ông hay sao, ông nào cũng giữ, mất cả tự do.
- Thế là người ta quý cụ, chứ như người khác thì người ta giữ làm gì.
Trung tiêm xong, đưa xe lại đằng Tời:
- Điếu này vừa vặn, cụ xơi đi.
Tời gạt ra, nói:
- Thôi, mời ông, tôi say quá rồi, đầm ngứa ngáy cả người.
Trung trách:
- Cụ lại hút ở đằng ký Liễu.
- Thì chả nhẽ người ta chèo kéo, ông tính sao. Tôi năng đi lại với ông mười phần, tôi cũng phải vờ đảo qua đằng ấy năm phần, nghĩa là cho người ta khỏi nghi ngờ chứ.
Trung hỏi dò:
- Đằng ấy có những ai?
- Tôi có nhìn đâu. Tôi thấy đông nghìn nghịt. Đang sắp chén thì tôi về.
- Hình như con sen, con đào hát ở đấy phải không?
- Phải.
Trung bĩu môi:
- Những con ấy thì hát thế nào được. Đấy, hôm qua chúng nó hát nhà ông Túy, nhưng tôi phải đi, bảo ông ấy đón bọn ở Ngã Tư Sở, nhân một việc cô đầu, cụ thử ngẫm mà xem, có phải ông Liễu khó chơi hay không. Ông ấy ra chánh hội, cần phải thết bạn bè ăn uống, hát xướng, thế mà hát thì gọi cô đầu tồi ở nhà quê, ăn uống thì nghe đâu hôm qua mổ lợn lại không có tiết canh.
- Tôi cũng thấy người ta nói thế.
Trung trợn mắt:
- Mổ lợn toi cho người ta ăn, có ngày thì oan gia đấy cụ ạ. Ông ấy có tiền mà kiệt lạ. Cụ xem, lắm chữ, lắm nghĩa làm gì. Người ta cốt nhất sự ăn ở. Ông ấy ăn ở như thế, rồi mà làm chánh hội, thì tha hồ nát làng. Tôi sở dĩ giục ông Túy ra phen này, cũng là muốn tránh cho làng một cái vạ. Tôi thì dốt nát thật. Ông Túy thì ít chữ nghĩa thật, nhưng không bao giờ dám mổ lợn toi để thết khách.
Tời nghêng cái hến cho Trung hiểu ý. Vừa hết sức nói xấu bên địch, chẳng lẽ Trung làm lơ, nên phải gọi:
-Cúc!
Trung sai nó đi mua thêm thuốc, và nạo lần sái sản đi.
Một lát, Tời vớ cái điếu, thông bã, rồi rặt thuốc. Nhưng không lấy đóm để châm lửa ở đèn, cụ mọc túi, lấy bao diêm, cố ý ấn mạnh lòng, để lòi tờ giấy năm đồng. Nhưng khi giấy bạc bật ra ngoài, cụ vờ vội vàng giấu đi. Trung thoáng trông thấy, bèn khen:
- Chà, cụ giầu nhỉ.
- Ồ, tôi vay đằng kia ấy mà.
Trung hiểu ngay, hỏi:
- Chỗ bà con, xin cụ đừng giấu. Có phải tiền này cụ lấy của ông Liễu không?
Tời cười, chối:
- Không.
- Thế cụ vay ở đâu?
- Ở đằng kia.
Trung không chịu được lối úp mở, nói:
- Thế cụ thề đi nào.
Tời lại cười:
- Tôi không thề.
- Thôi thế là đích rồi. Cụ tiêu tiền ông Liễu. Như thế tôi giận đấy, cụ ạ.
Tỏi thấy đã đến lúc nên nói thực, bèn thú:
- Nghĩa là, chẳng giấu gì ông, ông ấy cứ ấn vào tay, chả lẽ làm thế nào. Mà lần này là lần thứ ba. Vị chi ông ấy đưa tôi mười lăm đồng.
Trung cau mặt:
- Cụ nhận làm gì?
Tời tặc lưỡi:
- Túng thì làm liều. Tôi chót cầm lần đầu để trang trải nợ nhà khán Uy.
- Thế ông Túy chưa nói gì với cụ về việc này à?
Tời ngơ ngác:
- Chuyện gì?
- Chết thật, chậm chạp thế đấy. Tôi đã bảo ông ấy rằng nếu đã xoay ra mua phiếu, thì bên kia bao nhiêu thì mình cũng bấy nhiêu cơ mà.
- Thế thì tôi không thấy ông Túy nói gì cả. Hay là ông Túy chưa biết chăng. Vì ông Liễu dặn mọi người giấu hộ.
Trung nhỏm người dậy, sung sướng, dặn:
- Thế à? Vậy cụ đừng để ông ấy biết rằng tôi cũng rõ nhé.
Tời xua tay:
- Ờ, đời nào. Nghĩa là tôi chứ ai đâu mà ông phải bảo.
- Việc bầu này có lẽ quan phải về chứng kiến, cụ ạ.
Nói đoạn, Trung xỏ chân vào guốc, lên nhà trên. Tời biết ý, nhìn theo, tủm tỉm cười.
Quả nhiên, khi xuống nhà khách, Trung cầm bốn tờ giấy năm đồng và nằn nì:
- Cụ lấy làm gì cái tiền bẩn thỉu ấy. Đem lại quẳng vào mặt hắn ấy, cụ muốn tiêu thì đây, lấy ở tôi có hơn không?
Tời vờ từ chối:
- Thôi, nghĩa là chỗ anh em, ông đừng làm thế. Nghĩa là mặt mũi nào tôi nhận bầu cho ông Túy lại lấy tiền của ông.
- Không, cụ cứ cầm đi cho tôi yên lòng. Ông Túy chậm chạp, nên đã sơ ý chỗ này, vậy cụ đừng nên trách ông ấy. Cụ cứ ở tôi.
Tời càng vờ từ chối:
- Không mà. Thế ông coi tôi là gì?
- Cụ không cầm thì tôi không nghe đâu.
Nói đoạn Trung lại gần, cố ấn giấy bạc vào túi Tời. Tời làm như muốn chạy, nhưng nhất định lúng túng ở đôi guốc. Xong việc hối lộ, Trung hể hả nói:
- Chiều nay thế nào cụ cũng lại ông Túy xơi rượu, nghe hát nhé. Tôi chắc cụ được vừa lòng bằng mấy đằng ông Liễu.
Tời thân mật, đáp:
- Tôi thì nể ông quá, mà cầm tiền của ông, cứ ngường ngượng là. Mà không cầm thì sợ ông không bằng lòng, lại nghi tôi về bè ông Liễu. Anh em mình có bao giờ bỏ nhau!
Trung gật đầu:
- Ấy thật đấy. Cụ có cầm cho như thế, tôi mới yên tâm. Chứ trước kia, chẳng giấu gì, quả anh em cũng nghi nhau thật.
Tời cười:
- Được lòng đằng nọ thì mất lòng đằng kia. Ngày ông ra lý trưởng cũng vậy, nghĩa là tôi cứ phải bầu cho phó Uy, mà tôi có lấy của hắn đồng nào, tôi cứ chết tiệt.
- Tôi biết cụ hay cả nể. Bởi sợ hắn hơi có họ ngoại với cụ, nên độ ấy tôi không có ý giữ. Song, bây giờ cụ đứng trung lập. Ai chiêu đãi tử tế, thì cụ bầu cho người ấy. Vả cụ tính, ở đời, mình có quyền đi bầu, tội gì không hưởng. Thằng nào đi bầu mà không biết nhân cơ hội để rượu chè phiện phò, gái đĩ tiền nong, là thằng ấy dại. Chọn người đủ tư cách để làm gì, để nhịn đói à? Đan cử việc bầu chánh hội làng ta thì rõ. Cụ có công tâm, thấy ký Liễu với xã Túy tranh nhau, cụ chọn người, rồi bầu cho ký Liễu. Nếu cụ chân chính thì mất công đi bỏ phiếu. Nếu cụ được hắn mời, thì phải ăn thịt lợn toi, nghe cô đầu tồi, uống rượu pha nước. Chi bằng cụ bầu phăng cho xã Túy.
- Ây, tôi vẫn định thế. Mà ông nên biết bụng cho tôi, là nhiều lần tôi còn khuyên ông thư ký nên nhường cho ông xã, để đến khóa sau hẵng ra, và nếu nhất định ông ta cứ ra, thì nên đến nói với ông Túy một tiếng và chồng đền vài trăm phí tổn, cho đỡ tốn kém khoản khác, chỉ báo ông quan.
Trung lắc đầu:
- Nói phải có ai nghe! Kể ra đằng này cũng chưa tốn đến vài trăm. Nhưng nếu phải mua phiếu, thì mấy tôi cũng cho ông Túy theo.
- Tôi nghe quan bênh ông Liễu hơn.
- Bênh thì làm gì! Việc bầu chánh hội nào có phải như việc bầu lý trưởng mà bảo ông quan có quyền. Và ông ấy bênh gì ai. Ai nhiều tiền là mua được lòng ông ấy.
Rồi cụ xem, quan bênh ai.
Bỗng có tiếng chuông kêu ở cây cau, mấy con chó sủa vang. Thằng Mới vừa khua roi vừa tiến vào. Nó ghếch chân lên bậu cửa, nói:
- Bẩm hai cụ, ông xã cho mời hai cụ lại chơi.
Trung hỏi:
- Đằng ấy đông chưa? Có những ai?
- Bẩm thiếu ông quản Như.
Tời trách:
Tôi vừa thấy ông quản ở đằng ông ký Liễu.
Trung vật mình, vật đầu, vật tai:
- Thôi chết rồi, thế là lại mất một người. Làm ăn bậy quá!
Rồi vội vàng ông vớ khăn áo, rủ Tời cùng đi.
Buộc ngựa ở cây găng, Trung bấm đèn pin sẽ về phía trại lệ. Ông có thể vào tuột nhà tư để hầu quan như mọi bận, khi có việc cần và kín. Nhưng lần này, ông cần hỏi dò đội lệ, xem ý quan về việc chánh hội làng ông ra làm sao. Bởi vì cứ những tin ông lượm được, thì quan ưng cho ký Liễu.
Nhưng chẳng may đội lệ đi vắng. Trung vòng sân nhà tư, xuống bếp để nhờ người lính nhà chè vào bẩm cho. Ông phải giữ gìn thế, vì ông biết quan phụ mẫu nghiện hút và muốn giấu rất kín.
Trung chờ độ mươi phút, thì được vào buồng trong.
Ông ngửi thấy mùi khói thuốc phiện vẫn còn thơm lừng, và trông thấy đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ của quan đen thủi.
Sau khi mở đầu bằng những câu tha thiết để gợi tình cảm quan phủ mẫu, Trung mới vào đến việc chính. Rồi khi thấy quan cứ lẳng lặng nghe ông mới dám thưa:
- Bẩm lạy quan lớn, cho nên con phải dàn xếp để tên Túy ra ,vì tên Liễu, tiếng rằng có chữ nghĩa thực nhưng lạy quan lớn...
Trung im lặng để nghĩ tội Liễu, xong vì trí khôn không nhanh nhẹn, nên bất đắc dĩ phải nói:
- Nhưng bẩm sao bằng được tên Túy.
Quan cau mặt:
- Sao lại không bằng? Đây tôi nói thực, nghĩa là làng thầy bầu ai thì bầu. Bầu được người giỏi thì hay cho làng, bầu phải người dở thì làng phải chịu. Chứ hay dở, tôi đây mặc kệ. Nhưng thầy phải biết rằng người nào đến nhờ tôi, ắt rằng tôi bênh.
Trung gãi tai:
- Lạy quan lớn, quan lớn là cha mẹ cả dân. Đã muốn ra làm việc, ai khỏi được tay quan lớn tác thành. Nhưng phải cái tên Túy chậm chạp rút rát quá, con giục mấy lần đem đầu vào kêu quan lớn rồi hãy đầu đơn, thế mà nó cứ sợ không dám vào.
Quan bĩu môi:
- Mạnh vì gạo, bạo vì tiền. Cả nước An Nam này còn ai là gì đứa nào có tiền, vào cửa quan lúc nào không lọt. Nhưng tôi bảo cho thầy biết, thầy đừng giấu tôi nữa. Thầy làm thầy cho tên Túy. Thầy lo trên tỉnh, thầy muốn vượt cả tôi. Để tôi cho thầy hiểu đâu là mạnh.
Trung tái mặt:
- Lạy quan lớn, đó là quan lớn nghe người ta kêu man. Chắc là tên Liễu thù tên Túy, nên mới đặt điều ra thế, chứ xưa nay, con là thần tử quan lớn, lẽ nào con dám thế.
Quan gắt:
Thầy đừng chối. Và giờ cả cái hồn thầy. Rồi xong việc bầu chánh hội, thầy sẽ biết tay tôi. Tôi bảo trước cho mà liệu.
Trung run lên:
- Lạy quan lớn xét tình cho chúng con oan. Nếu con có bụng nào, con xin quan lớn cứ chém cổ con đi.
Quan cười khỉnh. Trung tiếp:
- Bẩm ngày đầu năm việc hàng huyện hỗn với quan lớn, chúng con có dám ký vào đơn đâu.
Tức khắc quan dịu ngay nét mặt. Ông nhớ ngay cái việc ghê gớm mà chánh, phó tổng lý trưởng trong hạt kiện ông. Ông ôn tồn, nói:
- Tôi cũng biết bụng thầy, nhưng tôi đã hứa với thằng Liễu rồi.
Trung bần thần, cúi mặt xuống, rồi sẽ gần lại bàn nói nhỏ. Mỗi khi Trung dứt câu, quan lại gật một cái rồi sau hết, ngài tươi tỉnh đáp:
- Ừ, thầy phải biết rằng tôi đã bênh ai, quyết nhiên người ấy phải được. Nếu không tôi làm quan làm gì. Gián hoặc có người tôi bênh mà hỏng, thì hãy hỏi cái thằng nó không lo cậy tôi có chắc được yên với tôi không. Ngày tôi tri huyện Yên Mỹ cũng thế, có việc tranh nhau lý trưởng. Thằng Tô cậy thế cụ Tuần, khấu đầu năm trăm. Tôi bảo nó chỉ khấu tôi ba trăm tôi sẽ xin cho thôi bổ, và cấm không cho ai tranh nữa. Nhưng nó đâu có họ hàng xa gần gì với Nghị Lại nên bị thằng Nghị xui dại, nhất định cứ lo trên tỉnh. Tôi biết vậy, xui người ra tranh, ra tranh cho thằng Tô tốn kém mà thôi, chứ tôi chắc rằng thằng Nghị không dám để thằng Tô thua vì sợ mất tiếng. Rồi hai bên tranh nhau kịch liệt quá, đến nỗi cụ Tuần phải viết riêng cho tôi cái giấy, nhờ tôi thu xếp cho yên chuyện để thằng Tô ra. Tôi biết thằng này đã nát ruột lắm, và hình như nó có lễ thêm cụ tuần hai trăm nữa thì phải. Vì có chữ cụ Tuần nên tôi phải tuân. Rồi thẳng Tô được làm lý trưởng, nó tạ tôi hai chục. Thầy bảo tôi lấy cái hai chục ấy làm thèm vào à? Tôi để cho thằng Tô làm vừa nửa tháng mới xoay cho một vố. Tôi trị cho trong một tháng, hết việc nọ đến việc kia, cụ Tuần cũng chẳng bênh nổi. Nó phải nhờ người nói mãi và tướn bạc đến van lại xin tôi lấy. Thôi, lúc ấy tôi tha hồ. Tôi móc cho đủ bảy trăm, ngang với số nó lo cụ Tuần. Đấy, chả tin, bây giờ thầy về Hưng Yên hỏi xem, việc ấy hiện nay người ta vẫn còn nói cả, mà ai cũng phải phục tôi là cứng.
Trung chắp tay đáp:
- Dạ.
Ông huyện sung sướng, nói thêm:
- Mà làm quan không cứng, có phải người dưới nó nhờn không?
Trung gãi tai:
- Lạy quan lớn, còn như tên Túy là nó hiền lành rút rát quá, chứ không phải dám hỗn xấc.
Quan gật đầu:
- Tôi hiểu.
Rồi ngài thân mật hỏi:
- Thế ngài mang lên bao nhiêu đấy?
- Bẩm cũng như tên Liễu đã khấn quan lớn.
- Ba trăm à?
Trung giật mình, không biết mình đã dò sai tin, hay quan lớn nói hơn lên một trăm:
- Bẩm quan lớn, con nghe nói tên Liễu khấn quan lớn hai trăm.
Quan cười, lắc đầu:
- Không, ba chứ sao lại hai. Chức chánh hội chứ cái gì mà rẻ được.
- Lạy quan lớn, thế đây con mới mang có hai, vì con tưởng chỉ có thế.
Quan giơ tay ra, nói:
- Được, hãy cứ đưa đây, cũng như thầy nhờ tôi giữ hộ. Rồi thầy đem nốt lên sau. Hai bên tôi cũng nể cả. Rồi hai người cùng làm được chánh hội.
Trung ngớ mặt, không hiểu, nhưng cũng phải đưa cái phong bì dày cho quan. Thấy lời hứa mập mờ, ông biết ngay là việc hỏng, và món tiền hai trăm không khéo thì mất tăm. Vốn ông rõ ông huyện lắm. Bất cứ tiền nào ngài cũng cầm. Được việc cho người ta thì ngài ăn, mà hỏng việc thì ngài bảo là giữ hộ để trừ vào việc sau. Ai không đòi thì mất, mà đòi lắm, ngài chơi cho một việc rồi hẹn gỡ cho. Thế là xí xóa món tiền. Xưa nay ai không lạ gì lối lừa dối ấy và Trung cũng hiểu rằng thò tiền cho ngài trông thấy tất ngài cầm. Mà ngài cầm là mất. Trung đã thuộc cái đòn ấy, và đã hết sức giữ miếng. Nhưng không hiểu sao, ông còn mắc mưu mà phun rằng mình có hai trăm trong lưng.
Sau khi được vài câu hứa không lấy gì làm chắc chắn, Trung vái chào quan lui ra.
Ông căm hờn, lấy ngựa phi về.
Ông đắn đo, đành bỏ thêm trăm nữa để được việc, còn hơn mất toi món tiền.
Song, nếu có phải Liễu mới mất cho quan có hai trăm thực, thì là một điều may cho Trung. Ngài sẽ ngả về người có số ba trăm, và hai trăm của Liễu sẽ bị biệt tích. Với một trăm bạc nữa, Trung có thể vừa được việc, vừa cho Liễu một vố cay, thì tội gì không làm.
Tin Trung lên huyện và khấn ba trăm không giấu được Liễu quá sáu tiếng đồng hồ.
Khi có người báo đến tai Liễu, Liễu hoảng hồn nhờ Bút chạy vọt ra huyện và đưa vào túi quan thêm hai trăm nữa là bốn. Vì trước kia ông mới khấn có hai trăm.
Ấy thế mà ông Liễu vẫn lo ngay ngáy.
Ở trong làng, ông đã mua chuộc được lòng anh em rồi. Với số hai mươi nhăm đồng một phiếu mà ông cho rằng đối phương không thể theo, ông không được an tâm nữa. Ông lo cho quan. Quan này thế nào, đố ai dò được bụng. Ông ấy tử tế hẹn hò chắc chắn với bên này, nhưng ông ấy cũng tử tế hẹn hò chắc chắn với cả bên kia. Với những người ấy, lời hẹn hò không thành chắc chắn nữa. Cho nên dù thắng phiếu mười mươi, Liễu chưa dám quả quyết chức chánh hội về nổi tay mình. Ông huyện có thể nêu bên kia khấn nhiều hơn, dùng một tờ giấy, một câu bẩm bí, bảo ông là một tay ghê gớm để xí xóa cuộc bầu cử, hoặc bác chức chánh hội tình nghi đi. Liễu ngơm ngớp sợ mất tiền toi. Ông luôn luôn cho người về phe Túy để thám, và cắt người ngày đêm ở trên huyện, để thấy có gì khác là phải báo ngay.
Lối vận động ấy rất có ích. Vì nó đem lại cho Liễu sự đắc thắng.
Liễu được làm chánh hội, gần khắp mặt tộc bỏ phiếu cho. Có quan huyện về chứng kiến và ký tên vào biên bản.
Thế là tiếng pháo bắt đầu nổ. Lợn, bò chết. Và việc khao linh đình, cả làng được mời.
Nhưng Trung không thể chịu nổi sự nhục nhã.
Hút xong điếu sái bao, ông nằm ngửa, vắt chân chữ ngũ, lim dim mắt, cánh tay để lên trán.
Ông tiếc món tiền hơn bốn trăm, bỗng không bỏ ra cho Túy, một người quá bất lực. Ông thở dài và càu nhàu một mình. Ông tự tìm nguyên nhân sự thất bại, và kết luận phàm công việc gì cũng không nên cho đàn bà dây vào. Chính vợ ông đã mè nheo ông nhiều quá, từ khi bà biết ông định bỏ tiền ra đưa Túy ra tranh chánh hội. Thành thử muốn tránh ỉ eo, ông không dám bạo tay. Nếu không có sự cản trở của người đàn bà lắm điều, ông quyết vung tiền ra nữa để khấn quan, để mua phiếu và để thết đãi các bạn. Thì sao Túy đến nỗi thua!
Bây giờ, thấy tiền mất việc hỏng, vợ ông càng dày vò. Mà ông biết nói thế nào được. Ông bị đau đớn và xấu hổ, hai hôm nay không dám ra ngoài đường. Lắm lúc ông muốn đến chỗ bà con thân mật để than thở cho đỡ uất ức trong bụng, và tránh mặt vợ con. Nhưng khốn lắm, ông lại sợ làng nước chê cười. Cho nên, muốn giải buồn, ông đành dùng điếu thuốc sái, vì như ông quả quyết, nếu nghiện thì đã nghiện ngay ngày làng chữa đình rồi.
Bực cho Trung hơn nữa, là tiếng pháo nhà Liễu cứ vang khắp làng. Nó cứ đập vào màng tai, ông không muốn nghe cũng không thể được. Mà nhất là sáng nay khi đương ngủ say để quên việc đợi, ông bị con đánh thức. Nó đưa khẩu trầu, nói rằng của cô Liễu khao chánh hội, mời ông trưa mai đến ăn cỗ.
Ăn cỗ. Lúc ấy ông mới rõ "miếng thực là miếng nhục". Ông có thể đến chè chén phiện phò ở bất cứ nhà nào họ mời ông. Nhưng đám này thì các vàng ông cũng không thèm để chân tới. Đến để nghe người ta kháy, để trông thấy kẻ kia lên mặt, thì đến làm gì.
Bỗng Trung bừng mắt dậy, và quả quyết vùng một cái, ông nằm nghiêng, vớ lấy cái tiêm.
Ông chọc điếu sái, đúng vào hến và hơ lên đèn. Điếu thuốc sùi sùi nở to, phì những tia khói thơm tho, Trung giương to đôi mắt để nhìn, rồi vui vẻ quên bặt hết mọi sự.
Hút xong điếu thuốc, Trung nhỏm dậy, rút ấm nước chè hạt trong giỏ mây nóng hôi hổi, mút một hớp nhỏ, thở phì chỗ khói không nuốt hết, rồi vén đùi để gãi sồn sồn.
Bỗng ông lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp, được!
Rồi gọi:
- U nó có dưới nhà không?
Bà lý lững thững lên, ngồi ghé vào ghế ngựa, hỏi:
- Thầy nó bảo gì?
Trung ngồi dậy nói:
- Phải thế mới được u nó ạ.
Người đàn bà ngơ ngác, hằn học:
- Cái gì mà được với chẳng không!
Trung cười:
Ôn tồn mà nghe, tôi bảo, u nó ạ, những ai còn nợ u nó nhỉ?
Bà lý cau mặt:
Nợ thì làm gì, dễ thương thấy nó đi lấy về để tiêu chắc. Ông chánh hội trước nợ tôi hơn bốn trăm, có đòi thì đòi món ấy trước.
Trung cau có:
- Thôi, đừng nói lôi thôi nữa, tôi muốn bàn với u nó việc này.
- Bây giờ thầy nó mới bàn, sao trước chả thấy nói bàn.
- Không, tôi bàn là bàn việc thằng kia ăn khao ấy mà.
- Thì được làm chánh hội, người ta khao, việc gì đến mình.
Trung thấy vợ cứ đay nghiến hoài bèn ôn tồn:
- U nó bỏ cái giọng ấy đi. Việc gì vợ chồng có bàn bạc với nhau cũng có hơn.
- Thôi đừng tán.
Trung cười:
- Nó khao thì cứ khao, giá nó đừng mời mình, mình lại đỡ tức.
Bà lý gắt:
- Không mời mà được. Hèn ra cũng là lý trưởng đương thứ. Không thì đem tuần vào vây nhà bảo là tụ họp làm cộng sản chứ tha à?
Trung biểu đồng tình:
- U nó nói rất phải, nhưng thử nghĩ xem tôi có nên đi không?
- Mời thì đi, đi ăn cỗ chứ đi đâu mà phải đắn đo.
Trung mỉm cười:
- Như vậy rất đúng rồi. Song tôi nghĩ khác. Họ mời mà ta không thèm ăn, mới tỏ rằng ta hơn họ. Vả lại đến ăn như thế tức lắm.
- Tức là tại ai?
Trung nói xí xóa:
- Tại ai thì việc xong rồi, không nhắc lại nữa. Tôi muốn u nó giúp tôi việc này. U nó có biết bên ấy họ mổ hai bò bốn lợn để khao làng không.
- Sao?
- Mình nên nhân dịp này, giả thù ngay cho nó biết tay.
- Không đến thì thôi, chứ thù hằn gì?
Trung xếp chân bằng tròn, cười vui vẻ:
- Thế này nhé, mình làm cho họ ế cỗ. Nghĩa là mình bảo nhau đừng ai đi ăn.
- Bảo được người ta. Miếng ăn có phải chuyện đùa mà ngăn được.
- Sao không được. Làng này, nói cho đúng sự thực, có hai phe, phe nhà mình với phe nhà Liễu.
Bà lý buồn rầu:
Phe nhà mình mạnh hay yếu, nó rõ rệt ra đấy rồi.
- U nó nói đấy là những người đi bầu, nhưng tôi muốn kể những người có nợ. Làng này gần một nửa là nợ nhà Liễu, quá một nửa nợ nhà ta. Vậy bây giờ u nó đến từng nhà, bảo họ nếu đừng đi ăn cỗ, thì ta cho chịu lại một năm. Ai đi phải trả nợ ngay tức thì, ta không cho chịu nữa.
Bà lý ngẫm nghĩ, bỗng tươi tỉnh:
- Phải, thì ít ra quá nửa lợn bò bên kia phải vứt đi. Và rồi ta lấy việc ấy làm chứng cớ cho cái kiện sau này, để tỏ cho quan trên biết rằng nó làm chánh hội là vì tiền, chứ dân có ưng thuận đâu. U nó giúp tôi nhé.
- Tôi chỉ sợ không ai nghe. Người ta được mời, bỗng mình tước của người ta bữa ăn đi, như vậy phải tội chết. Đừng có là quan bắt.
- Không, u nó cứ đi. Quan hay tiền cũng mạnh ngang nhau. Mà tiền có khi mạnh hơn quan. Làm quan không có đồng tiền, sao được những nơi tốt. Vả quan định làm thế này, nhưng tiền định thế khác, quan phải nghe ngay. Cho nên việc này, quan bảo chưa chắc họ đã nghe bằng mình bảo, vì họ sợ mình đòi tiền.
Bà lý cười:
- Được, để tôi đi.
- Mà việc gấp lắm, chỉ trong nội ngày hôm nay, u nó nên bảo cho khắp. Cứ dọa diết rằng nếu họ không nghe mình, mình kiện lấy ruộng. Bò lợn rồi ế thiu, ế chảy, mát ruột quá.
Bà lý đắc chí, đứng dậy:
- Nào thì đi!
Bà giắt lại vành khăn, lấy miếng trầu bỏ mồm rồi tất tả ra cửa.
Trong làng Từ Lâm, không chỗ nào không bàn tán đến câu chuyện chôn thịt ôi. Người ta ăn đấy mà cũng cười ngay đấy. Người ta bảo ông chánh hội bị ông lý trưởng cho một miếng cay, và quyết phải chờ một dịp để trả thù lại, không kém phần sâu sắc.
Kệ các ông ấy hục hặc với nhau, chúng ta ở giữa được hưởng lợi cần gì.
Thế là người ta tướn đến nhà Liễu, xui ông kiện lý trưởng về tội ăn của nhà cu San ba hào.
Người tướn đến nhà Trung xui ông lên trình quan việc chánh hội giết thêm bò không xin phép. Đó là những tội mới sốt sột. Còn bao nhiêu tội cũ kỹ, từ năm nảo năm nào, người ta cũng bới móc ra để xúc xiểm cho ông nọ ghét thêm ông kia. Bà Liễu ngồi nhà nào cũng đem chuyện bà Trung ra kể. Bà Trung ngồi nhà nào cũng đem chuyện bà Liễu ra nói. Người nghe chẳng muốn mất lòng ai nên làm như mình về hùa, có mặt người nọ dèm pha người kia có mặt bên kia chì bửu người nọ.
Liễu đã có một chương trình phải tiến hành. Kiện lý trưởng, tất một ngày kia ông sẽ làm và đứng đầu đơn. Nhưng mới ra chánh hội, ông cần hãy gây vây cánh để lấy thế lực. Nên ông hãy tạm tha cho con người bậy bạ ấy. Nếu Trung không chừa thói lèm bèm, ông sẽ rình một tội to, rồi mới quật. Mà ông tin rằng, khi đã bị quật, Trung phải mất lý trưởng. Cũng như Trung tai hại về việc xui người ra tranh chánh hội với ông. Ông cho là Trung đương mất giá trị, thì nhân tiện ông phải gây thế lực. Khi ông đã đủ thế lực thì một Trung chứ mười Trung ông cũng không cần. Việc làng này sẽ không lọt nổi ra ngoài tay ông.
Bởi thế, Liễu càng phải đi lại với quan cho ra tư cách một vị chánh hội. Nghĩa là khi làm thư ký ông đi lại năm, thì bây giờ ông đi lại mười, mười lăm, ông tết nhất hậu hỹ hơn và cần bới tội con em có máu mặt để dắt mối lên cho quan. Như vậy tất quan quý ông hơn lý trưởng. Mà khi được lòng quan, ông sẽ kể xấu Trung cho Trung bị ghét. Đối với trong làng, những ông hay nói ngổ, bắng nhắng, ông chiêu đãi, thả tiền cho vay thêm. Ông xui họ giả nợ Trung để tăng số người chịu ơn mình.
Ba tháng đầu, bọn đàn anh trong làng, thấy ông không lèm bẻm như ông Tú, chỉ ăn những việc đáng ăn, và ăn nhân, ăn nghĩa, chứ không ăn bẩn, ăn thỉu như lý trưởng, thì cũng bằng lòng.
Một hôm, có người tây đoan về khám thuốc phiện lậu, và lại khám ngay nhà Trung, và đâu có tát Trung hai cái đau. Liễu sung sướng lắm.
Ông làm như chính mắt đã nom thấy việc lý trường bị nhục, nên ngồi đâu cũng kể rành mạch bằng lối văn tả chân để rêu rao, và ông cho là một dịp rất tốt để tiến hành khoản cuối cùng trong chương trình làm tiên chỉ để được biếu cả phần thủ lợn.
Liễu mời Bút đến, bàn:
- Nó bêu rếu làng như thế, mà giá tôi không được chánh hội, ắt cái thủ lợn biếu về tay nó rồi.
Bút thở dài, lắc đầu:
- Thì biết làm thế nào?
- Tôi tưởng bây giờ ta nên định địa vị cho người nào là nhất làng. Quan trên cứ tưởng lý trưởng thay mặt dân, thì là người đứng đầu làng, nhưng sự thực nào có phải thế. Hắn đứng đầu sao được ông, được tôi, có phải không?
- Phải, tôi tức lắm.
- Trước kia, khi hắn họp bầu tiên chỉ, tôi chót nghĩ lầm, là thời buổi văn minh, nên bỏ chức ấy đi. Sự thực ngày ấy, nếu tôi không cố phá, hắn đã được tiên chỉ và bây giờ chúng ta thấy ông tiên chỉ làm Từ Lâm chúng ta bị Tây nó cho hai cái tát.
Bút gật gù:
- Tôi hiểu ý ông lắm! Ngày ấy chẳng qua ông phá, nhưng chẳng phải phá chức tiên chỉ, mà phá người ra làm tiên chỉ.
Liễu nắm lấy tay bạn cười ha hả:
- Thế thì tri kỷ lắm. Vậy bây giờ ông nghĩ thế nào?
- Ta lại bầu tiên chỉ, khó gì.
- Nhưng tôi nói ra không tiện.
Bút trỏ vào ngực:
- Để tôi nói, cần gì.
Liễu lại nắm tay bạn, hồi hộp:
- Thật nhé.
- Thật, chứ tôi cần gì. Hễ nó dòm, tôi bảo thẳng ngay vào mặt nó rằng ngày trước, nhiều người phá - chứ tôi không nói ông - là muốn không có kẻ không xứng đáng đứng đầu dân, chứ chức tiên chỉ bao giờ làng cũng phải có.
- Phải, thế thì tốt lắm. Ông ở đây xơi rượu với tôi nhé. Dứt lời, không chờ cho bạn nhận, Liễu sai người nhà mổ gà mua rượu ngon để làm cơm, rồi ông tiếp:
- Chứ tôi nói ra không tiện, ông ạ.
- Sợ nó rõ rệt quá, rõ rệt là ông muốn vơ vào cho ông. Ông ra làm chánh hội, cũng có ý để ra tiên chỉ cho dễ, tôi hiểu lắm.
Liễu trợn mắt:
- Thế à? Ông cũng biết à?
- Sao lại không. Cánh mình với nhau, hở ra một tí thì phải hiểu chứ.
Liệu cảm động:
- Chả nói giấu gì ông, tôi mất tiền phen này, cũng là vì làng. Làng có tiên chỉ xứng đáng, ắt là làng có giá trị.
- Ồ, chúng tôi rõ cả, chứ làm chánh hội thì lợi lộc gì. Chúng tôi vẫn phục ông chỗ ấy.
Liễu càng cảm động:
- Một nước phải có vua, một tỉnh một huyện phải có quan, thì một làng phải có tiên chỉ. Đến như nước Tây bỏ vua, người ta lập tức phải đặt ngay đến bốn ông giám quốc với một ông đốc tờ mới cai trị nổi nước Nam mình đấy chứ.
- Phải, ông giám quốc sao to được bằng ông vua, cho nên nếu Tây chỉ có một ông giám quốc, sao vua mình nghe.
Thấy câu chuyện lạc ra ngoài thế giới, Liệu vội kéo lại đầu đề:
- Thế bao giờ ông đem việc tiên chỉ ra họp?
- Bao giờ không được. Mai, ngày kia, họp lúc nào xong ngay bấy giờ.
- Nhưng tôi tưởng ta nên nói trước với từng người, để hôm ra đình ta sẵn có vây cánh. Vì ngộ có ông nào phản đối chăng.
Bút gật:
- Có lẽ thế.
- Thế tôi nhờ ông việc ấy nhé.
- Ồ, ông chả bảo, việc đáng làm tôi cũng làm.
- Tôi sợ bên kia viện lời tôi độ nọ mà phá chăng. Hay hôm họp, tôi lánh mặt.
- Tùy ông, đánh mặt cũng hay, nhưng có mặt chả hại gì. Tôi đứng lên hỏi, các ông khác hưởng ứng. Bất quá phản đối, chỉ có một lý Trung thôi chứ gì.
Bút lắc đầu:
- Chức tiên chỉ là do tục lệ trong làng đặt ra, chứ quan không có phép bắt dân. Chắc quan chả sức.
Liễu ghé tai bạn, thầm thì:
- Quan nào chứ quan này, tôi bảo gì không được. Miễn là tiền cho nhiều. Muốn tránh sức bằng giấy, ông ấy có thể về làng bảo dân bằng lời nói.
Bút khuyên:
Nhưng cùng lắm hãy nhờ đến quan, chứ tôi tin ở cái tài sắp xếp việc của tôi lắm. Mà ông phải biết, ông có khao tiên chỉ, không ai cổ động tẩy chay nổi đâu. Vì đã có tôi.
Liễu sung sướng sai người mua thuốc phiện, mượn bàn đèn để đốt vài điếu hút chơi vui.
Việc vận động tiên chỉ không thành. Mà đau đớn cho Liễu hơn nữa, là Trung được quan phụ mẫu làm ơn cho một việc tày đình, có lẽ vì ngài nghĩ đến món tiền ba trăm, nên xui Trung xin phẩm hàm. Vì Trung làm lý trưởng được sáu năm, lại được tư tốt, và còn vận động thêm hai năm nữa, nên được hàm cửu phẩm bá hộ.
Sở dĩ Trung cố lấy cái phẩm hàm, là do ông muốn đánh quỵ hẳn Liễu. Liễu vẫn khỏe hơn Trung, vin lẽ mình làm chánh hội, lại có chân nhị trường. Thì bây giờ Trung làm lý trưởng lại được thưởng cửu phẩm bá hộ. Chứ lép! Trung lại tiếc trước kia chót phá không cho Liễu ra tiên chỉ. Giá cứ để như vậy, hẳn bây giờ Liễu chưa được hưởng lợi lộc gì đã phải nhường cho người có chức sắc.
Cố nhiên, làng Từ Lâm sẽ thấy một cuộc ăn khao lớn.
Bà bá mấy hôm nay, về tận Hà Nội để sắm các thứ đồ nấu. Bà thuê hai người nấu bếp cao lâu khách. Bà mượn mâm, nồi, bát đĩa thực nhiều. Bà nhờ người đi mặc cả bò lợn.
Trong nhà Trung, kẻ ra người vào tấp nập. Tuần phiên bỏ việc canh phòng để đến làm giúp. Một tốp chẻ lạt, chặt rong, rào lại những chỗ dầu hở, để ngăn kẻ gian đỡ nhân nhà ồ ạt, tải chuyền vật lấy cắp ra ngoài. Một tốp vác tre ngâm, đưa đục để làm rạp lớn lợp lá. Ngoài ngõ, khán thủ đứng đôn đốc người làm cái cổng kết lá dừa, cái lá nhãn, hoa đơn và hoa dâm bụt đỏ ối.
Trung mua rất nhiều rượu và thuốc phiện. Ông sai gọi cô đầu tỉnh về, vì ông mời cả quan nha.
Ông định khao cả thảy năm hôm.
Hôm đầu là tiệc thết quan tri, quan trợ, các ông giáo, các ông thừa, ông lục, ông ký rượu, vài ông buôn to ở huyện, các ông chánh phó đội lệ, ông quản đồn.
Hôm thứ nhì, ông mời các chánh phó tổng trong huyện và các vị huynh thứ hàng tổng.
Hôm thứ ba ông thết làng.
Hôm thứ tư ông khao họ.
Hôm thứ năm, ông ăn riêng với những người thân.
Như vậy, ông cố ý để cho nhiều người nhận được đến ba bốn khẩu trầu mời đi ăn cả ba bốn bữa.
Hôm mồng năm là ngày tốt, bá Trung lên huyện lĩnh sắc về.
Một cuộc rước linh đình. Đi đầu mười lá cờ, rồi đến trống cái. Phường bát âm nổi lên những đoạn trong bài Lưu thủy mà họ thuộc lõm bõm. Chiếc bàn độc có lọng che, bốn người khênh, đi thong thả, rước bộ ngũ sự đồng, khói trầm nghi ngút. Bọn tuần, áo nỉ đỏ, cầm tay thước, và thổi ốc. Khán thủ mặc áo the chùng, quấn thắt lưng đỏ, đi giật lùi điểm từng tiếng trống khẩu. Thế là đến long đình trong đặt hai cây nến, lư trầm và hòm sắc. Chiếc long đình cao lênh khênh, có đôi tàn vàng đi kèm.
Bá Trung khăn mới, quần áo mới, giầy mới, bít tết mới, áo thụng lam mới, đầu mới cạo, râu mới sửa, ngồi chắp tay nghiêm chỉnh trên chiếc xe cao su, mà phu xe cũng mặc áo the chung. Theo sau, phó hội Quang, xã Túy,.v.v. mặc áo thụng của làng, chắp tay đi lộn xộn. Cuối cùng là bọn người tò mò đi xem.
Đám rước tiến rất chậm chạp. Mãi tận quá trưa mới về tới nhà. Một tràng pháo dài bắt đầu nổ. Quang phụng sắc ra giữa sân, bày trên chiếc bàn đã kê sẵn quay về phía nam. Ông Bá mới lạy tạ hòm sắc năm lạy. Tiếng pháo lại nổ. Trung đứng chắp tay cảnh lư trầm khói lên nghi ngút, đưa mắt nhìn quanh.
Ông hãnh diện quá, chỉ thấy lỗ nhố, chứ không nhận rõ những ai.
Một lát lâu, khi hết tuần hương, ông rước hòm sắc để trên bàn thờ giữa nhà, mà ông bắt người giữ hương đến đủ trong năm hôm, thì một công việc quan trọng không kém đã đợi ông rồi. Ông phải ra đình tạ thần.
Con lợn luộc và mâm xôi vuông đã bày trên hai chiếc bàn độc, tám người khênh lên vai. Hai chiếc lọng xanh giương xòe ra, tiếng kiểng điểm đều đều. Trung vẫn áo thụng, từng bước một, đi theo lễ vật.
Trong đình, ông từ đã đèn hương sẵn sàng. Ông bá dâng đổ lễ, sai đổi chiếc chiếu trắng lấy chiếc chiếu hoa cạp đỏ mới sắm, rồi cung kính từ từ lễ bốn lễ.
Kính thần xong, ông cứ để nguyên áo thụng cứ thế đi đường về nhà. Ông cần hỏi han xem công việc xếp đặt đã đâu vào đấy chưa. Ông mệt lắm. Xong nào được nghỉ. Ông còn phải bận. Bận nhừ người.
Bây giờ ông phải đi đón quan. Bà bá thấy ông rối rít, khuyên ông điểm tâm bằng nắm xôi, nhưng ông gắt mù.
Tuy vậy bà chỉ cười và phàn nàn:
- Thầy nó chờ quan về mới ăn thì đói chết.
Rồi bà tươi tỉnh ngay, và nói:
- Mấy lại một đời mới có một lần, được bận. Chán người mong bận như thầy nó không được.
Bà tủm tỉm cười, nghĩ đến chánh hội Liễu. Hẳn ông này đứt từng khúc ruột. Nhất là tiệc khao này, lại to gấp hai tiệc khao chánh hội ngày trước. Nào, thử xem ai đối với làng hậu hĩ hơn.
Liễu quả đứt từng khúc ruột. Hôm mới nghe tin Trung được phẩm hàm, ông tưởng nằm mơ. Rồi khi biết là chuyện thật, ông lại mong nó chỉ là chuyện mộng, nhưng tới khi kẻ thù ông rục rịch khao vọng, ông mới đau đớn làm sao. Một đêm vì bực mình, ông đã gây gây rét. Nhưng may quá, ông khỏi ngay, và từ đó, ông gắt gỏng luôn mồm.
Khi nằm bẹp trong buồng, ông thường rên bằng những tiếng kinh rợn, và lẩm bẩm: - Ông lý bá! Cụ lý bá! Tôi chết mất!
Rồi vùng dậy, ông ngồi bó giò, ho sù sụ. Ông đã nghĩ ra cách trả thù. Kẻ kia cổ động tẩy chay bữa tiệc khao của ông, bây giờ ông cũng tẩy chay trả.
Ông bèn cho mời Bút lại nói bằng giọng run rẩy:
- Bác có giúp tôi, không tôi chết mất.
Bút thương hại đáp:
- Xin bác cứ bảo, chỗ anh em thân, tôi quản ngại gì đâu.
- Bèn lý Trung mời làng, nhưng mà, bác ạ, danh giá gì cái cửu phẩm bá hộ chứ!
- Phải, chữ nghĩa đâu mà được văn giai.
- Cho nên tôi quyết không thèm đi và muốn rỉ cánh ta cùng mặc kệ nó.
- Nghĩa là bác tẩy chay lại nó chứ gì.
- Phải, chính vậy, không tẩy chay nổi lại, tôi uất lên mà chết mất.
Phó hội thở dài, lắc đầu:
- Khó lắm, xưa kia lý Trung bảo được làng là do nhiều người nợ hắn. Còn như bác, chẳng qua chỉ được lòng người vì cảm tình chứ làm gì có thế lực như hắn. Miếng ăn là miếng trọng, tôi sợ họ chả nghe.
Liễu nằm lả xuống, rên hừ hừ:
- Thế thì nhục tôi quá! Nhưng bác ạ, làng nợ tôi, bây giờ cũng nhiều rồi.
Bút ái ngại, im lặng. Một lát Liễu vùng dậy quả quyết nói:
- Mất bao nhiêu tôi cũng không ngại. Đành rằng tôi đi ăn mày phen này, chứ tôi không chịu. Bác giúp tôi một tay.
- Giúp thế nào bây giờ?
- Nhờ bác báo với cánh ta đi khắp làng nói hộ rằng hễ ai không đi ăn cỗ nhà lý Trung, đến kỳ thuế này, tôi biếu không suất sưu.
Bút trố mắt nhìn:
- Thật à?
- Sao lại không thật, đành tôi mất mấy trăm đồng bạc mà trả được thù. Ngày hôm ấy, ai ở nhà, tôi xin chiếu sổ thuế, biếu tiền ngay vào lúc chập tối.
- Sợ họ không tin chúng tôi.
- Để tôi cho nhà tôi đi với các bác. Gớm mới được cái cửu phẩm bá hộ thôi mà ăn khao to như người ta đi tri huyện. Không sợ làng nước chửi cho. Bác nên biết là cánh ta cũng nên nói cho nhiều người biết rằng cái cửu phẩm bá hộ là Nhà nước chỉ để cho những hạng dốt nát. Rồi để hôm hắn mời tôi lần nữa tôi sẽ viết giấy kiểu, và viết toàn bằng chữ nho.
Bút cười rũ rượi:
- Thế là bác chửi chữ hắn và chửi cả cái bá hộ của hắn.
Cuộc cổ động, hay nói cho đúng, cuộc thuê tiền tẩy chay, có kết quả mĩ mãn.
Hôm Trung mời làng, thì mổ một bò và hai lợn. Mỗi mâm có kèm năm hến thuốc phiện. Nhưng chỉ đắt có năm mâm. Trung cuống queo, thúc người đi mời, nhưng ai cũng từ chối, người bảo đi vắng, người thác đau bụng. Những người thân với Liễu thì phản đối ra mặt, họ nhắn:
- Nếu ông bá hộ đọc hiểu thư ông chánh hội thì chúng tôi xin đến ăn ngay!
Một buổi sáng, Minh, người đầy tớ Liễu mở dõi chuồng trâu định cho trâu ra đồng thì thình lình anh thấy người thắt cổ lủng lẳng trên cây khế cạnh hàng rào. Anh rú lên một tiếng suýt ngã ngửa. Anh nhắm mắt, hai tay ôm lấy đầu chạy một mạch về đến giữa sân vừa thở vừa kêu ầm ĩ:
- Ông chánh ơi! Có người thắt cổ.
Người nhà đổ cả ra sân. Liễu mắt nhắm mắt mở ở trong buồng cuống quýt chạy ra, chân không kịp xỏ vào guốc.
- Đâu, đâu?
Minh trỏ mé cây khế:
- Đấy!
Liễu tái mét, run như cầy sấy, lò dò đi sau bọn người nhà. Đến gần chuồng trâu, ông đứng dừng lại. Ông đã trông thấy cái nợ ấy bu lu ở góc vườn, thẳng ườn như cây gỗ, thân thể xám ngoét.
Liễu cố giữ can đảm, miệng lẩm bẩm khấn vong linh người chết, tiến đến gần, rồi cau mặt, nói:
- Quái, ai chứ không phải người làng.
Ông sai người trèo lên cây xoan để nhìn cho rõ mặt. Minh bàn nên chặt dây ngay may cứu được một mạng nhưng ai nấy sợ hãi. Bỗng Minh nói:
- Thằng Cáy đấy mà!
Thằng Cáy vốn là đứa ăn xin, mọi khi vẫn ngủ nhờ ở cầu chợ làng. Thấy nó mang tai vạ đến mình, Liễu nghiến răng:
- Quái, thằng lạ thật.
Rồi một mặt, ông cho đi trình quan, một mặt ông cho mời lý trưởng đến lập biên bản. Sự báo lý trưởng là một việc bất đắc dĩ, song không thể đừng được.
Tin dữ dội chẳng bao lâu đồn lan đi khắp làng. Người ta rủ nhau đi xem. Người quen, vào hẳn nhà Liễu. Người không quen, đứng cạnh hàng rào dâm bụt bên láng giềng, hoặc nghểnh cổ ở đường dòm vào. Họ bàn tán, mỗi người một câu, khiến Liễu ruột rối như mớ bòng bong.
- Quái, nó vào lối nào nhỉ?
- Sao đũng quần nó bê bết thế kia.
Bỗng có tin lý trưởng lên huyện từ sớm. Liễu đâm nghi liền. Ông đứng lặng nhìn thây thằng Cáy và lắng tai lượm những lời xôn xao của mọi người:
- Lúc đêm, tôi thấy nó nằm gục ở cổng đồng kia mà.
- Người chết về thắt cổ thì hai bàn chân buông thõng xuôi, chứ sao lại ngang thế kia nhỉ?
Lập tức, Liễu gọi Minh, rỉ tai dặn:
- Mày ra cổng đồng, tìm kỹ xem còn bị gậy của thằng Cáy ở đấy không nhé.
Bỗng có tiếng còi ô tô inh ỏi ở phía đầu làng. Người ta biết ngay là xe quan. Mọi người chạy ồ ạt, hoặc kiếm một chỗ kín để nhìn. Liễu vội vã về rửa mặt mũi, lấy khăn áo.
Độ năm phút thì quan đến, theo sau là lục sự và người lính cơ. Trông thấy Liễu ngài không vui vẻ như mọi bận. Ngài hỏi ngay:
- Có đứa thắt cổ ở nhà thầy, tử thi còn đó, hay thầy đem chôn rồi? Đó là một việc bức tử.
Liễu run sợ:
Lạy quan lớn, nó là đứa ăn mày, xưa nay vẫn quanh quất vùng này. Chắc nó bị bệnh chứ không phải bức tử.
Quan nghiêm mặt:
- Thầy đừng giấu tôi. Tôi biết cả.
- Bẩm quan lớn thương cho. Tên này là ăn mày, vậy với con, có điều gì.
Quan cười:
- Biết đâu, thầy không đánh đập nó.
Quan sai người tuần tên là La trèo lên cây, cởi dây, rồi đặt thằng Cáy nằm thẳng cẳng dưới đất. Còn ngài tránh ra tận đằng xa, châm thuốc lá hút và nhổ phì phì. La cởi quần áo người chết để lục sự khám và biên.
Lúc ấy, Minh kéo áo Liễu, nói nhỏ:
- Ở đấy, còn cái bị, cái gậy, và cái nón.
Liễu gật đầu, mừng rỡ, trình với ông huyện:
Bẩm việc này con nghi có kẻ thù hằn định gieo tai vạ cho con.
Quan cau mặt để nghe, Liễu tiếp:
- Bẩm, nguyên nhà con, hàng rào thì kín, chó thì nhiều, tên Cáy không thể dễ dàng lọt vào được. Và xưa nay những người chết vì thắt cổ, thì hai chân phải thõng xuống, chứ không ngang thế này. Vậy tất có người buộc người chết sẵn lên cây để báo thù con.
Lục sự bẩm:
- Mà cổ không có vết máu đọng ở chỗ thừng thắt.
Quan cau mặt:
- Thầy biết đâu!
Liễu lại thưa:
- Ban nãy, con thấy có người nói đêm qua thằng này gục ở cổng đồng làng, con nghi là nó chết ở đấy. Con vừa cho người đến đó, thì quả còn thấy nón và bị gậy của nó.
- Thế ngộ chính thầy vừa cho người vứt những thứ ấy ra đấy thì sao.
Liễu luống cuống đáp:
- Bẩm, con xin gọi người vừa gặp nó đêm qua ra đây làm chứng.
- Ừ, gọi ra đây.
Liễu nhìn xung quanh, nhưng quên không biết ai nói ban nãy, bèn gọi to:
- Ai gặp thằng Cáy đêm qua, ra trình quan hộ tôi.
Mọi người nhìn nhau, lùi dần, có tiếng nói:
- Có ai gặp đâu.
Quan cười, nhìn Liễu, gật đầu ba bốn cái, Liễu xám mặt, ấp úng thưa:
- Bẩm, thằng này chẳng qua chết về bệnh, quần nó là một chứng cớ. Xin rước quan lớn lại gần mà coi.
Đàn nhặng xanh bay vo ve, chờn vờn cái xác chết. Quan thấy tởm không lại.
Độ nửa giờ, lục sự khám biên xong. Liễu mời quan nha vào trong nhà cho mát để làm việc.
Quan ngồi sập giữa, lục sự loay hoay viết ở bàn bên. Thấy Liễu đứng nhìn cạnh, ông này tiện bút viết lên giấy thấm chữ "ngũ bách" rồi bấm Liễu một cái.
Liễu tái người, không nói gì, bỗng quan nói:
- Thầy lục chỉ nên ghi những cái khám thấy ra giấy, còn việc mai táng còn để chờ quan đốc tờ, nghe chưa?
Liễu nằn nì:
- Lạy quan lớn, thương chúng con, không có vết thương nào thì xin quan lớn cho mai táng, chứ nay là thứ bẩy, mai quan đốc tờ nghỉ, thì mãi đến ngày kia, ngài mới làm việc.
- Ồ, thì phải đợi chứ sao.
Liễu thở dài, gãi tai, đến gần:
- Lạy quan lớn, quan thương cho, chúng con xin hậu tạ.
Quan xua tay:
- Ồ, thôi, việc gì chứ việc này thì bố tôi cũng không dám cho chôn. Biết đâu nó không bị đá dập lá lách, đứt mạch máu.
- Lạy quan lớn, chúng con xưa nay vẫn là thần tử quan lớn.
- Đành rằng vậy, nhưng thầy làm bậy thì tôi biết gỡ thế nào.
Lục sự đang viết vội kéo vạt áo Liễu lại viết lên giấy thấm chữ "ngũ bách" lần nữa. Liễu thở dài không đáp, và khi thấy lục sự liếc mắt nhìn mình, Liễu khẽ hất hàm thì trên tờ giấy thấm lại hiện lên hai chữ "Bá Trung". Thế là Liễu hiểu hết cả.
Tự nhiên môi ông tái nhợt, ông run bắn người lên, đến nỗi khi xong biên bản, ông cứ ký bừa chứ không đọc gì cả.
Ô tô ông huyện vừa ra khỏi đầu làng, thì Liễu cũng đi liền. Ông phải cố khấn quan cho phép mai táng tử thi để khỏi chờ đợi, nhân tiện xem ý ngài ra sao. Để một người lạ chết trong nhà, là một việc chẳng hay, và rồi nó trương, nó thối ra nữa chứ.
Đi đường Liễu nghĩ đến cách trả thù cay độc của Trung mà căm hờn. Đích là kẻ kia mang xác thẳng ăn mày chết đường, treo vào cây khế, rồi vu vạ. Ông nghiến răng, nắm tay, nguyền rủa thằng vô học nó chực trả thù mình tai hại.
Đến huyện, Liễu chờ tan hầu rồi mới vào quan. Ông lục sự đã nói rõ đầu đuôi câu chuyện cho ông biết. Thì ông đoán chẳng sai chút nào: Chính tên Trung lên báo quan từ sáu giờ sáng.
Quan phụ mẫu thấy Liễu vào thì mỉm cười. Đó là một điều Liễu chẳng ngờ. Ông cứ tưởng quan sẽ nổi giận lôi đình, đập bàn rầm rầm. Vậy chắc ngài đã biết Liễu vô tội thực.
Liễu cố lấy nét mặt đau thương, khoanh tay bẩm:
- Lạy quan lớn, con sợ phép quan lớn, nên đem đầu đến kêu quan lớn. Quả là anh lý chúng con thù con.
Quan gật đầu:
- Tôi hiểu hết. Thầy mắc tiếng oan. Nhưng sao thầy lại ký vào biên bản.
Liễu rủn người, kêu:
- Bẩm con sợ phép quan lớn, thì con ký, vì con chắc quan lớn cứu con ngay.
- Phải, ban nãy tôi phải ra dáng công bình để thẳng tay với thầy, vì trước mặt người nọ người kia. Chả lẽ tôi làm thế nào.
- Bẩm thật tên Cáy là một đứa ăn mày, nó đã chết ở đâu đấy, rồi anh lý chúng con khênh treo vào nhà con.
- Tôi thấy cổ nó không có vết máu đọng, với bàn chân nó cứng ngay tôi cũng không tin. Từng ấy chứng cớ đủ minh oan cho thầy rồi. Nhưng thầy có nghe rõ đấy, những điều quan hệ ấy, thầy lục sự lại không chữa vào biên bản, chỉ nói là cái chết khả nghi, nên xin quan đốc tờ tỉnh về khám nghiệm mới cho mai táng.
Liễu nhăn nhó:
- Bẩm quan lớn, cái chết ấy thường hay bất thường quan lớn đã minh xét, vậy xin quan lớn cứ cho phép chúng con được chôn, con xin hậu tạ quan lớn.
Quan cười:
- Xưa nay thầy đi lại với tôi như thế nào, tôi đã biết. Tôi cũng nể thầy lắm. Nhưng thầy chót ký vào biên bản rồi mà.
- Lạy quan lớn thương cho, quan lớn làm biên bản khác.
- Ồ, bút sa gà chết. Ai bảo thầy dại lại ký vào. Việc này còn lôi thôi to, rồi mất đến bạc nghìn còn chưa chắc đã tránh được tù tội.
Liễu sợ hãi nằn nì:
- Lạy quan lớn cứu con. Con không bao giờ dám quên ơn quan lớn.
Quan gãi cằm, ra ý nghĩ ngợi, rồi nói một mình:
- Mà cố nhiên lại mất cả chánh hội nữa.
Nghĩ đến chức tiên chỉ, Liễu xanh mắt lại, gãi tai:
- Bẩm con đem đầu đến kêu quan lớn, xin quan lớn cứu cho.
Quan lắc đầu chán nản:
- Khó lắm!
- Quan lớn cứu con, rồi quan lớn dạy thế nào con xin tuân lệnh.
Quan thở dài nhìn Liễu bằng đôi mắt hiền hậu:
- Tôi muốn làm ơn cho thầy lắm, nhưng tôi sợ cho tôi kia.
- Bẩm quan lớn thay biên bản đi là xong.
- Đành vậy, nhưng còn thầy lục.
- Bẩm thầy lục cũng là tôi con quan lớn, quan lớn bảo gì chả được, vả lại thầy lục với con cũng là chỗ đi lại chơi bời. Bẩm quan lớn, cải tử hoàn sinh cho con, con xin hậu tạ.
Quan đăm đăm nhìn Liễu, hỏi:
- Thầy định tạ tôi bao nhiêu? Có được một nghìn không?
- Lạy quan lớn, con xin như cái số thầy lục bảo con ban sáng.
- Năm trăm ấy à?
- Dạ.
- Ồ, năm trăm thì rẻ quá. Phải, tôi có dặn thầy lục bảo thầy có năm trăm thì tôi gỡ tội cho. Nhưng đó là tôi chưa biết việc này nó quan trọng dường này. Bây giờ tình thế xoay khác, đây, tôi nói cho thầy nghe nhé. Rồi tất thầy phải ra tòa, mà ra tòa, thì thế nào thầy cũng bị. Chạy chọt giỏi lắm, ít ra là ba tháng tù. Bởi vì quan tòa nào gỡ được tội giết người. Mà đã tù thì suốt đời không làm được việc gì với dân với làng nữa. Cho nên thầy định khấn tôi năm trăm thế nào được, bởi vì nếu cứ để mặc kệ thầy, ít ra thầy cũng phải mất hàng nghìn.
Rồi thấy lời dọa dẫm có công hiệu, ông huyện lại nói:
- An Nam mình vẫn có thói thế, lúc mới sổ mũi nhức đầu thì không chịu chữa chạy ngay, cứ để đến lúc phát bệnh nặng ra mới nháo nhào lên về thuốc thì lại tai hại bằng bốn.
Liễu nghĩ ngợi một lát, bẩm:
- Lạy quan lớn, nhưng rồi quan đốc tờ khám cũng rõ tử thi chết vì cách gì.
Quan cười:
- Đợi đến thứ hai thì nó rữa mẹ nó đi rồi, cái chân long ra, da dẻ xám đen lại, chứ còn rõ rệt như hôm nay đấy hẳn. Vả lại thầy tưởng để người chết trong nhà là một việc hay hay sao.
Liễu lại nhăn nhó:
- Lạy quan lớn thương cho, từ đầu năm đến giờ, con phải tiêu nhiều khoản tốn quá.
Ông huyện cười khẩy:
- Thầy tiêu tốn là tốn cho thầy, chứ tôi được nhiều đếch gì. Bất quá thầy cho tôi mấy trăm, cũng là công tôi tác thành cho thầy.
Liễu lim dim, chắc để suy xét, đoạn nói:
- Bẩm cái số ngũ bách mà thầy lục bảo con, con cũng không có sẵn, rồi con phải bán ruộng đi mới đủ số. Nếu con khai man cửa quan lớn, xin giời chu đất diệt con.
Quan mỉm cười:
- Thầy nói thế, tôi cũng thương hại, vậy tôi rút xuống cho thầy tám trăm.
- Lạy quan lớn thương cho.
Quan đổi ra giọng sẵng:
- Không thì thôi, thì tù. Người ta thương lại không biết điều.
Liễu sợ hãi, yên lặng một lát, rồi thưa:
- Lạy quan lớn, con xin khấn quan lớn thêm một bách nữa.
Quan gắt:
- Không thì thôi, cút.
Liễu không biết nói thế nào được, thở dài, rồi một lát, bỗng vái một cái và chán nản nói:
- Quan lớn không thương con biết kêu thế nào.
Quan phụ mẫu thấy sự mặc cả găng quá, không thể đòi hơn được, bèn dịu lời:
- Này, thế thầy không thể lo thêm được à?
- Lạy quan lớn thế là quá sức con rồi, nếu quan lớn không thương con thì con đành.
Quan cau mặt:
- Thôi được, ở đấy.
Thực là một cuộc mua bán ráo riết. Câu nói ấy nhắc ta nhớ đến một anh phu xe gọi khách, khi đã hết sức cò kè bớt một thêm hai.
Việc gỡ tội rất dung dị. Quan gọi lục sự bảo làm biên bản khác để Liễu ký nhận, rồi nói với Liễu:
- Cũng may là lý trưởng nó chưa áp triện vào biên bản cũ. Nhớ công thầy lục nhé. Thế bây giờ thầy có thể mai táng tử thi được rồi.
Liễu vui sướng, nảy ra một nụ cười:
- Dạ.
Rồi tươi tỉnh Liễu chào quan đi về. Song quan nhìn Liễu, có ý thương hại, hỏi:
- À, thầy chánh hội. Thế thầy chịu cho lý trưởng nó vu oan à?
- Lạy quan lớn, trăm sự nhờ quan lớn, quan lớn dạy sao, con xin tuân.
Quan trợn mắt:
- Kiện nó sặc gạch ra! Cho nó mất lý trưởng chứ. Để nó cứ bới việc vu tội cho kẻ lương thiện hay sao?
- Dạ.
- Nó trình là có đứa bị bức tử ở nhà thầy, thầy không kiện về tội vu khống được à? Cho nó chừa thói ấy đi chứ. Cứ để vậy, ngộ nay mai nó bỏ giấy cho thầy làm cộng sản, thầy cũng chịu à?
- Lạy quan lớn, công việc thế nào, xin quan lớn chỉ bảo cho.
Quan gật đầu:
- Được, hãy cứ chôn cất thằng ăn xin đi cho xong, mai lên đây tôi bảo.
Trung hết sức ngạc nhiên và bực mình vì La đến nhà ông, trợn mắt trợn mũi, mách:
- Ông chánh hội đã được phép mai táng thằng Cáy.
Song Trung cũng lấy làm mát ruột rồi. Việc tuy không có kết quả như ý muốn, nghĩa là kẻ thù không bị tù tội nhưng chắc đã phải lạy lục mất khá của. Ông gật gù, nói một mình:
- Thử xem thằng bá hộ dốt nát có làm nổi mày thất điên bát đảo không nào.
Nhưng ba hôm sau, một người lính huyện về nhà Trung, bảo quan nhắn phải lên huyện ngay có việc.
Trung hút vội vàng vài điếu thuốc phiện mà ông nói với vợ rằng cho thêm sức khỏe rồi thắng ngựa đi.
Ông vui vẻ lắm, nên khi tới huyện, ông buộc ngựa ở gốc cây, rồi vào tuột công đường.
Bất đồ ông bị mắng một trận kịch liệt:
- Ra thầy nói dối tôi. Thầy vu oan giá họa cho chánh hội, đến nỗi suýt tôi làm tội một người ngay. Đây, chánh hội kiện thầy đây, tôi biết bênh thầy thế nào được. Thật làm đầy tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại.
Trung khoanh tay, run như cầy sấy, ấp úng nói:
- Lạy quan lớn...
- Nếu tôi để yên cho thầy cái tính này, rồi mai thầy xoay cả tôi.
Trung thụp xuống đất lạy hai lạy, và nhăn nhó như mếu:
- Lạy quan lớn, chúng con nào dám nghĩ thế.
- Đây, chánh hội kiện thầy vu khống cho hắn, lại kể bao nhiêu tội tham tang của thầy có chứng cớ hẳn hoi.
- Bẩm quan lớn thương cho, trước khi làm con cũng có trình với quan lớn, sự thực là thế.
- Biết rồi, nhưng nay nó kiện, thầy bảo tôi gỡ cho thầy thế nào.
Rồi quan nhăn mặt, gãi tai:
- Việc khó khăn quá.
- Lạy quan lớn, quan lớn bảo chánh hội rút đơn ra.
- Nhưng mắc cái tôi đã chót chấp đơn và nhận lời xét. Vả lại hôm ấy có cả quan phán tỉnh. Thành thử không tài nào tôi dìm đi được. Cho nên tôi biết thiên vị về ai. Thôi được, tôi tự lên tòa án tỉnh. Mặc các quan trên ấy với hai thầy.
Lý trưởng sợ hãi, chưa kịp đáp, thì ông huyện lại dọa:
- Thế mà quan trọng đấy. Tôi rất lo cho cái lý trưởng của thầy. Một người có án, dù án treo, cũng không được làm việc gì nữa. Mà mất lý trưởng thì bị tiêu thu cả bằng sắc.
Trung như nhìn thấy cái thủ lợn làng biếu nó chạy tọt vào nhà Liễu. Ông thở dài. Vốn chậm trí khôn, ông lại lo lắng quá sinh ra quẫn, nên không biết nói đến nơi ý mình cho quan nghe. Bởi vậy quan phải hỏi thẳng:
- Giả sử việc này chỉ có tôi với chánh hội biết thì thôi tôi cũng thu xếp cho yên. Song chẳng may cho thầy có quan phán tỉnh cũng biết, nên khó. Nếu ý thầy muốn dàn xếp cho bên nguyên rút đơn ra, thầy nên chịu khó kiếm cân chè về nói với thầy chánh hội một tiếng.
Sự giận làm tím ngay mặt Trung lại. Song, trước mặt người trên, ông phải nén lòng:
- Lạy quan lớn thương thì con được nhờ, chứ con không chịu nói như thế.
Quan khích thêm:
- Kể cũng tức thật đấy. Vậy để tôi bảo chánh hội cho.
Lý trưởng mỉm cười hớn hở đáp:
- Dạ.
- Phải, chịu đến nước phải nói lại thì tức thật. Kể thầy với chánh hội thì thầy hơn nhiều. Nhưng mà...
Quan thở dài, nghĩ ngợi, rồi tiếp:
- Nhưng đối với quan phán, thầy phải xử thế nào cho tử tế mới được. Chính tôi và địa vị thầy, thà mất cho người ta ăn hàng chục, hàng trăm, còn hơn là mất một xu để hạ mình xin chánh hội, như thế ức lắm và nhục lắm.
- Dạ.
- Mà sự thực, tôi có ưa gì chánh hội đâu.
- Dạ. Con biết là quan lớn thương con nhiều lắm, xin quan lớn nói với quan phán cho con.
- Nhưng còn sự chè lá quan phán, thầy phải nghĩ cho chu đáo nhé.
- Dạ.
- Nghĩa là tôi thương thầy tử tế, thực thà thì tôi đi nói hộ, song thầy phải biện đúng một trăm. Quan phán với tôi là chỗ người lớn, nói với nhau hàng chục không tiện.
Lý trưởng khoanh tay, trầm ngâm rồi đắn đo mãi mới dám nói:
- Lạy quan lớn, một trăm thì nhiều quá.
Quan trợn mắt:
- Một trăm mà là nhiều. Thầy thử nghĩ xem, bỏ ra một trăm để công danh được nguyên vẹn, để tránh tù tội, thì có đắt không. Nếu thầy tiếc một trăm thì việc ra đến tòa, muốn được trắng án, lại không phải mất đến bạc nghìn ấy à?
Trung suy nghĩ rồi nói:
- Lạy quan lớn, thế thì trăm sự, con xin quan lớn thương cho. Thế nào con cũng xin có đủ.
- Phải, mà đấy là phần quan phán, còn tôi nữa, đừng vô ơn nhé.
Trung sợ hãi, tủm tỉm:
- Lạy quan lớn, con đâu dám thế.
Hôm sau, ông huyện gọi chánh hội lên ôn tồn bảo:
- Tôi đã nghĩ kỹ, việc thầy kiện lý trưởng là rất nên, song tôi xét, lý trưởng thì giầu, hắn tất không chịu thua. Rồi hai bên theo nhau, chẳng qua đục nước chỉ béo mấy anh thầy kiện. Cho nên tôi tính thầy nên rút đơn ra.
- Bẩm con rút đơn ra, rồi hắn tưởng con lép vế.
Quan xua tay:
- Không, để tôi bảo hắn là tôi can thầ,y và bắt hắn không được bới móc nhau như thế nữa. Và thầy nên biết rằng lý trưởng ăn bẩn và làm bậy, thì thầy cũng chẳng trong sạch lắm đâu. Chính lý trưởng cũng lăm le kiện thầy mấy khoản, nhưng tôi dẹp yên rồi. Bọn mình ra làm việc quan, ai không đục khoét. Không đục khoét lấy gì bù lại món tiền mình bỏ ra chạy chọt. Cho nên tôi đi làm quan, chúa ghét những thằng kiện chức dịch tham tang. Có khác gì nó chửi thẳng vào mặt mình không? Và các thầy tham tang, bất quá dăm ba hào, họa hoằn mới đến đồng bạc. Vậy thầy nên nghe tôi.
- Lạy quan lớn, quan lớn cứ để mà con sống mãi với anh lý con phen này.
- Tôi nói thực, sở dĩ tôi bảo thầy rút đơn ra là tôi vì thầy hơn vì lý trưởng. Chứ tôi cũng ghét hắn lắm. Nhưng tôi thấy hắn rục rịch kiện lại thầy. Hôm nọ thầy phải bán ruộng mới lo đủ năm trăm. Vậy tôi hỏi, giá hai người kiện nhau, thì thầy lấy gì lo kiện. Thầy túng nên tôi thương, khuyên lời hơn lẽ thiệt, thầy nên nghe.
- Dạ, lạy quan lớn truyền, con sợ lệnh quan lớn lắm. Nhưng nếu có phải theo kiện, con đành theo đến cùng.
Quan nhăn mặt, xua tay, rồi đứng dậy vỗ vai Liễu và ngọt ngào nói giọng nằn nì:
- Thôi quan xin. Rồi lỡ ra thầy có thua kiện thì chính tôi cũng bị mang tiếng là cầm đầu cho thầy không nổi. Cho nên, con ạ, con nên nghe thầy, thầy xin.
Liễu cảm động, xuýt rớt nước mắt. Thấy vậy, quan tươi tỉnh mở cặp giấy ra, lấy lá đơn cầm hai góc rồi vừa cười vừa nói:
- Thầy xé nhé.
Vừa dứt, hai tay ngài doãng ra, tờ giấy kêu soạt tách làm hai mảnh.
Té ra thằng Cáy chết về bệnh dịch tả?
Ngay sáng hôm sau, La, người tuần phải phục dịch việc khám xét, bị một cơn đau bụng đi tả đến năm sáu bận, rồi chết.
Nhưng chưa ai ngờ là La bị lây. Người ta bảo là thằng ăn xin thiêng, đã vật chết La, vì La dám cười, khi thấy nó lõa lồ.
Rồi hôm sau nữa, hai người hàng xóm La cũng đau bụng, đi tả và qua đời một cách rất nhanh chóng. Nhưng người ta vẫn tìm cớ thiêng liêng khác để lấy lý cho cái chết. Chứ không rõ ràng chính phủ diêm vương cần tăng binh bị để giữ nền hòa bình. Đến mãi tận hôm thứ năm, thấy nhiều người cùng chết về một bệnh, người ta mới hơi nghi, và trình lý trưởng. Song Trung đang có việc lôi thôi trên huyện, cần thu xếp với quan, nên chưa dám trình báo, sợ ngài gắt. Vả mới có năm đứa cùng đinh thiệt mạng, cần gì.
Đến tận hôm thứ mười, chính con gái Trung bị lây, ông mới sợ cho người nhà. Ông vội vàng lên huyện trình quan, xin nhà thương phái người về tiêm.
Về phần Trung, ông được dịp hút thuốc phiện khỏe đẫy. Ông bảo để được ba cái lợi. Một là ông khuây khỏa nỗi thương con. Hai là người hút thuốc phiện lúc nào bụng cũng nóng, không sợ trúng tả. Ba là trong khi ngồi vén đùi nghiền sái, ông có thể nghiền ngẫm đến cách xoay làng.
Ông cho người gọi vợ La đến và dọa:
- Chồng mày chết về bệnh thiên thời, mà mày chôn giấu không trình, bây giờ để di họa cho cả làng. Thế nào tao cũng không để cho về đâu.
Người đàn bà rưng rưng nước mắt, lấy dải khăn ngang chùi, rồi đáp:
- Thưa cụ Bá, cụ Bá thương cho, nhà con chết, chẳng qua về số, chứ con có biết là bệnh gì mà trình.
- Tao không lý sự với mày, rồi mày lên mà lý sự với quan.
Nghe nói đến tiếng quan, chị La run sợ, vì chị cũng đã một đôi phen hiểu thế nào là ông quan rồi. Chị nói:
- Thôi thì, trăm sự con nhờ cụ bá cả, cụ bá thương phận nào con nhờ phận nấy, chứ bản tâm con có muốn làm hại làng đâu. Mà cũng chỉ tại quan sai nên nhà con mới lây thằng Cáy.
Trung vội gạt:
- Thế bao nhiêu người đứng gần đó, có ai việc gì đâu. Chẳng qua chồng mày toét mồm ra cười nên nó mới vật chết, đến nỗi cả con tao cũng chịu vạ lây.
La thật thà đáp:
- Cụ Bá thay mặt quan cai trị ở làng, thì con sợ phép cụ Bá lắm. Nhưng con xin cắn rơm cắn cỏ lạy cụ Bá đừng trình quan, con còn phải nuôi hai tấm con thơ. Trung lắc đầu:
- "Việc quan anh cứ phép công anh làm", tao không biết.
- Thôi, giời sinh ra thế, cụ Bá ngơ đi, thế nào con cũng xin biện chè lá tử tế.
Nói đoạn chị cởi dải yếm, đếm sáu mươi chinh Khải Định để trên án thư nói:
- Đây, cũng là giời sinh ra thế, đây là tiền mấy buổi con làm ở nhà ông phó Bút mới lĩnh về đây, con biếu cụ Bá.
Rồi chép miệng, chị nhìn đống tiền, lắc đầu:
- Thế là mấy buổi công không, không biết mai lấy gì đong gạo cho cháu đây.
Trung vớ lấy cọc tiền, đếm từng chinh, rồi nói:
- Đổi cho tao đồng này, chinh Gia Long tiêu thế nào được.
Rồi ông tiếp:
- Tao cũng thương mày là chỗ đầy tớ cả. Nhưng mai và ngày kia mày phải làm cho tao, vì việc này không đúng đồng bạc, tao không nghe.
Người đàn bà ngu ngốc chùi rử mắt, đáp:
- Thôi, cụ Bá ạ, cụ Bá để cho con đi làm lấy tiền nuôi cháu.
- Không được.
La thở dài đặt hai cánh tay lên đùi, rún đứng dậy rồi vén cái vải che mắt lên để nhìn lối ra, rồi than:
- Khổ quá, mai phải làm cho cụ Bá thì con chết đói.
Việc này chẳng bao lâu đến tai Liễu. Ông ta tức lắm, gọi vợ La đến hỏi:
- Ông lý lấy của mày bao nhiêu?
- Thưa cụ chánh hội, cháu biếu cụ Bá cháu ba hào, cụ ấy bắt cháu làm thêm hai buổi công không, vì cụ ấy bảo thế tức là đồng bạc.
Liễu cáu:
- Thế còn tao, mày không biết là ai nữa?
La cười:
- Các cụ làm việc làng, cụ nào mà cháu chả sợ.
- Thế sao mày chỉ chè lá cụ Bá nhà mày, còn tao thì mày lờ đi?
- Nào cháu dám thế, nhưng cháu làm gì có tiền?
- Mày tưởng một mình cụ Bá nhà mày che chở cho mày nổi hẳn. Làng cũng còn người nọ người kia chứ. Thế mày coi tao không bằng lý trưởng à?
- Cháu cắn cỏ lạy cụ chánh hội, nào cháu dám nghĩ thế.
Liễu hằn học nói:
- Mày phải biết rằng giá mày không có gì cho cụ Bá nhà mày thì thôi, chỗ chúng bay như đầy tớ, tao không nói làm gì. Đằng này mày chỉ biết cụ Bá nhà mày, thì ông đây không tha. Ra mày coi người chánh hội không có tí giá trị gì thật.
La cau có:
- Các cụ làm việc làng cứ ganh nhau như thế thì chỉ chết chúng cháu.
- Mặc kệ.
- Thành ra cháu mất tiền những hai lần kia à.
- Mặc kệ, khôn hồn thì chè lá lý trưởng bao nhiêu, mày cũng phải biện cho tao bấy nhiêu.
La khóc mếu:
- Khổ quá, có mỗi một chồng thì chồng lại chết, để tai để vạ cho người ta thế này. Thôi, cụ chánh hội hãy cho thư thư ít bữa, cháu kiếm đủ gạo cho các cháu, rồi cháu làm trừ dần. Chứ bây giờ bắt ngay cháu có đồng bạc, thì cháu kiếm đâu ra được.
Cuộc ganh nhau giá trị ấy rồi thành lệ. Té ra ở giữa, thằng dân đen phải một cổ hai tròng lớn, và còn biết bao tròng nhỏ nữa. Chè lá ông này mà lờ ông kia, thì ông kia hành. Đút tiền ông kia mà không cho ông này thì ông này dọa.
Bởi vì các ông ấy cho thế là mình thua kém bên địch. Mà những việc đục khoét không phải thỉnh thoảng mới có. Trong nhà hơi xảy ra việc gì ư? Một lát sau lý trường đã lò dò đi với khán thủ đến. Có người mất gà chửi bới ầm ĩ ư? Tức thì chánh hội đã cho gọi mấy tên cùng đinh đến nhà và muốn tránh tội, thì phải lòi tiền ra.
Họ ăn từ một hào trở đi, nhưng cũng có việc họ móc nổi hàng chục. Họ thi nhau hà hiếp con em. Bất cứ ai, hễ có máu mặt và lép vế, là họ kiếm chuyện. Ấy thế mà cả Trung lẫn Liễu, không ngày nào là không dèm pha lẫn nhau. Bên nọ dìm bên kia là Bá hộ dốt nát. Bên kia nói bên nọ là chánh hội tiền: Họ rình nhau từng miếng một, để một ngày kia lại mang nhau đến cửa công, để cùng bị quan phụ mẫu làm thịt.
Hôm ấy là ngày thi sơ học yếu lược ở trường huyện. Mới từ sáu giờ sáng, các sĩ tử tí nhau, từ lên chín trở lên, đã bị nhốt vào các lớp cho đến gần mười hai giờ trưa.
Sáu mươi cái cũi, sáu mươi cái lưng đẫm mồ hôi, hòa thêm vào khí trời oi bức cho trong buồng chặt hẹp thêm nồng nặc. Các trò ngồi chen chúc nhau, không cựa được và thực nghiêm, ai cũng khoanh tay lại, có vẻ chờ đợi. Họ đợi đầu bài xem họ có bị thất học ngay từ thời kỳ nứt mắt trong đời học sinh hay không.
Trong bọn sĩ tử ngồi ở hành lang bên trái trước đình, đeo cái mỹ hiệu là buồng thứ năm, để chịu cả ánh nắng gay gắt của mặt trời buổi sáng, có nhô lên một cái đầu có búi tóc và có râu ria hẳn hoi. Đó là một thí sinh già, đã đến năm mươi tuổi, có thể là ông nội của trò ngồi bên. Thí sinh già gài gọng kính vào mang tai, rút cái bút cắm ở khăn, run rẩy chấm mực, xoe ngòi vào cổ lọ.
Hai giám khảo, mặc quần áo tây, đầu chải bóng mượt đi đi, lại lại, len lỏi vào các hàng ghế, cúi lưng xuống nhìn từng tờ giấy thi vào nhắc:
- Kìa quên số hiệu, đề vào.
Bỗng thí sinh già đứng dậy, nói to:
- Bẩm thưa quan, quan làm ơn đề cho con.
Cả lớp ồ lên cười. Giám khảo nhếch mép, hỏi:
- Tôi vừa giảng, cụ quên rồi à?
Thí sinh cười, gãi tai:
- Bẩm quan nói nhanh quá, con nghe không kịp.
Giám khảo đến gần, trỏ vào từng chỗ trong tờ giấy hỏi:
- Tên là gì?
Thí sinh nhanh nhẩu đáp: bẩm là lý Trung.
- Họ Lý à?
- Bẩm không, họ Nguyễn, nhưng làm lý trưởng.
Lại một hồi cười ồ:
- Thế thì Nguyễn Trung chứ? Có chữ đệm không?
- Bẩm có, chữ Bá.
Giám khảo giơ hai tay lên trời, há mồm thất vọng:
- Thế thì viết Nguyễn Bá Trung vào, cụ phải viết lấy, đi thi lại không viết nổi quốc ngữ à?
Thí sinh cười ngây ngô, tặc lưỡi nói:
- Bẩm quan, chả thầy giáo huyện cứ bảo con đi thi để lấy bằng, rồi xin cái bá hộ sang văn giai cho dễ mà.
Lại một trận cười làm mất thì giờ. Trẻ con nhô cả lên nhìn.
Thí sinh lấy mực, gãi ngòi vào khăn, rồi đặt bút lên trên giấy. Nhưng một cục mực theo ngòi bút chảy xuống. Thí sinh xuýt xoa, lấy vạt áo toan chùi, thì giám khảo gắt:
- Có giấy thấm không?
- À quên, bẩm có.
Rồi rất tự nhiên, Trung nói rất to như ở nhà:
- Tôi, à quên, con có viết cái này bao giờ đâu. Ngày trước ra làm lý trưởng, thì được quan trên không bắt sát hạch kỹ.
- Thôi, đề mau lên, hết giờ rồi.
Trung loay hoay đầu ngòi bút, run rẩy đặt xuống gần mặt giấy. Nhưng sự làm cố sức bao giờ cũng làm cho mệt, bởi vậy, mồ hôi mắt làm mờ kính, cho nên vì nhìn không rõ, chưa đặt sát ngòi vào mặt giấy, Trung đã viết. Thấy chữ lờ mờ, giám khảo cau mặt:
- Ấn ngòi bút xuống.
Thấy trẻ con trổ cả lại xem để cười, hai giám khảo vội vàng vỗ tay, xụyt và đuổi về chỗ.
Cũng may có Trung nên cả lớp được một trò giải trí. Các thí sinh quên lo.
Bỗng có một giám khảo khác ở hiên, ngó cổ vào buồng, gọi hai giám khảo trong lớp ra, trỏ vào Trung và thì thầm. Rồi cả ba người cùng cười, gật gật. Một lát, ba người cùng đến chỗ Trung. Trug thấy tối, cau mặt toan gắt. Nhưng vừa ngẩng đầu lên, đã vội vàng đứng dậy, chắp tay chào và gãi tai, nhếch mép cười. Bởi vì Trung đã gặp người quen. Người quen ấy là ông thư ký dinh Kiểm học.
Trung nói với ông thư ký:
- Bẩm quan, nhờ quan nói hộ với hai quan cho.
Ông thư ký nháy mắt, rồi ra. Trung ngồi xuống ì ạch đề nốt ba chữ tên, sau khi dập xóa đến ba lượt. Thật là một công phu vĩ đại.
Các giám khảo phải kiên nhẫn chỉ bảo, Trung mới viết xong, chỗ khoảng trên tờ giấy thi. Rồi thở dài sung sướng, ông ngồi ngắm tứ phía.
Bỗng một giám khảo ghé tai Trung hỏi khẽ:
- Khấn ông ấy bao nhiêu?
Trung đáp thầm:
- Bẩm ngũ thập.
Hai giám khảo nhìn nhau:
- Thế mà nó chỉ cho mình ăn "đít". Chốc ta phải móc cho mỗi đứa thêm "đít" nữa mà chén mới được.
Các bài thi lần lượt ra, ám tả, luận, tính đố và câu hỏi, mỗi bài chỉ trong bốn mươi nhăm phút. Bởi phải bận về Trung, nên cả hai giám khảo đều không coi học trò. Một giám khảo đứng cạnh cửa lớp, để đằng hắng khi có người trên qua, còn một giám khảo thì lấy tờ giấy làm bài nháp.
Nhưng chả bài nào Trung chép được kịp. Ông đánh vần được chữ ở bản nháp cũng đã là một công trình lớn lao rồi. Mà việc viết ra giấy, mới lại là sự gắng sức phi thường nữa. Bởi vậy, bài nào ông cũng bỏ dở nửa dưới. Song, được cái đoạn nào đã viết vào giấy, nếu không sai vần, thì thật hoàn toàn.
Gặp hai đầu bài tính vừa dài vừa khó, các thí sinh phải chép hơn mười phút mới xong, thì Trung được giám khảo xui bỏ đầu bài, để thì giờ mà viết lời giải. Bởi vậy Trung chép kịp một cái tính rưỡi, trong khi cả lớp ngồi cắn bút nghĩ không ra.
Khi hết giờ làm câu hỏi, Trung thở mạnh một cái, và sờ khăn áo, thì ra nó ướt đẫm những mồ hôi. Vì không thi bài chữ Tây nên Trung được quan trường cho ra về. Trung bỏ khăn ra, vuốt tóc, lấy giấy thấm để quạt một lát, rồi đứng dậy, hỏi:
- Bẩm các quan, liệu bài vở con thế nào ạ?
Một ông gật đầu:
- Được, chốc về nhà trọ tôi bảo nhé.
- Dạ, trăm sự nhờ các quan cả, con đã nhờ quan giáo phán nói hộ. Nếu con không được cải sang văn giai, thì ở làng nhiều cái tức lắm.
- Được rồi, thôi, cụ đi về.
Trung gài lại khuy áo, chụp lại khăn, rồi lách ghế đi ra.
Bỗng thí sinh bên cạnh gọi to:
- Này cụ, quên bút mực giấy à?
Trung quay lại, nhếch mép, gật gật đầu đáp:
- Thôi, tôi đãi cậu đấy.
Trung lại được tiễn bằng trận cười.
Trung đỗ sơ học yếu lược. Liễu căm hờn, vì từ nay không còn lấy gì để gièm pha kẻ thù. Cho nên ông chỉ còn vớt vát được một câu nói cho bõ tức:
- Đỗ mà chưa có bằng thì cũng như chưa đỗ.
Trung không dám khao, dù người làng muốn có dịp được ăn, giục ông làm cỗ mời dân. Chẳng phải ông sợ tốn kém, nhưng vì muốn tránh sự dị nghị về việc thi đỗ. Trung không quên nghĩ dịp để giương danh.
Ngày ấy, nhờ công hiệu của thuốc tiêm, thần dịch tả đã thôi tàn hại làng Từ Lâm, Trung bèn bàn mời huynh thứ ra đình họp, đề nghị mở một lộ tạ thần, vì thấy có ăn, nên mọi người biểu đồng tình ngay.
Song, cũng vì việc ấy, mà đến hôm chính lễ phe Trung và phe Liễu suýt đánh nhau thành án mạng.
Ngày hôm ấy, cũng như ngày làng có đám, ở sân đình, những ngọn cờ đã cắm thành hai hàng, để bay phất phới trước gió. Dưới bóng bàng, hàng nước đã bày thuốc lá, nước chanh, bánh khách và bánh khảo; ở gốc cây, anh thợ cạo đã treo gương vào đanh, để ngồi trên mặt hòm chờ khách. Gia đình anh xẩm, không biết ai báo tin đã rải chiếu ở bóng giải vũ, và đã kéo nổi đến hai chục người quây quanh để nghe. Ngoài sân đình, trẻ con chơi đùa hàng tốp một, để chửi nhau và nói tục. Người làng, cả đàn bà lẫn con gái đều nghỉ việc, để đứng lẻ tẻ từ miếu đến đình, chờ đám rước đi qua.
Ở miếu đồ, hành-ngơi đã xếp xong đâu đấy. Các phần việc đã tề tựu đủ cả. Họ ngồi trên bục xây có rải chiếu đã nhai hết cả bã trầu. Đám Dĩ nóng ruột, nháy phường trống thỉnh thoảng lại nổi lên những hồi thúc giục, rồi hỏi:
- Chả biết đã cãi nhau xong cho chưa?
Quả vậy, trên chiếc chiếu ở phía trong Liễu và Trung còn đang giở lý sự để tranh nhau ngôi thứ. Cả hai cùng lùng thùng trong chiếc áo thụng lam nhưng cùng đỏ mặt, trợn mắt, và làm những điều bộ rất hùng hồn. Trung nói:
- Ông cãi sao thì cãi, tôi là chức sắc, thì nhất định tôi được rước hòm sắc.
Liễu cãi:
- Tôi không nghe, tôi không chức sắc, nhưng tôi có chân nhị trường, ông chẳng qua chỉ là bá hộ, thì rước sao chẳng được sắc Ngài có chữ vua ban.
- Nhưng tôi đã đỗ sơ yếu lược rồi, tôi được cải sang văn giai.
- Ông đỗ hay ông không, làng này chưa ai biết, ông đã có bằng chưa?
- Thôi thế này là ổn cả: Ta để sắc với bát nhang lên kiệu, rước về đình, còn hai ông thì đi ngang nhau ở phía sau, cho chúng tôi theo.
Mọi người ồn ào tỏ ý bằng lòng. Bất đắc dĩ, Trung và Liễu cùng sợ thua, nên phải theo.
Tời vào bàn thờ ôm bát hương, khuỳnh hai tay ngang mặt để tiên tước. Ngay lúc ấy, cả Trung cùng Liễu đều nhanh chân đi vào, để tranh nhau được rước hòm sắc ra sân. Nhưng rủi thay, hai người cùng nhanh nhảu, nên cùng giơ hai cánh tay ra một lúc. Cho nên không ai được độc quyền chút hân hạnh, mà kết cục, mỗi người khênh một đầu hòm sắc, đi ngang nhau, rồi cùng đặt vào kiệu.
Chiêng trống bắt đầu lại nổi, và bát âm đi bài lưu thủy. Tời tay cầm trống khẩu, mắt nhìn bọn người khênh long đình đã đứng bíu tay đầu đòn rồi giơ trống lên, điểm ba hồi chín tiếng.
Theo tiếng trống dóng một, long đình nâng lên cao, và đòn rồng đặt lên vai mọi người.
Mấy lá cờ đầu đã phấp phới tiến đi, thì hai chiếc tàn vàng đã ấp vào hai bên long đình nhích lên từng bước. Trung và Liễu trịnh trọng khuỳnh hai tay, thong thả đi theo. Bỗng đánh phạch một cái, mọi người quay lại, thì ra anh trương tuần Giai đang ì ạch giương xòe chiếc lọng xanh. Rồi giương xong, anh chạy theo đám rước, che cho Trung.
Ấy thế là việc lôi thôi lại bắt đầu.
Liễu giận nổ ruột chạy lên trước kiệu, giật trống khẩu, đánh đổ hồi, rồi trỏ vào mặt Giai, dõng dạc hỏi:
- Giai, ai cho phép mày đi che lọng?
- Bẩm cụ, cụ Bá bảo con từ hôm qua.
- Mày có thừa thì giờ thì về giặt tã cho con mày, có hơn không?
Trung đỏ ngầu hai mắt, sừng sộ:
- A, ông nói thế phỏng?
Liễu không đáp, sấn sổ đến Giai, cướp lấy lọng, vứt còng queo bên cạnh lối đi, và hỏi Trung:
- Ông là gì mà dám đi lọng.
Trung nhẩy chồm vào Liễu:
- À, anh lột lọng chức sắc.
Đám rước đang nghiêm chỉnh, bỗng lộn xộn. Ai nấy bỏ cả đồ đạc để quây lại xem, và trong nháy mắt, người làng các ngả đã đổ đến, đứng vòng trong vòng ngoài.
- À, thằng lý Trung, mày đánh tao!
Liễu giơ tay sờ lên mũi, rồi lăn vào bên địch, xé áo soàn soạt.
- Mày lột lọng chức sắc. Đồ khi quân!
Hai người ôm vật nhau. Bút sấn vào đánh hôi. Quang cũng lăn vào, đấm thụi bứa bừa. Tiếng kêu dậy lên. Tù và rúc như có động. Tời thét:
- Kìa, các ông, có vào can đi không, để họ đánh nhau chết à?
Khán thủ, trương tuần hết sức xông vào đám đánh nhau để lôi ra từng người.
Trung bới lại tóc, hầm hầm trỏ mặt Liễu:
- Rồi tao kiện chứ tao không chịu.
Liễu trợn mắt:
- Mày cứ kiện, nhất là tao hết nghiệp, chứ mày là ông gì mà dám lộng quyền. Trung trừng mắt, trỏ vào ngực:
- Tao là ông cửu, tao có cửu phẩm của triều đình.
Liễu hách dịch, trỏ tay quát:
- Cửu à, chúng bay trói nó lại giải vào đình cho ông.
Ai nấy ngơ ngác nhìn nhau xem Liễu sai ai. Nhưng không ai trói ai cả. Trung cáu tiết, lại dằng người giữ ra để xông đến. Song người ta can mãi, kết cục Trung và Liễu cùng bỏ về. Cả hai áo thụng rách tả ra từng mảnh.
Đám rước đến đình, bát hương và hòm sắc đặt lên bàn thờ đã lâu rồi mà các cụ lúng túng mãi không tế. Vì cụ Tời không dám vào mệnh bái.
Nhưng thật may, cuộc bàn cãi chưa xong, thì Liễu đã tất tả ra đến đình, tay khoác chiếc áo thụng khác, hỏi:
- Chưa tế đấy chứ?
- Chưa, cụ vào mệnh bái đi, dân chờ.
Vừa dứt lời, Trung cũng đã vội vã tới nơi, và mặc sẵn áo tế từ bao giờ. Mọi người chắc lại xẩy ra cuộc xô xát nữa. Nhưng không, Trung và Liễu đều tưởng bên địch không ra đình nữa, thì nhân dịp, lẻn đi một mình, để đứng mệnh bái. Nhưng bất đồ anh hùng tương ngộ, thì hai người cùng đứng mệnh bái vào một chiếu ngang nhau.
Người làng trổ cả lên nhìn Trung và Liễu xem có lộ vẻ ganh tị gì nhau không. Nhưng cũng không. Cả hai ông chủ tế cùng kính cẩn, như đã không xảy ra việc gì cả.
Cuộc tế được vô sự từ đầu đến cuối, là do không có văn để đọc. Như thế, tránh được cái khó viết tên hai ông chủ tế, ai trên ai dưới. Cho nên đến khi xướng "đọc chúc" thì cụ nhất vào hậu cung, thỉnh ba tiếng chuông mà thôi.
Chính cụ cũng không biết khấn chữ.
Có người bi quan, thở dài phàn nàn:
- Muốn ngài chứng dám mà không mời, lại thỉnh chuông như thế, có khác gì đánh mõ gọi tuần hay không.
Lễ xong, chờ hết hương, các cụ ngồi ở chiếu rải trên sân đình. Cố nhiên Liễu và Trung ngồi chung một chiếu để ăn chung một cỗ. Song, không ai nói với ai một tiếng. Cả hai người, mặt cùng hầm hầm, cùng nghĩ đến một việc nữa sắp xảy ra lôi thôi to, nếu làng không thu xếp ổn thỏa.
Đó là cái thủ lợn biếu tiên chỉ. Thủ lợn ấy lần trước bà Tú không nhận, bảo rằng để kính dân.
Bọn tuần biết chỗ khó khăn này, nên không dám hạ con lợn tế thần.
Mà cả Trung lẫn Liễu thỉnh thoảng lại đưa mắt đến chỗ ấy.
Bữa rượu không ồ ạt như mọi bận. Chẳng ai thiết nói chuyện, mà có nói, cũng chỉ nói khẽ. Hình như người ta cố yên lặng để nghe ngóng không khí vẫn còn u ám, mà mấy chén rượu tức là sức nóng của ngọn lửa châm vào ngòi chiến tranh.
Bỗng khán thủ lên sàn, đứng gần chiếu trên, gãi tai nói:
- Bẩm xin hạ lễ.
Tời thật thà đáp:
- Cứ hạ đi, sao còn phải hỏi. Các cụ uống rượu cần xong, không khéo chia phần không kịp đấy.
Khán thủ ấp úng thưa:
- Bẩm còn cái thủ lợn.
Cụ nhất không đáp, lờ đi như không nghe rõ. Và mọi người đều nhìn cả lên chiếu trên. Trung hất hàm, làm như không cần nói:
- Tùy anh đấy, thế nào là phải thì làm.
Khán thủ nhếch mép cười, đáp:
- Bẩm trên các cụ, dưới các ông, bảo cháu thế nào, cháu xin vâng theo, chứ tùy cháu thế nào được.
Liễu cứ vờ như không để ý đến.
Chẳng một ai dám lên tiếng. Thì Trung lại hỏi:
- Kìa các cụ nghĩ sao cho phải thì bảo đi.
Nhưng vẫn không ai đáp. Trung lại giục:
- Kìa cụ nhất, cụ nghĩ thế nào?
Cụ nhất hớp rượu, khà một tiếng:
- Ồ, lão giả an chi. Tùy các cụ đấy.
Cụ nào cũng làm như không nghe tiếng. Khán thủ lại hỏi:
- Các cụ bảo cháu thế nào, không có muộn. Cụ Phó hội?
Bút cười, và được dịp để nói kháy:
- Cụ phó hội à? Cụ ấy dốt nát, biết gì, anh hỏi cụ Bá ấy, cụ ấy mới thi đỗ Sơ học yếu lược ấy mà.
Đám Soang lau mép, nghiêm chỉnh nói:
- Trình các cụ, mấy lần dân họp để bầu tiên chỉ mà không xong, thì đáng lẽ thủ lợn phải biếu ông nào nhất làng.
Cụ nhất xua tay, vội vàng trách:
- Rõ ông mới khéo, việc gì kéo tôi vào đấy.
Soang chữa:
- Là cháu nói ông nào to nhất làng kia đấy. Nhưng nay, ông lý và ông chánh không ai chịu ai, nghĩa là hiện nay không có ai hơn ai kém.
Trung cau mặt, vênh váo nói một mình:
- Sao không có ai hơn ai kém.
Soang tiếp:
- Thì tôi tưởng bây giờ cái thủ lợn hãy nên bổ đôi, để kính mỗi ông một nửa là công bình.
Mọi người như nhẹ nhõm, vì được nghe câu nói rất xác đáng. Những tiếng "phải" nối đuôi nhau từ chiếu nọ đến chiếu kia. Liễu và Trung hình như lấy làm hả, không ai nói lại một câu gì.
Soang cười hà hà bảo khán thủ:
- Đấy, các cụ đã bằng lòng, anh cứ thế mà làm.
Ngày hôm sau, Trung bảo vợ bán thóc và đòi nợ. Liễu cũng dạm bán thêm năm mẫu ruộng.
Làm tiền xong, Trung phát đơn kiện Liễu về tội "lột lọng chức sắc".
Ông huyện, vẫn khéo léo như thường, ăn tiền cả hai bên rồi xử hòa. Nhưng Trung nhất định không chịu, chống án lên tòa đệ nhị cấp. Trung vì làm việc đã lâu, nên một đôi khi có được ra vào cửa quan chánh án. Nhưng Liễu cũng không kém thần thế, ông nhờ quan huyện đưa vào quan dự thẩm.
Muốn chuộc danh giá với làng, cả hai người tiêu hết bay số tiền có sẵn, rồi Liễu lại phải bán thêm ruộng và Trung cũng phải cầm cái vườn, cái ao.
Hai người đều chắc như cua gạch, và mỗi khi ở tỉnh về làng, cùng khoe khoang sự thân mật với quan thầy.
Trung khoa chân múa tay:
- Phen này không những nó mất chánh hội, mà còn phải tù nữa. Vì tiếng rằng cụ Dự bênh nó, nhưng cụ chánh án đã ra lệnh cho cụ Dự rồi.
Liễu ngồi đâu cũng bô bô:
- Cụ Dự tử tế lắm, cụ dễ hơn quan ta, đã cho tôi về nhà ăn cơm. Cụ hứa cho phép tôi vào hầu cụ lúc nào cũng được. Cụ dạy rằng việc kiện nhau quan trọng ở lúc lấy cung, cho nên dù cụ chánh án muốn bênh bên kia thế nào cũng không đủ chứng cớ mà làm án nổi. Cụ bảo hễ việc này đăng đường xong, thì tôi lại kiện lại thằng Trung về tội lộng quyền. Thế nào cụ cũng giúp. Không những nó phải cách, mà còn bị tước phẩm hàm vị thứ nữa.
Nhưng kết quả việc kiện nhau không được như ý cả bên nguyên lẫn bên bị. Không ai phải tội lột lọng chức sắc và cũng không ai phải tội lộng quyền. Cả hai người đều phải phạt ba đồng bạc vi cảnh vì tội đánh nhau.
Trung tức lắm, cho rằng quan chánh án lừa mình. Liễu bực mình vì thấy quan dự thẩm hứa hão. Cho nên cả hai người cùng chống án lên tòa thượng thẩm, mà cùng nhờ trạng sư có tiếng bào chữa hộ mình.
Lại một phen tiêu tiền xứng đáng.
Vợ Liễu thở dài:
- Khổ quá, cứ này dăm mẫu, mai dăm mẫu, thì hết nghiệp lúc nào không biết đấy. Vợ Trung giày vò chồng:
- Kiện cáo làm gì để phải bán ruộng bán nương đi như thế này.
Song, đã đâm lao phải theo lao. Trung đưa thầy kiện xem bằng cửu phẩm và dẫn những tay làm chứng đắc lực lên Hà Nội. Ông phải tận tâm cung đốn người phe mình, và giao hẹn:
- Tôi được phen này, thì sống chết cũng khao làng một bữa.
Liễu chẳng kém tin trạng sư của mình và vui vẻ dặn vợ:
- Hễ khi nào tòa xử, mà thấy tôi về, đốt pháo ngay từ đầu làng, thì ở nhà cũng reo lên nhé.
Song, tuy bận việc ở Hà Nội, mà Trung và Liễu cũng không biếng nhác việc khoét dân. Hai người cùng bới bèo ra bọ để kiếm ăn, và ganh nhau ăn, bởi vì nếu không được cùng ăn đều nhau, ức là sợ mình kém giá trị. Mà người nào cũng có một đội do thám để rình nhau, xem nếu bên kia ăn bậy mà mình không được xơ múi, thì bỏ giấy. Nhưng cũng may, không có giấy má nào bỏ lên quan, vì hai người cùng ăn bậy bạ ngang nhau.
Rút cục, chỉ con em là khổ. Mà nghề thế, dột từ nóc dột xuống. Trong làng lý trưởng, chánh hội đã là hạng mọt già thì cả phó ký lẫn ban hương hội, cho chí khán thủ, trương tuần, đều hùa nhau làm hại làng. Người dưới làm liều đã được người trên nữa che chở. Người trên vừa làm liều đã được người trên nữa bênh vực, một loạt đều ăn tàn phá hại, đểu giả ngang nhau.
Nhưng tiền mà Liễu và Trung đục khoét quanh làng hàng năm, bù sao được số bạc tốn kém về vụ kiện cáo.
Rồi ngày đăng đường đến, Trung và Liễu dắt chứng lên Hà Nội hầu tòa. Cả hai vẻ mặt cùng lo lắng, cùng chăm chắm nhìn thầy cãi của mình đầy vẻ tin cậy.
Sau khi tòa hỏi căn cước đôi bên và một vài câu như thường lệ, thì các chứng cứ lên vành móng ngựa để trả lời. Rồi đến tài hùng biện của trạng sư.
Trong khi các thầy cãi đập bàn, đập ghế bảo chữa cho khách hàng của mình, thì cả mọi người hồi hộp. Nhưng ông phán thông ngôn che tay lên miệng để giấu kín cái ngáp. Quan chánh án lấy đầu ngòi bút vặn lại cái đinh ốc trên núm bàn thấm. Ông bồi thẩm nhìn ông lục xử rồi cười.
Thầy cãi ngồi xuống đã lâu, quan chánh tòa mới đứng dậy vào phòng luận tội. Rồi một lát các ngài ra.
Cả từng ấy quả tim như đập mạnh. Dứt lời quan chánh án, ông thông ngôn dịch ra tiếng An Nam:
- Tòa tha cho cả hai bên, về mà làm ăn, không được kiện cáo nhau lôi thôi.
Thế là tòa xử hòa. Cả hai bên đều được miễn phạt bạc ở tòa án tỉnh.
Liễu thấy được kiện, sung sướng vái dài các quan.
Trung thấy khỏi oan, tấm tắc khen mãi trạng sư của mình là giỏi.
Sau việc kiện nhau, Liễu và Trung như cũng bị mệt nhoài. Thật là những người đã chạy quá sức. Thỉnh thoảng nghĩ đến món tiền to lớn tự nhiên đội nón ra đi, Trung lại tiếc và bực mình lẩm bẩm:
- Rõ vô ích quá, vô cớ mình làm giầu cho kẻ khác.
Rồi ông đâm ra lẩn thẩn một dạo và nhất định mặc cho vợ con mè nheo, ông vác tĩnh về nhà, "trô" công nhiên mỗi ngày một đồng bạc. Ông bảo để giải buồn, chứ cứ ngồi hối hận mà tiếc tiền, thì buồn đến phát ốm mất.
Liễu cũng nhụt cả nhuệ khí, song còn được an ủi là đã không thua kiện. Tuy vậy, ông muốn từ nay sống hòa bình, bởi vì nghĩ đến ruộng nương bán chác, cái óc chiến tranh của ông làm ông e sợ chốn công môn. Bởi vậy cả hai người kiềng nhau, và do thế dân làng đỡ bị nhũng nhiễu.
Nhưng được tròn sáu tháng, thì bỗng ông chánh tổng già tạ thế. Các huynh thứ trong làng thấy lâu nay Liễu và Trung không mời đến chơi, hoặc rượu chè, hoặc hút sách, để nói xấu nhau, thì tưởng như buồn bã. Nên họ mừng thầm sắp có dịp được no say, được trông thấy có anh khuynh gia bại sản. Hai người vốn chỉ hầm hè nhau vì vị thứ tất không khỏi tranh nhau kịch liệt chức Chánh tổng Phen này hai người vốn chỉ hầm hè nhau vì vị thứ, tất không khỏi tranh nhau kịch liệt chức chánh tổng phen này.
Quang đến dò ý Trung thì Trung lắc đầu:
- Chịu!
Rồi nghĩ một lát, ông nói:
- Nhưng nếu bên kia ra, thì bắt buộc tôi phải tranh.
Liễu cũng hết sức nge ngóng và cũng như Trung, ông chỉ hứa với Bút:
- Xem đã.
Nhưng hàng tổng ai để cho hai người kình địch này được nghỉ yên để họ trở nên vô ích. Mà quan phụ mẫu cũng nghĩ ngay đến hai con bò vàng. Ngài bảo Liễu:
- Thầy cứ ra, sợ gì.
Quang vội đến báo với Trung:
- Chánh Liễu đã vọt lên huyện và quan đã hứa tác thành cho hắn rồi đấy.
Thế là đồng thời, hai lá đơn tình nguyện ra ứng cử chánh tổng đã bay đến huyện đường, và hàng tổng đã khấp khởi mừng thầm, đắn đo xem bên nào mặn mà hơn thì bỏ phiếu.
Cuộc cổ động dần dần hăng hái. Trước hết, cử tri chỉ được bữa chén, bữa hút, thì ra ý lửng lơ. Rồi quen nếp cũ, lá phiếu có giá trị bằng tiền bạc. Nhưng vì sự tranh nhau hăng hái, nên giá phiếu mỗi ngày tăng hai lần, mỗi lần hơn nhau hai đồng bạc. Đến khi lá phiếu cuối cùng phải mua đến năm chục thì thôi, bởi vì, không một người có chân đi bầu nào mà chả bị mua chuộc. Song hai bên bằng phiếu nhau. Chưa có thể có sự thắng bại. Bởi vậy, một hôm, bên Trung suýt bị cướp mất một người. Cho nên, cả đôi bên đều đề phòng bằng cách giữ rịt cử tri trong nhà mình, bắt đầy tớ ngày đêm canh thật cẩn mật. Cử tri bị nhốt, nhiều người phản bội, muốn đánh tháo ra để bán phiếu cho bên địch, lấy giá tiền gấp bội. Nhưng không thể. Hồ có ai vờ vịt ra vườn phóng uế, để dò lối đánh tháo, thì đã thấy thập thò gần đấy, một gia đinh cầm sẵn gậy gộc. Chẳng phải gia đinh ấy dám phang vào đầu cử tri khi thấy ông này chuồn, nhưng để đánh nhau với đầy tớ đối phương, nếu xảy ra việc cướp người.
Rượu chè. Bài bạc. Phiện phò. Hát xướng.
Về bên Liễu, Bút tận lực nhất. Lúc nào Bút cũng mệt phờ người. Bởi vì Liễu hứa giúp Bút lên chánh hội, khi mình được làm chánh tổng.
Ngày bầu cử đã tới. Bên nào cũng đúng hai mươi hai người. Liễu buồn rầu, họp bạn bè lại để bàn việc. Nhưng không có ai có ý kiến hay mưu mô gì để lấy thêm người. Ây thế mà một việc xảy ra, làm Liễu lo mất mật: Cụ nhất Tời không biết vì mấy hôm liền ăn những thức khó tiêu hay sao, mà từ tối, cụ đâm đau bụng, thượng thổ hạ tả, vật giường trên xuống giường dưới và kêu rầm rĩ:
- Tôi chết mất.
Sáng hôm sau, cử tri đã phải tề tựu ở huyện trước tám giờ. Vậy thế nào tời cũng phải khỏi để đi bỏ phiếu. Thấy nhân tiện có ô tô thuê sẵn để đưa cử tri đi, nên lúc mười giờ đêm, Liễu bảo tài xế đánh xe ra tỉnh mời đốc tờ, mất bao nhiêu tiền cũng không ngại.
Bác sĩ đem thuốc cấp cứu về, Liễu lo lắng hỏi:
- Thưa quan liệu có thể nguy đến tính mệnh ngay không ạ?
Bác sĩ xem người ốm lắc đầu:
- Không hề gì.
Liễu nằn nì:
- Bẩm đây không phải là người nhà cụ này, xin quan làm ơn cứ nói thực không e ngại gì cả. Nếu có phải cụ ấy mắc bệnh thời khí mà không thể còn lâu, xin quan cho cụ ấy một phát tiêm cầm lại, để cụ ấy sống nốt sáng mai mà đi bỏ phiếu.
Bác sĩ cười:
- Không hề gì. Cần cho ông cụ uống thuốc và nghỉ yên.
- Nhưng con thấy nhiều lúc cụ ấy nằm im lịm, con sợ quá.
Bác sĩ tiêm một phát, tức thì bệnh nhân khỏi hết đau.
Tời uống thuốc, rồi nằm thiu thiu ngủ.
Được một lát, Liễu đã đánh thức Tời dậy bảo sắm sửa khăn áo mà đi. Tời nhăn nhó, lạy van, nhưng không được.
Bất đắc dĩ, Tời phải để cho đồng tiền nó làm tội. Nhưng lúc ấy thuốc tiêm đã nhạt, nên tời lại thấy rơm rớm đau. Cụ ôm bụng nằm xuống phản. Liễu nghi ngờ, hỏi:
- Hay cụ định phản cháu, thì cụ lấy bao nhiêu nữa, cháu cũng xin vâng.
Tời rống lên như con cọp, cụ co rúm chân tay và cố ọe, nhưng không nôn được. Ai mó vào cụ, cụ càng thấy đau, đau như đứt gan đứt ruột.
Nhưng biết làm thế nào. Giờ này Tời đã bán cho Liễu, thì nhất định cụ phải đi. Chuyến xe trước chở một tốp đi rồi. Chuyến này đến lượt cụ. Mặc cụ van lậy xin đừng ai mó tay vào, mặc cụ kêu trời đất, người ta cũng cứ cõng đặt Tời vào võng, cáng lên ô tô với mười người nữa.
Trong xe chật chội, Tời không được nằm, nên thấy đau dội. Cụ lăn lộn cả lên người ngồi cạnh. Xe đi xóc, càng làm Tời đau đớn bội phần. Cụ kêu cha kêu mẹ, lạnh Liễu xin trả lại tiền để được tha cho về, nhưng nào ai nghe.
Tới huyện người ta cõng Tời xuống võng, và khênh cụ vào.
Phe Liễu được đội lệ tiếp ở trại lệ. Phe Trung được quản đồn đón vào trại cơ. Cuộc tranh người đến giờ chót càng nghiêm ngặt, Liễu và Trung, mang đi rất nhiều tiền để định khi bắt cóc được một cử tri nào thì cấp tốc nhét bạc vào tay mà kéo về phe mình.
Nhưng vô hiệu. Cuộc phòng thủ dù không phải có chiến hào tối tân, song, không bên nào bén mảng được vào trận tuyến địch.
Trung thấy nói Tời đau bụng thập tử nhất sinh thì mừng thầm. Hẳn cụ không đi được thì Liễu phải kém phiếu. Nhưng khi thấy tiếng Tời kêu ồn bên trại lệ, ông lại lo lắng như trước, ông khấn ngầm cho cụ về với tổ tiên trước giờ bầu.
Hai bên ngang phiếu nhau. Phải bầu lại. Tời bị xe cáng dằn vặt, nên được chết trước định mệnh.
Đó là một mối lo cho Liễu, mà là một tin mừng cho Trung.
Vì vậy, cuộc giam cử tri lại càng nghiêm ngặt. Chỉ vợ con họ có thể đến thăm được mà thôi. Dù cha mẹ ốm nặng, họ cũng không được về. Mà có vạn bất đắc dĩ phải về thì một người trong bộ tham mưu phải cùng bốn gia đinh thân tín vác dáo mác đi hộ vệ. Bởi vì, ngoài hàng rào nhà người ứng cử, sự trung thành của cử tri không còn đảm bảo nữa. Nhất là Liễu, bây giờ đến trăm bạc một phiếu cũng không dám tiếc.
Liễu lo lắm. Sự thua chắc rõ mười mươi. Mà không sao cướp được của bên kia một người.
Gia dĩ ngày bầu đã đến gần.
Ông mời Bút vào buồng để bàn việc:
- Thế nào, bác có giúp tôi kế gì không? Còn có hai hôm nữa thôi. Không được phen này thì mất toi ngót hai nghìn đồng bạc.
Bút gật:
- Phải, đến hai nghìn. Hơn nửa tháng nay, hôm nào cũng cỗ bàn, hát xướng, phiện phò. Lại tiền đút lót các cửa. Hay bác chạy lên quan chăng.
Liễu lắc đầu:
- Không tin quan được, ông ấy xử nước đôi, tôi biết, vì Trung nó khấn ông ấy ngần ấy. Đút tiền để ông ấy khỏi làm khó dễ về sau, chứ việc mình, mình phải lo, ông ấy giúp gì được.
Rồi nghĩ ngợi một lát, Liễu hỏi:
- Bên kia có ai hay nhị tâm không? Bác nghĩ hộ.
Bút cười:
- Tất cả! Chẳng ai nhất tâm đâu! Cả người bên mình cũng vậy. Chỉ làm được cách gì đem được tiền ấn vào tay họ, là họ về bên mình ngay. Nhưng mắc cái nó canh ngặt quá, không tài nào cho người lọt vào được.
Liễu gật, quả quyết nói:
- Được, tôi có cách.
Bút mừng rỡ, hỏi:
- Cách gì?
- Ai sợ vợ nhất bọn, trong phe Trung?
Bút rũ lên cười:
- Tôi hiểu rồi. Ông đám Bái, bác ạ. Kế ấy diệu đấy.
Thế là Liễu dùng ngay bà đám Bái làm gián điệp cho mình.
Hành trình cuộc thu xếp ấy không dễ dàng đâu. Nó phải đi như thế này:
Đêm hôm ấy, nhà Bái bị một bọn cướp bôi mặt nhọ vác khí giới vào. Làng độ này có canh phòng gì đâu. Bao nhiêu tuần phải chia nhau phục dịch cả hai nhà có việc. Vì bọn cướp đến bất thình lình nên bà đám không kịp kêu. Chúng nhét giẻ vào mồm bà, giơ dao trước ngực và dọa:
- Hễ kêu các quan đâm chết!
Chúng trói đầy tớ mỗi người một cột.
Bà Bái mê mẩn, mềm nhũn như cái xác vừa chết, nói không ra hơi:
- Lạy các quan, các quan lấy gì thì lấy, các quan tha chết cho con.
Quân gian lần chìa khóa, lục lọi các hòm, tủ. Nhưng bỗng thình lình! Có tiếng đạp cổng.
Bọn cướp luống cuồng chực tẩu thoát, nhưng sáu, bảy người ở ngoài đã vào.
Hai bên đánh nhau túi bụi.
Bà Bái, trong cơn mê hoảng, chỉ nhận được mặt mỗi một người can đảm cứu mình: người đó là ông chánh hội Liễu.
Mười phút sau, bọn gian phi chạy thoát, Liễu cởi trói cho bà Bái và người nhà.
Khổ chủ thở hổn hển, rồi ngồi thụp xuống đất, lạy ông chánh hội hai lạy, Liễu vờ hỏi:
- Ông Bái đâu?
Bà Bái thở dài gạt nước mắt đáp:
- Khổ quá, thưa ông, đến mười hôm nay trong ông Bá giữ rịt có cho về đến nhà đến cửa đâu.
Liễu cau mặt, dậm chân:
- Chết thật!
Bà Bái xúc động nghiến răng gọi đầy tớ:
- Mày có đến đằng ông lý gọi ông Đám về không? Nó cướp hết của, nó giết hết người rồi đây này!
Liễu can:
- Bà đừng nóng nảy quá. Người ta chả cho ông ấy đi đâu. Đến cụ Tời chết, mà ông xã Tế là cháu gọi bằng bác ruột cũng chả được về đưa nữa là.
Bà Đám thở dài:
- Phúc cho nhà tôi quá, may ông đến cứu chứ không còn gì là của, là người.
Rồi bà têm trầu mời Liễu, Liễu nói:
- Tôi tiếng bận thì bận, nhưng không bao giờ chểnh mảng việc làng, dẫu canh phòng có phải công việc tôi đâu. Chính từ trưa hôm nay, tôi đã nghe hết bọn cướp này định vào đây. Nhưng tôi không tài nào giáp được ông ấy mà mách cả.
Bà Bái nói:
- Giã ơn ông.
Liễu tiếp:
- Cho nên tôi phải rình để cứu bà.
- Phúc đức quá! Tôi biết lấy gì để đền ơn ông bây giờ.
Liễu yên lặng, bà Bái than thở:
- Thế mà, khổ quá, nhà tôi lại đi bầu cho ông Bá Trung!
Liễu cười. Lúc ấy người đi gọi ông Bái đã về, nói:
- Thưa, cụ bá không cho tôi giáp ông Bái.
Bà Bái nhẩy lên chồm chồm:
- Lấy lẽ gì, sao mày cứ không sấn vào có được không?
- Nhưng cụ Bá bảo ông Bái nhức đầu phải nằm nghỉ.
- Lại chết với mấy con nhà trò chứ ốm đau gì.
Liễu khích:
- Dễ ôm thật đấy chứ, bà tính ngày nào cũng rượu, đêm nào cũng thức, rồi phiện, rồi gái, làm gì mà không ốm. Chính tôi đây cũng có được khỏe đâu.
Bà Bái càng nóng ruột toan nói, nhưng Liễu hỏi tranh:
- Thế ở đây có cướp vào, trong ông Bá có biết gì không?
- Bẩm không.
Liễu lắc đầu, bà Bái nóng nảy hơn, nói:
- Đấy ông xem. Thế thì quá quắt lắm. Tôi đã bảo nhà tôi ở nhà, thì không nghe. Ông ạ, hôm nọ thằng bé ngã từ trên hè xuống sân suýt chết đấy. Khổ quá, ai lại bỏ nhà bỏ cửa từ hôm ấy không đảo qua về bao giờ.
Liễu can:
- Bà đừng trách ông ấy, người ta ai chẳng tham tiền.
Bà Bái cáu:
- Tiền! Tiền! Ông bảo được bao nhiêu. Được mấy chục đồng bạc, con đem về cho tôi một xu, tôi cứ chết. Mà tôi cũng dơ mặt chẳng thèm hỏi. Lại chết về gái thôi.
- Mà không khéo thì mắc nghiện chứ lành à.
Bà Bái tức:
- Mai tôi đến bắt nhà tôi về, không thì tôi cho làm tan hoang, chứ không thể để yên thế được.
Liễu lắc đầu:
- Không nên, bà nên giữ giá trị cho ông ấy. Rồi không khéo người ta lại bảo tôi xui bà. Vả bên ông lý đang hơn tôi một người, đời nào ông ấy để cho bà lôi ông Bái về.
- Ông cứ mặc tôi, tôi bắt nhà tôi về, về để lễ sống ông hai lễ.
Liễu xua tay:
- Ấy chết bà chớ! Tôi không dám. Tôi tưởng bà bắt ông ấy về bỏ phiếu cho tôi, tôi đã mừng.
Nói đoạn, Liễu cười hà hà như cười một câu nói đùa không đâu, rồi tiếp:
- Ấy hai bên, phen này chỉ hơn kém nhau có mỗi một phiếu. Về phần tôi nắm chắc cái thua, mà tôi thua thì tai hại chẳng kém gì mất cướp.
Bà Đám cảm động, thở dài:
- Ông biết như mất cướp, mà ông còn cứu cho gia tài người mất cướp. Thế mà người mất cướp lại vác mặt đi bầu cho người ra tranh với ông, thật là bạc quá.
Liễu nói tức:
- Nhưng ông ấy đương mê man, hiểu sao được lẽ phải như bà.
- Sao lại không hiểu, không hiểu, không yên được với tôi.
Liễu thở dài:
- Thế thì tôi đa tạ bà. Nhưng nếu bà bắt ông ấy về, và lại để ông ấy sang ăn uống bên nhà tôi, thì quyết bà mang thù mang oán, mà rồi ông lý trưởng bị thiếu phiếu, tất nghĩ mưu mẹo cướp người, có khi đến thành án mạng. Chi bằng bà cứ để vậy ông Đám ở bên ấy cho ông lý yên lòng. Rồi đến khi bỏ phiếu, ông Đám có yêu tôi thì viết tên tôi. Thế là êm thấm.
Thấy bà Bái nghĩ ngợi, Liễu tiếp:
- Còn tôi, tôi xin cam đoan giữ gìn nhà cửa hộ bà cho đến hôm bỏ phiếu xong.
Bà Bái đăm đăm đôi mắt, rồi đáp:
- Vâng, ông bảo thế nào tôi cũng xin nghe.
Liễu mừng rỡ:
- Xin bà giữ kín, đừng lộ cho ai biết, và bà nói cho khéo để ông ấy nghe theo.
- Ông đừng ngại. Tôi bắt nhà tôi làm gì không được.
Liễu móc túi, lấy chiếc phong bì dày, đưa bà Đám:
- Nhờ bà đưa cái này cho ông ấy hộ tôi.
Bà Đám mở ra thấy rặt giấy bạc:
- Ồ, ông lại cho nhà tôi tiền nữa ư? Tôi không cầm đâu.
- Không, mạnh về gạo, bạo về tiền. Hễ ông ấy thấy cái này, thì giá không muốn nghe bà cũng phải nghe. Tôi tốn kém kỳ này mấy nghìn, cho nên vài chục này có là bao. Bà không cầm, tôi cũng đến tiêu phí đi mất.
Bà Bái vốn tham lam, nói mấy câu lấy lệ, rồi nhận phong bì.
Liễu sung sướng:
- Thế bà tất lực hộ cho nhé. Từ nay đến hôm đầu phiếu, tôi không lại đây nữa đâu, sợ lộ. Nhưng ngộ ông ấy không nghe thì bà cho tôi biết ngay nhé.
- Ồ, ông tính người hay chó mà bảo không nghe.
Liễu cảm ơn bà Đám, đứng dậy ra về trong người nhẹ nhõm.
Trung ngã ngửa người.
Là vì sự phản bội, đến phút cuối cùng, ông mới biết.
Mấy hôm trước ngày bầu lại, lúc nào ông cũng hớn hở. Ông hết sức dèm pha Liễu, đổ tội cho Liễu đã làm cụ Tời chết, và cho là trời giành cho ông chức chánh tổng phen này.
Hôm công cử, thấy Liễu thuê hai ô tô, ông thuê những ba, để ra dáng ta nhiều cử tri hơn và để cử tri được ngồi rộng rãi. Ông bảo thầm đẩy tớ gởi sẵn trong nhà ông ký rượu phố huyện cái tráp sơn đen, cái điếu ống, và mang theo vào công đường chiếc áo thụng lam gói trong nhật trình. Để đến khi tuyên bố kết quả, ông có sẵn áo mặc vào lạy tạ các quan. Ông lại dặn chúng cẩn thận rằng hễ thấy ông ta đến cổng huyện là không cần hỏi gì cả, cứ đốt ngay một bánh pháo dài. Ông tưởng tượng đến sự mỉa mai của tiếng pháo ấy, nó phải xé ruột xé gan anh chàng Liễu ra chứ chẳng chơi.
Nào ngờ bánh pháo ấy nó làm chính tâm can Trung tan tác. Khi nghe tiếng nổ, ông chạy vội, hò đầy tớ dập pháo đi. Nhưng ngòi thuốc cứ lèm nhèm cháy, không thể dập được.
Nhất là thấy phe Liễu reo hò ầm ĩ. Trung căm tức. Ông đứng lại, trừng đôi mắt, chửi rầm rĩ. Một cuộc đánh nhau to suýt thành. Hai bên đầy tớ, không biết mang phòng khí giới đi từ bao giờ, đã đứng ra hai bên. Nhưng may, lính huyện ra đàn áp ngay.
Trung càng tức, nhìn theo phe Liễu hớn hở đi giữa bọn gia đinh vác gậy gộc xung quanh. Rồi không biết đổ uất ức lên đầu ai, ông đâm lại, vặc cử tri của ông. Ông chửi tuốt cả, đã phản bội, đã lừa, đã ăn của ông lại làm hại ông. Rồi cho bõ hờn, ông còn cho các tài xế đánh xe trả hiệu trên tỉnh, kệ các cụ lốc nhốc đi bộ về!
Đến nhà, Trung nằm vật xuống giường, lên cơn sốt kịch liệt. Miệng lúc nào cũng nhem nhém chửi Liễu và thằng nào phản mình.
Trung nhịn cơm hai hôm và ốm mất nửa tháng. Khi nghe tin Liễu sắp ăn khao, ông đe:
- Thằng nào đến ăn ông đánh què.
Nhưng ông không đánh què ai cả. Ông phải dùng kế cũ của Liễu, nghĩa là hối lộ cho mỗi người một xuất sưu, để đừng ai đến ăn.
Song, Liễu không chịu. Ông phải làm cho Trung biết rằng hắn không làm gì nổi ông. Nên Trung đã định cho người ta suất sưu, thì Liễu hứa ai đến ăn, không những ông biếu suất sưu, mà còn tiễn thêm đồng bạc nữa.
Bên nào tử tế là người ta hùa theo bên ấy. Cho nên tiệc khao chánh tổng vẫn sầm uất tấp nập như thường. Vả lại, muốn đề phòng sự chẳng hay xẩy ra trong mấy ngày nhà có việc. Liễu xin với quan cho hai tên lính súng về canh làng. Kỳ thực là để canh cho ông. Ông lại khôn ngoan. Ngày đầu ông rước quan huyện với ông Thừa. Ngày thứ hai, ông đón quan trợ với ông Lục. Ngày thứ ba, ông mời cụ phủ hưu trí và quan Nghị Đức. Nghĩa là trong từng ấy hôm, hôm nào trong nhà cũng có kèm một vị quan, để lấy thân thế đe dọa bên địch. Hễ ai dở dói điều gì. Những bậc tai mắt này sẽ làm chứng.
Bởi vậy hôm nào tiệc khao, cũng linh đình vui vẻ.
Từ ngày Liễu làm chánh tổng, ông lại sinh hoạt bằng cách chánh tổng. Chỗ ngồi chơi bây giờ quét vôi và kẻ hoa. Phía trong kê chiếc tủ chè, ngoài là hai tấm ghế gụ. Trong tủ ông bầy những thứ quý giá nhất, như chồng bát kiểu, nậm rượu sứ, lọ hoa giấy.v.v...
Những thứ ấy, chỉ tết ông mới trang hoàng nhà, thì bây giờ ông chưng cả ra cho có vẻ sang trọng. Trên tường ông treo san sát những câu đối đỏ mới của khách đưa mừng.
Ông cũng mới sắm cả tráp, và tập hút thuốc lào để dùng điếu ống. Ông mua cả nón lông đen thắt quai lụa bạch. Và con ngựa hồng thỉnh thoảng có việc đi đâu, ông đội nón lông, cưỡi ngựa hồng, đi trên đường cỏ xanh, theo sau một thằng nhỏ cắp tráp, xách điếu, thì ai cũng phải khen là phong nhã.
Lúc nào ông cũng vui vẻ. Nhất là nghĩ đến nỗi từ nay về sau. Ông hơn hẳn Trung, không còn ai có thể cãi được. Ông gọi Trung là thầy lý, để tỏ ra mình là người trên. Không cần ai bầu làm tiên chỉ. Nay không những ông nhất làng, mà nhất cả tổng nữa. Thấy nhạc ngựa ông, các bà đi chợ chẳng đứng rén sang bên đường ngả đón chào ông là cụ là gì.
Nhưng Trung vẫn không chịu, thường nói:
- Quyền hành đếch gì cái chức chánh tổng. Giỏi thì ra làm quan có được không. Vả lại, một người lý trưởng với một người chánh tổng, thì lý trưởng to hơn nhiều chứ. Lý trưởng đối với làng mới có quyền hành, chứ chánh tổng chẳng qua chỉ là cái hư vị.
Ngày làng vào đám năm sau, chánh tổng Liễu vênh vang áo mũ, một mình ở chiếu cạp hoa trên cùng, đứng chủ tế.
Ông lại thâm độc, cắt Trung vào bồi tế, đứng tận chiếu sau, cái chiếu trắng không cạp, ngang hàng với Bút, mới được làm chánh hội. Việc thần thánh, không lẽ Trung chối từ, sợ phải tội, nên ông chỉ có mặt ở đình lúc tế mà thôi. Chính tay Liễu viết văn, đứng tên một mình, và dạy người học cho thông để vào đọc chúc.
Ông nở nang mặt mày, khi nghe ề à những tiếng:
- Mệnh bái, nhâm tý khoa nhị trường, lĩnh tam giang tổng chánh tổng, Trịnh Văn Liễu...
Ông hể hả, cung kính giơ tay vái một cái.
Trung cho thế là một sự nhục cho mình. Vả lại không chịu dưới quyền Liễu, ông mới nghĩ ra là nên thôi lý trưởng. Phải, làm một anh nhà giầu, dân bất phiền, quan bất nhiễu, tự do hơn nhiều, mà cũng danh giá hơn nhiều chứ.
Bởi thế, ông vận động để được từ dịch. Ông Huyện thấy Trung xin ra ngoài tròng thì cũng tiếc, cố dỗ dành con bò vàng ở lại nhưng không được. Bất đắc dĩ ông phải nhận tiền cho Trung từ.
Được thôi việc, Trung vênh vang nói:
- Bây giờ tôi chẳng sợ thằng nào, tôi có thể ngồi ngang với quan được rồi. Mặc cho đứa nào cứ phải gãi đầu gãi tai, bẩm bẩm báo báo. Việc làm cụ nhất chết, thế nào tôi cũng kiện.
Nhưng Liễu bỏ ngoài tai những câu của kẻ khỏi vòng cong đuôi. Ông cho là từ nay đến mãi mãi Trung không thể tranh được với ông cái thủ lợn. Ông thỏa chí bình sinh.
Song bà Liễu đã trông rõ cái nguy cơ lớn nó thập thò ở cổng. Thóc lúa tiền bạc ruộng nương nó về tay người khác bao nhiêu, sự túng thiếu, vất vả khốn đốn về nhà bấy nhiêu. Đến nỗi năm nay không đủ vốn cấy có hơn mười mẫu, bà phải cho làm rẽ.
Bà thường khuyên chồng:
- Thôi nhé, mãn nguyện rồi, đừng chạy chọt công danh thêm nữa, mà rồi hết nghiệp đấy.
Ông chánh tổng cười, gõ tay vào tráp đáp:
- Kể ra tiền ai chẳng quý, nhưng nghĩ nó làm cho người ta thêm danh giá, thì cũng chẳng nên tiếc làm gì.
Rồi ông tiếp:
- Vật nhau keo nào nó thua keo ấy, từ nay dử kẹo nó cũng chẳng dám đọ sức với mình. Và bước công danh cũng chỉ đến chánh tổng là tột bực.
Nhưng Liễu không được yên tâm lâu. Bước thang công danh còn nhiều bực nữa, và còn tiền, có khi nào Trung chịu nhục lâu.
Năm sau, khóa nghị viện hết, cuộc tổng tuyển cử sẽ vào tháng bảy tây. Trung rục rịch ra làm dân biểu.
Liễu như bị tiếng sét. Nhưng biết làm thế nào. Tiền ông chẳng còn. Chẳng lẽ còn mươi mẫu ruộng ông bán nốt đi để ra tranh. Nhiều lúc cáu tiết, ông đã tính liều bước nữa. Làm ông Nghị, được người ta gọi là quan, danh giá bao nhiêu, song vợ ông cứ gàn. Bà lấy lý rằng vừa ra chánh tổng, tốn kém quá, nên để vài năm, nhờ trời làm ăn hồi đã, chứ mỗi năm một việc lo chạy, thì chưa biết chừng đói rách lúc nào.
Ông hơi chịu, nhưng vẫn hậm hực:
- Ra nghị viện, tôi có hai mục đích, một là giữ lấy thủ lợn cho mình, hai là để quật thằng Trung. Bà nó nghĩ thử xem, một ngày kia nó được làm nghị viện cả mấy hạt gọi nó là quan, và cũng được ngồi ngang với quan nữa. Chịu sao nổi cái tức ấy. Nhưng một hôm, Liễu quyết thôi hẳn việc dự định, vì ông rất mừng rỡ, thấy đã có hai người nữa ra tranh với Trung rồi. Mà hai tay, theo ý Liễu, đều là những hạng ghê gớm cả. Một người là con cụ cả tuần Nguyễn xưa kia là tuần phủ tỉnh nhà, ông này tuy chẳng làm gì, nhưng có đồn điền ở Vĩnh Yên, một hôm ông ta đến chơi với Liễu để nhờ cổ động hộ. Ông ta trẻ, đẹp chơi rất sang, đi chiếc ô tô mới tinh tươm.
Một người, tuy không phải con cháu quan nào, nhưng lại làm báo. Liễu cũng đã được tiếp, và ông ta đến nhờ Liễu giúp sức. Tay này ăn nói ghê gớm lắm, nhưng muốn chừng ít tiền.
Muốn đánh đổ Trung cố nhiên Liễu phải về phe với đối phương. Nhưng nên bênh ông làm báo hăng hái, nói nhiều điều có lý, hứa nhiều việc có ích, hay nên giúp con cụ tuần để sau này lấy thế thần? Liễu phân vân.
Đắn đo mãi, nhất là chưa thấy bên nào đả động đến số tiền bỏ ra mua phiếu, Liễu mới nghĩ tốt hơn hết là lên huyện hỏi ý kiến quan phụ mẫu. Thì cũng may, quan phụ mẫu nhắn ông lên để dặn dò việc bầu.
Sau khi biết ý kiến Liễu, ngài dạy:
- Khó gì mà thầy chưa quyết định; thầy làm chánh tổng, dưới quyền ông quan, thì đi bỏ phiếu cho ông nghị viện cũng là một chức quan, lý tất nhiên là thầy nên bầu cho con ông quan. Còn như tên làm báo kia tôi cấm chỉ không ai được giúp hắn.
Trong nửa tháng trời, một hôm Liễu nhận được một tờ giấy in, và vài ngày lại phải tiếp một người khách lạ. Ông như cô con gái đến thì, tường đông phấp phới những ong bướm. Song, vì sợ quan, ông khó chịu nhất là phải nói chuyện với cổ động viên của "tên" làm báo.
Phải, người này không những chẳng đả động gì đến tiền nong, mà còn chửi bới mãi hạng mua danh bằng tiền và hạng cử tri tham lợi. Hình như họ chẳng coi ông quan ra gì, nên nói những tiếng rất dữ dội, khiến Liễu nghe mà cứ giật mình thon thót. Cho nên đối với bọn bướng bỉnh, phản đối này, Liễu chỉ ừ hữ. Rồi sau họ đến, ông trốn xuống nhà dưới, nói dối là đi vắng.
Còn con cụ tuần thì Liễu nhất định bầu cho rồi, nên Liễu đáp:
- Quan tôi đã bắt bỏ phiếu cho ngài đời nào chúng tôi dám trái ý. Vả lại, cụ lớn cũng là phụ mẫu chúng tôi.
Khách nói:
- Vâng, các ngài là hạng tai mắt trong hạt, hẳn các ngài chọn người phải sành. Chắc chả bao giờ các ngài bầu cho một người lạ, hoặc cho anh lý dốt nát.
- Cái đó đã hẳn. Tôi làm chánh tổng, sao tôi lại để cho người lý trưởng thay mặt được.
- Nhưng còn anh làm báo nói bẻm kia?
- Ồ, ai muốn ngồi tù thì bầu cho hắn. Quan tôi bảo thế.
- Ngài thật thức thời. Tôi mong ngài làm ơn cổ động dùm cho tôi.
- Quan tôi đã bảo, ngài cứ yên tâm. Nhà làm báo kia, tôi không dám dây đến đã đành, còn lý Trung, chữ nhất bẻ đôi không biết, lại là thù địch với tôi, sao tôi bầu cho hắn được.
Song, tuy Trung không biết chữ nhất bẻ đôi, nhưng ông biết phận. Ông không cậy thần thế ông cha, nhờ các quan địa phương bênh vực mà mua rẻ lá phiếu. Ông không cậy có tài, có học, có nhiệt huyết, đi thuyết miệng để mong đánh thức sự công tâm của dân quê mà không chịu mất tiền. Đánh vào chỗ yếu của cử tri, ông mở tung túi bạc. Ông phải thắng, thắng để được ngang với thầy Liễu, cướp lấy cái thủ lợn.
Cố nhiên, ông bán ruộng, và mỗi lần năm mẫu một. Chỉ mấy hôm, mấy trăm bạc đem về hết thun thút. Ông thấy lo nghị viện, không thấy bận bịu như lo chánh tổng. Chỗ nào có người quen, ông khoán cho người ấy cả sự mua phiếu lẫn tiếp khách. Còn ông, ông thuê riêng một chiếc ô tô, nay ở hạt này, mai ở hạt khác. Đến huyện bên cạnh, ông gãi tai nói với cử tri:
- Các cụ thương mà bầu cho cháu, còn hơn để người ở đâu ấy làm nghị viện.
Về huyện nhà, ông cũng lễ phép thưa:
- Khóa trước huyện ta đã được, khóa này lại nhờ các cụ cho cháu ra, để lấy danh giá cho hạt nhà.
Ngày đầu phiếu sắp đến, Trung càng bận rộn. Bởi vì tiền nhà đã cạn, nên ông phải bán thêm ba mẫu ruộng mầu để ngày công cử thuê nhiều ô tô. Chẳng bữa nào ông được hút thỏa, vì ông có được thanh thản nằm ở đâu lâu đâu. Những điếu thuốc phiện mà chỗ nọ mời, chỗ kia mời, ông thấy nó nhạt phèo. Ông cố mong cho qua ngày để được nghỉ ngơi hút lại bữa cho thỏa thuê.
Ngày đầu phiếu đến nơi, Trung thấp thỏm, mà Liễu cũng lo lắng. Trung ngồi ô tô chạy đi khắp nơi bỏ phiếu để xem xét tình hình. Liễu cũng sai người đi nghe ngóng. Trung sung sướng, mau chóng đến chiều để được thấy mình thắng phiếu, một bước lên quan. Liễu buồn rầu nghĩ đến nỗi căm hờn, khi nghĩ đến bên địch vênh vang về làng đốt pháo.
Nhưng thật là đen cho Trung. Trung lại trượt! Chỉ có trăm rưởi phiếu bầu cho Trung, tuy hơn con cụ tuần sáu mươi lá, nhưng kém "tên" làm báo khố dây những bốn trăm.
Trung rụng rời, rú lên một tiếng, lại bắt đầu sốt. Và ông rên lên ầm ầm, khi nghĩ đến trong làng có một người đang nhảy múa cười hà hà.
Thua kèo này, bày keo khác, đó là sự làm việc của người kiên nhẫn.
Trung kể là kiên nhẫn vào bực nhất. Ông phải cố hết sức để thắng nổi Liễu mới nghe.
Cho nên sau một tháng tẩm bổ, ông khỏe mạnh như thường, thì một dịp tốt đưa đến, ông không bỏ lỡ, đó là việc ông chạy Hàn lâm.
Không biết ông phải tốn kém mất bao nhiêu, mà dân làng phải rất đỗi ngạc nhiên, là thấy bao nhiêu văn tự ruộng, ông cầm ráo cả. Về việc này, quan huyện phải thức suốt một đêm mới nghĩ ra công của Trung, để chữa vào lý lịch. Bởi vì ngài nói:
- Thầy phải làm một việc gì công ích cho dân, hoặc xây đường mở chợ, lập trường cho làng, hoặc bỏ tiền ra phát chẩn cho dân bị lũ lụt thì tôi xin mới dễ.
Nhưng Trung gãi tai, thật thà đáp:
- Lạy quan lớn, chúng con không dám kêu man cửa quan lớn, mấy năm nay, con chót tranh nhau vị thứ với thầy chánh tổng, nên kiệt sức lắm rồi. Giờ con chỉ đủ để đến kêu cửa quan lớn và các nơi mà thôi. Việc này dù tốn kém bao nhiêu mà được việc con cũng xin cố.
Bởi vậy quan huyện ghi cho Trung là đã có công lớn về việc cứu tế xã hội. Ngài khai chính Trung giúp các quan về việc hộ đê năm ngoái và hết lòng với cuộc trị an.
Nhưng lời khai cứ là lời khai, mà cái kết quả của sự đắc thắng phải là tiền. Quan huyện đưa Trung vào lạy lục cụ Tuần, rồi bởi có hai ngài mạnh thế, và độ ấy xin phẩm hàm không khó khăn lắm, nên Trung được thưởng hàm Đãi-chiếu.
Liễu như chết điếng. Ông không chịu cho một thằng dốt nát hưởng hàn lâm, để rồi nó được ăn tiên chỉ. Ông nói:
- Tôi tố cáo đến kỳ cùng. Nó chỉ làm hại làng chứ đã làm cho làng được cái gì?
Song, nghĩ đến kiện cáo, ông lại giật mình. Ông bèn tìm đến cách trả thù không tốn tiền, là viết những bức thư dài, tố cáo tội trạng của Trung, để gửi ngầm liên quan trên. Ông yên chí rằng rồi Trung sẽ bị thu lại bằng sắc. Nhưng đến nửa tháng, công việc của ông chẳng có kết quả gì.
Ông thở dài. Mà ức nhất là bị Trung gọi lại bằng thầy. Thấy người làng gọi Trung là quan hàn Trung, có kẻ trịnh trọng gọi Trung là quan hàn Nguyễn, Liễu bầm gan tím ruột. Thật là không còn trời đất nào nữa. Lại ít lâu nay, sao lắm người đến chơi nhà Trung thế. Hình như họ nghĩ đến tiệc khao sẽ tới mà phải gây cảm tình sẵn với người cho ăn. Không thể như thế được. Liễu bèn xin từ chánh tổng, để Trung mất gọi mình xách mé, rồi xui người làng làm đơn kiện Trung, xin nhà nước tiêu thu bằng sắc của người có tội. Ông đành bỏ tiền ra vậy.
Ông sửa một bữa rượu, mời dân làng đến chén, rồi đứng dậy nói:
- Thưa các cụ, việc ông lý Bá làng ta được hưởng hàn lâm, chắc các cụ đã biết. Cái đó, âu cũng là một sự danh giá cho làng. Nhưng tôi thiển nghĩ, hàm hàn lâm chỉ dành cho những người văn hay chữ tốt hoặc người đã có nhiều công trạng. Tôi xét ông lý Trung không đáng được nhà nước thưởng về một lẽ gì cả. Cho nên anh em ta nên ký chung vào một đơn, để tố cáo ông ta. Xin nhà nước xóa cái hàm ấy đi. Bởi vì, nếu bất cứ ai có tiền cũng được phẩm hàm, thì rồi ai thiết làm việc gì công ích nữa.
Các cụ ngồi nghiêm chỉnh, nhìn nhau để xem ý nhau.
Bút khen:
- Cụ chánh nói phải lắm.
Liễu tiếp:
- Đây tôi đã thảo một lá đơn, giá một mình tôi ký rồi đệ lên quan trên cũng được, nhưng tôi muốn xin cả chữ các cụ cho lời nói thêm sức mạnh.
Soang nói:
- Cụ kể tội lý Bá những gì?
- Vâng, tôi nói sơ lược cho các cụ nghe, rồi chốc nữa xin cùng bàn để viết đơn. Năm Tý, lý Trung hà lạm tiền thuế, sự đó dân đã kêu đến tai quan trên. Năm Sửu, Trung đánh dân, bắt dân đi đê mà chẩm món tiền Nhà nước trả lại. Sự này khi cụ Tú còn làm chánh hội có phát đơn kiện. Năm Mão, Trung ăn tiền của thân nhân người mắc bệnh thời khí để giấu quan trên, đến nỗi làng bị tai hại. Năm Thìn, Trung bỏ việc tuần phòng, có cướp vào mà không biết, sau quan trên hỏi, lại trình là có trộm. Lại năm Thìn, Trung đã lộng quyền, bắt đám người che lọng khi rước sắc thần từ miếu về đình, tại năm Thìn nữa, khi tranh cử nghị viện, Trung dám cắm đằng mũi ô tô chiếc cờ vàng, lá cờ của vua.
Bà Xích ngắt lời:
- Ấy, hình như đấy là xe có bảo hiểm nên có cờ ấy đấy chứ.
Liễu cau mặt:
- Thì vàng hẳn hoi, mắt ông trông thấy mà lị.
Bút nói:
- Những việc về năm Thìn, ông xếp đặt cho có thứ tự trước sau.
- Vâng, lại năm nay, Trung nói dối Nhà nước để xin tư phẩm hàm. Đấy, tôi chỉ đơn cử những việc lớn.
Mọi người bàn đi tán lại, rồi Liễu loay hoay viết đơn. Nhưng khi ngẩng lên, ông chỉ thấy còn có bảy người nằm quanh bàn đèn. Còn những mặt đỏ khác, cái nhăn nhó kêu đau bụng phải vội về, cái hốt hoảng đi, nói rằng con ốm nặng; cái vờ vĩnh nói bận chút việc chốc nữa lại đến; cái sợ sệt, thú rằng không muốn lôi thôi.
Liễu tức lắm, đành lấy bảy chữ ký, họp với mình là tám. Rồi ông nói:
- Tám chúng ta không bắt lý Trung phải thất điên bát đảo à?
Liễu thắng ngựa lên huyện.
Từ lúc ấy, tiếng xì xào trong làng trở nên ồn ào dần. Chỗ này người ta đoán Trung bị tước Hàn lâm; chỗ kia người ta chắc rồi quan huyện đến phải triệt.
Nhưng sự thực, Trung đã vọt lên huyện trước Liễu để nói lót. Nên khi Liễu đến công đường, quan cầm lấy đơn, mỉm cười vỗ vai, mời Liễu ngồi và ôn tồn nói:
- Thầy khí chậm quá. Tôi tiếc không làm được thầy vừa lòng. Vả lại nếu thầy bảo Nhà nước lầm, thì Nhà nước là ai? Nhà nước là tôi, là cụ Tuần, là cụ Chánh sứ, là cụ Thống sứ chứ ai? Vậy thầy thử nghĩ xem, thầy đương là dân, vậy có nên tố giác sự lầm lẫn của quan trên hay không. Bởi vì đây không phải là thầy kiện Hàn Trung mà chính là thầy kiện các quan kia đấy.
Liễu gãi tai không đáp thế nào được nữa. Ông huyện lại nói:
- Nghĩa là công việc đồng lần, rồi vài tháng nữa triều đình có án điểm, ai muốn tự xin hàn lâm, tôi lại xin cho.
Câu nói làm Liễu nghĩ ngợi:
- "Hay mình cũng xin".
Ý mới ấy luẩn quẩn trong óc Liễu. Ông huyện cười, nói sát sạt:
- Được hàn lâm bao giờ chả hơn. Làm gì cũng không được danh giá bằng quan hàn. Liễu ngẩn ngơ hỏi:
- Lạy quan lớn, một làng hai hàn lâm có được không ạ.
Quan cười:
- Một trăm, một nghìn hàn lâm cũng được, chỉ sợ không có người đủ tiền lo mà thôi.
Liễu về làng, ai hỏi kết quả việc kiện Trung thế nào, ông cũng không nói, mà ông còn muốn gạt đi là khác.
Người ta không hiểu sao. Cả Trung nữa. Nên Trung càng lo cho rằng dễ thường Liễu bí mật, và ông huyện lại lừa mình, chấp đơn của Liễu hay sao.
Vì vậy Trung lại kiếm cái quà lên hầu quan phụ mẫu để hỏi ý.
Nhưng sự thực, công việc làm của Liễu rất dễ hiểu. Sau một cuộc dỗ dành vợ rất kỹ lưỡng, Liễu quyết cũng xin hàn lâm, để khỏi kém Trung.
Ruộng ông không còn mấy để bán, thì ông đem văn tự nhà đi cầm rồi hỏi dấm nhiều món ở những người quen thân. Ông lại khuyên người làng nên kính trọng quan trên, và bảo quan trên là những vị thần linh, hành vi không bao giờ lầm lẫn. Lầm lẫn, có chăng hạng chỉ ngồi xó bếp nói chuyện triều đình.
Bởi vì trong cuộc vận động phẩm hàm của Liễu, Liễu được quan phụ mẫu ghi vào lý lịch những công trạng mà ông chẳng làm bao giờ. Năm Sửu, chính Liễu đã phát chẩn cho dân bị lụt trong làng hai tấn gạo, song vì không muốn lấy tiếng, nên không trình quan trên, và mới đây, Liễu làm chánh hội và chánh tổng, một mặt hết sức khai hóa cho làng, một mặt giúp sự trị an trong làng.
Liễu được quan phụ mẫu đưa vào nhiều nơi quyền thế. Song, vợ ông cho thế là chưa đủ. Bà còn hối lộ cả thần thánh trong các đền, các phủ có tiếng là thiêng.
Muốn yên thân lúc này, Liễu đình hẳn sự trục trặc với Trung.
Việc Trung mở tiệc khao linh đình mà làng đoán sao cũng lợi suất sưu thuế tẩy chay, thì là việc hão. Tuy Liễu không đến, nhưng không xui ai điều gì. Trung đề phòng trong mấy ngày có việc, thành ra hoàn toàn vô ích.
Chỉ có hai điều Liễu hết sức lo lắng và quyết thế nào cũng ngăn trở thì lại chưa xảy ra. Việc họp dân để bầu tiên chỉ và việc tế thần bất thường. Nếu có việc thứ hai này, ông phải đau đớn nhìn cái thủ lợn về tay bên địch.
Vợ ông, mỗi khi nghĩ đến gia tài hết mau chóng quá, thì lại thở dài phàn nàn:
- Được làng biếu thì danh giá thực, song, nghĩ đến cửa nhà sa sút mà đau lòng.
Biết bao giờ mới gây dựng được cơ nghiệp như cũ.
Một hôm, quan phụ mẫu đưa Liễu xem tờ báo đăng đúng tên ông được thưởng hàn lâm.
Ông như trúng số độc đắc, suýt ngất đi về mừng. Ông quên cả lễ phép, rú lên một tiếng ngay trước mặt người trên, rồi cười như điên dại.
Hầu chuyện quan một lát, ông nóng lòng nóng ruột. Ông muốn mau mau về ngay làng, đem tờ báo ấy cho cả dân được xem.
Rồi ông phi ngựa về. Ngay tối hôm ấy, ông mời hết người nọ đến người kia lại chơi để khoe tin mừng. Trong lúc sung sướng, ông thốt ra những lời thật hể hả: - Thế mới biết nhà nước công bình, chả lẽ quan hàn Nguyễn được mà tôi không được.
Ông gọi Trung thế để làm gương cho làng gọi mình là quan hàn Trịnh.
Bấy giờ bạn hữu mới hiểu về việc ông thôi kiện kẻ thù. Thì ra tức là ông xui họ rồi đừng kiện ông nữa.
Song, Trung chẳng để Liễu yên. Thế là lại sểnh cái thủ lợn. Cho nên, Trung hội họp các đàn anh trong làng, mời chén, mời phiện rồi lấy chữ ký vào đơn tố giác Liễu. Ông tìm hết tội Liễu từ ngày ra làm chánh hội. Đơn ấy dài đến ba trang, từ tội to là giết chết thằng Cáy, đến tội nhỏ là ăn hai hào bạc của con mẹ bắt cua.
Nhưng có điều lạ, là lá đơn ấy không đệ tới huyện. Mà có lẽ nó không bao giờ tới bàn giấy quan nữa. Chẳng phải Trung đã được quan phụ mẫu cho một bài học hòa bình. Nhưng ông cần chờ dịp. Hiện nay ông không sẵn tiền. Kiện nhau mà không đút lót cửa công thì chỉ phí toi tờ giấy.
Nhưng dịp ấy chắc không bao giờ đến được. Ruộng vườn ông chẳng đã hết sạch rồi còn gì. Cho nên ông đành hậm hực, gác câu chuyện tình địch lại một xó.
Về phần Liễu thì cũng rứa, bây giờ Liễu lại mắc nợ. Ông cố xoay món tiền để khao hàn lâm cho linh đình. Nhưng không sao được. Ông chỉ cố được trăm bạc để sửa lễ đình và mời quan dân ăn phiên phiến mà thôi. Khổ cho ông nữa, là ông phải bỏ ngoài tai những chuyện người ta nói về Trung. Nhưng không bao giờ ông dám nghĩ đến sự kiện cáo.
Đến bây giờ, bảy năm qua, làng Từ Lâm vẫn chưa phân ngôi tiên chỉ. Hàng năm, muốn tránh sự xích mích về vị thứ của đôi bên kình địch đã trở nên quan, thì khi vào đám, dân phải có đủ lọng che cho hai ông hàn mũ áo đi ngang nhau, sau long đình rước sắc. Hai ông cùng vào mệnh bái, cùng lễ chiếu cạp hoa, và khi xướng "đọc chúc", ông từ phải vào tận hậu cung thỉnh chuông ba tiếng.
Tế xong, làng biếu mỗi ông một nửa thủ lợn.
Nhìn thấy thủ lợn bổ đôi, cả Trung lẫn Liễu cùng hậm hực, xong đều phải chịu nhận.
Mấy năm lụt lội, hai ông càng quẫn bách, và do thế, chịu hòa nhau.
Song, tiếng rằng hòa nhau, mà bằng mặt chẳng bằng lòng. Một đôi khi, làng có việc họp, hai ông cũng có nói chuyện, gọi nhau là quan đấy, nhưng nét mặt gượng gạo, hình như cũng dè dặt từng lời.
Cái thủ lợn chưa về hẳn ai. Liễu và Trung cũng chửa nhịn nhau, song, hãy hết sức tránh những việc tốn kém, mà chỉ găng nhau về những cái không phải dùng đến tiền.
Thấy đầu Trung lốm đốm hoa râm, từ nay Liễu để ria mép. Khi bộ ria ấy đủ dài để trông rõ, Trung vội vàng cho mọc nốt râu cằm để có vẻ già hơn. Mà rồi Liễu cũng bắt chước thế, chứ không lép.
Nhưng dù không có cuộc thi để râu như vậy, thì hai ông cũng chẳng còn son trẻ gì. Mấy năm nay, Liễu không trắng đẹp, và mắt Trung không dễ chịu như trước nữa. Sự buồn rầu và lo nghĩ đã đào những nét nhăn nheo trên má và trên trán cả hai người cho mặt thêm vẻ đau đớn. Thực là những mặt chiến sĩ tha thiết tranh đấu để thờ một chủ nghĩa, chủ nghĩa xôi thịt, đã từng xông xáo trong bao lớp phong ba.
Hai ông như đôi ngựa, sau khi gắng sức để đoạt giải, thì bây giờ hãy nghỉ, tạm nằm một xó để thở. Để hầm hè nhau. Để nói xấu nhau, và để chờ.
Bởi vì, một ngày kia, biết đâu, trời thương cho được mùa luôn vài vụ, hai ông sẽ cùng làm ăn khá giả.
Đấy, khi mỗi người trong tay đã có một vài nghìn thì quyết sự kình địch lại phải thức dậy vào hoạt động. Làng Từ Lâm ngày ấy, sẽ lại được trông thấy những việc kiện cáo lung tung, những cuộc luồn lọt ngấm ngầm hoặc để tước hàm nhau, hoặc được thăng hàn lâm cung phụng.
Chứ hiện bây giờ, cái thủ lợn luộc tế thần vẫn híp mắt, soạc mồm ra cười, có vẻ chờ đợi...
1939
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
Mời đọc và lấy về PDF (NXB Đời Mới, 1945 - 220 trang).
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
(NXB Thanh Niên 2002 - Mai Thời Chính - 747 Trang)
Mời đọc và lấy về PDF
Mời đọc tại ISSUU
https://issuu.com/hoan8/docs/cai_thu_lon
0 comments:
Đăng nhận xét
[im]your image url..[/im]
[youtube]your video url..[/youtube]
[si="10"]your text[/si]
[co="red"]your text[/co]
〈div style=""〉 TEXT〈/div〉