Ads 468x60px

.

Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2025

Chuyện tình Lan và Điệp từ cải lương bước sang tân nhạc - Ngành Mai, thông tín viên RFA


Chuyện tình Lan và Điệp
từ cải lương bước sang tân nhạc

Ngành Mai,
thông tín viên RFA


P1
Hình ảnh Thành Được và Thanh Nga trong vở Lan và Điệp.


Bất tử với thời gian
Từ hơn bảy thập niên qua, kể từ ngày vở hát Lan và Điệp của soạn giả Trần Hữu Trang, tức Tư Trang được trình diễn trên sân khấu Năm Phỉ thì phần lớn khán giả cải lương sành điệu, đã biết qua tình tiết lớp lang câu chuyện diễn tiến từ đầu tới cuối.

Buổi trình diễn khi vở hát mới ra đời ấy, do cô đào Năm Phỉ đóng vai Lan, kép Tư Út đóng vai Điệp, đôi nghệ sĩ tiền phong thượng thặng này đã mở đầu cho hai nhân vật chính Lan – Điệp trở thành bất tử với thời gian. Bởi trong lịch sử nghệ thuật sân khấu chưa có vở hát nào được giới mộ điệu ưa thích, đến đỗi càng về sau câu chuyện càng mở rộng xâm lấn sang các lãnh vực văn nghệ khác.

Trước tiên Lan và Điệp được hãng dĩa hát Asia thâu thanh với tên tựa “Hoa Rơi Cửa Phật” phát hành cùng khắp từ Nam chí Bắc.

Dĩa hát cũng được bán qua Miên, và theo theo như nhà phát hành lúc ấy cho biết, thì kiều báo xứ Chùa Tháp họ tiêu thụ dĩa hát này nhiều gấp 3, 4 lần đại lý dĩa hát ở Cần Thơ. Do ở đất Miên dễ làm ăn, người ta dám mua sắm, vả lại số người sang đây lập nghiệp đại đa số là người Nam Kỳ Lục Tỉnh, mà cổ nhạc cải lương đã gắn liền với đời sống tinh thần của họ.

Dĩa “Hoa Rơi Cửa Phật” cũng được đưa sang Lèo và cả ở bên trời Tây, do vậy mà kiều ở Pháp vẫn còn những người lưu giữ các dĩa hát xưa ấy. Song song đó cuốn bài ca “Hoa Rơi Cửa Phật cũng được ra đời bán ở các chợ miền quê, chợ nhỏ, lớn nào cũng có người bán. Rồi cũng từ đó các gánh hát bầu tèo (gánh hát nhỏ) ở thôn quê đã sao chép lời ca, lời đối thoại, rồi thêm thắt vào dựng lên tuồng cải lương Lan và Điệp phục vụ bà con ở thôn quê và cũng được hoan nghinh.



Tân nhạc chào đón Lan và Điệp
Từ khi vở hát Lan và Điệp ra đời hiện diện trên sân khấu suốt hai thập niên, hầu như không ai nghĩ đến chuyện sẽ có ngày Lan và Điệp lại có thể chen chân vào lãnh vực tân nhạc. Bởi tân nhạc có một lối sinh hoạt khác xa với cải lương, có người còn nói tân nhạc và cổ nhạc hình như không thích nhau. Thế mà đến giữa thập niên 1960 tân nhạc đã mở rộng cánh cửa thân tình, chào đón Lan và Điệp, đo là năm 1965 người ta bất ngờ nghe xướng ngôn viên Đài phát thanh Sài Gòn giới thiệu nhạc bản “Chuyện Tình Lan và Điệp” của Mạc Phong Linh và Mai Thiết Lỉnh.

Bản nhạc có lời ca điệu nhạc truyền cảm ấy được thính giả lúc bấy giờ ưa thích, gởi thơ yêu cầu nhiều nên Đài phát thanh Sài Gòn và đài Ba Xuyên đã cho phát đi phát lại bản nhạc này nhiều lần, đen đỗi có người nghe riết rồi thuộc lòng và hát luôn.

Có điều lạ là đa số thính giả yêu cầu đài phát bản “Chuyện Tình Lan và Điệp” lại là thính giả thường nghe chương trình cổ nhạc cải lương, và họ cũng nói phải chi bản nhạc này mà có Út Bạch Lan, Thanh Nga, Thành Được ca thêm vài câu vọng cổ thì hay biết mấy.

Thế là hãng dĩa hát Hồng Hoa đã “bắt mạch” được, họ thương lượng với tác giả bản nhạc mua bản quyền và “đặt hàng” cho soạn giả Viễn Châu viết thêm lời ca vào, đồng thời chọn các ca sĩ tân cổ nhạc đang nổi tiếng lúc bấy giờ là Thanh Tuyền, Hồng Phúc, Thanh Nga, Thành Được, Tấn Tài. Còn đệm tân nhạc thì hãng chọn ban nhạc Huỳnh Anh, về cổ nhạc thì nhạc sĩ Năm Cơ đờn kìm, Bảy Bá đờn tranh và lục huyền cầm, Tư Huyện đờn vĩ cầm. Với thanh phần ca nhạc sĩ khá hùng hậu này mà hãng chỉ thu thanh có một dĩa nhựa 45 tua, thì phải nói rằng hãng dĩa Hồng Hoa đã chịu bỏ tiền đầu tư một số vốn khá lớn vậy.








P2
Bìa đĩa hát cải lương Chuyện tình Lan và Điệp.


Vọng cổ có pha tân nhạc
Dĩa hát tân cổ giao duyên “Truyện Tình Lan và Điệp” phát hành đã bán khá chạy, bởi đa số những người có máy hát dĩa thời đó đã không bỏ qua dĩa hát trữ tình này. Đồng thời đã không ít những người yêu thích tân nhạc họ cũng khen hay, do đó là động lực cho hãng dĩa Hồng Hoa tiếp tục cho phát hành dĩa vọng cổ có pha tân nhạc, với những bản nhạc đang được ưa chuộng.

Tiếp theo đó thì lại thêm những hãng dĩa khác ra đời, xuất hiện với nhiều nhãn hiệu mới, mà hầu như hãng nào cũng nhắm vào khai thác bài tân cổ giao duyên.

Lúc bấy giờ do vấn đề thương mại, các hãng dĩa đã không còn sản xuất dĩa hát rặc ròng 6 câu vọng cổ nữa, mà hầu hết đã tìm các bản nhạc từng nổi tiếng nhiều năm trước, để biến thành bài tân cổ giao duyên.

Theo lập luận của hãng dĩa, tức những người làm thương mại họ tính toán khá kỷ, thì tuy rằng bài tân cổ giao duyên có làm “trái tai” với một số người vốn bảo thủ bài vọng cổ thuần túy, nhưng nó lại thích hợp với một số đông đảo hơn, với những người thưởng thức cổ nhạc thời ấy. Do vậy mà số thính giả bảo thủ dù muốn dù không cũng “bị” nghe tân nhạc xen vô vọng cổ.



Bài vọng cổ chỉ còn 4 câu
Người ta nhớ lại từ đầu thập niên 1950 cho đến năm 1965, soạn giả viết bài ca luôn đầy đủ 6 câu vọng cổ, mà thông thường nói lối xong xuống hò vô câu 1. Khi dứt câu 3 nói lối trở lại và xuống hò vô vọng cổ câu 4.

Thời đó các soạn giả viết bài ca vọng cổ đã theo quy luật này, và những bài vọng cổ đủ 6 câu cũng thịnh hành một thời như. Xâu Gùi Bến Cát, Đội Gạo Đường Xa, Mồ Em Phượng, Tình Anh Bán Chiếu, Gánh Nước Đêm Trăng, Lòng Dạ Đàn Bà, Tu Là Cội Phúc, Tiếng Đàn Trên Bắc Mỹ Thuận, Bá Nha Tử Kỳ...

Cũng có trường hợp soạn giả đã thay thế nói lối bằng mấy câu thơ lục bát. Soạn giả Kiên Giang vốn là thi sĩ nên bài vọng cổ của ông ngoàiviệc cho thơ thay thế nói lối, mà còn đem thơ vào luôn câu ca vọng cổ, thường là 8 nhịp dứt câu. Nhưng dù cho thơ vào, thì bài vọng cổ vẫn đủ 6 câu chớ không cắt bớt.

Thời điểm ấy đờn ca tài tử khi nhập cuộc thì ca đủ 6 câu vọng cổ, kể cả các bài vọng cổ hài hước do Hề Minh và Hề Văn Hường ca. Thế nhưng, từ ngày bài tân cổ giao duyên “Truyện Tình Lan và Điệp” ra đời đã dẫn theo hàng loạt bài tân cổ giao duyên khác, do vậy mà bài vọng cổ chỉ còn 4 câu.

Câu thứ 4 bị mất trước tiên, rồi thì câu 3 cũng bị bỏ đi, cho dù cắt bỏ câu nào cũng được, riêng câu 6 thì giữ nguyên phần xuống “xê” và 8 nhịp chấm dứt bài ca.

Do yêu cầu của nhà sản xuất dĩa hát, nên soạn giả bắt buộc phải bỏ bớt 2 câu để xen tân nhạc vào cho hợp với kỹ thuật thu dĩa, mỗi bài tân cổ giao duyên vô một mặt dĩa, không thể dư được.

Lúc bấy giờ có người thắc mắc với soạn giả Viễn Châu, rằng tại sao không viết trọn bài vọng cổ 6 câu, mà viết toàn vọng cổ pha tân nhạc, làm vọng cổ mất đi 2 câu, như vậy dân đờn ca tài tử đâu có ca được. Soạn giả Viễn Châu đã trả lời: Nếu viết cho đủ 6 câu, tức là không có chen tân nhạc thì ai trả tiền? Hãng dĩa chỉ mướn mình viết vọng cổ dựa theo bài tân nhạc, chớ còn viết đủ 6 câu thì phải đi chào hàng khó ăn hơn nhiều, mà chắc gì hãng dĩa chịu mua. Thôi thì viết bài ca được “đặt hàng” đôi khi còn nhận tiền trước.

Do vậy mà từ khi tân cổ giao duyên ra đời, dân đờn ca tài tử chỉ ca các bài bản cũ 1965 trở về trước, mà bài được ca nhiều nhứt phải nói là bài “Tình Anh Bán Chiếu ” của soạn giả Viễn Châu.



Ngành Mai

Đĩa hát cải lương Chuyện tình Lan và Điệp.



Thứ Năm, 3 tháng 7, 2025

Tác phẩm “Tắt Lửa Lòng” và soạn phẩm “Lan và Điệp” - Ngành Mai, thông tín viên RFA


Tác phẩm “Tắt Lửa Lòng”
và soạn phẩm “Lan và Điệp”

Ngành Mai,
thông tín viên RFA


Soạn giả Trần Hữu Trang.
Thập niên 1940, soạn giả Tư Trang, tức Trần Hữu Trang đã dựa theo cuốn “Tắt Lửa Lòng” của Nguyễn Công Hoan để soạn thành vở ca kịch “Lan và Điệp”, đưa lên sân khấu, do cô đào Năm Phỉ đóng vai Lan, kép Tư Út đóng vai Điệp. Đôi nghệ sĩ tiền phong thượng thặng này đã mở đầu cho 2 nhân vật chính “Lan – Điệp” trở thành bất tử với thời gian.

Vậy sau khi được đưa lên sân khấu rồi, Lan và Điệp còn bước sang bao nhiêu lãnh vực nghệ thuật khác nữa? Tôi xin trình bày sau đây, mời quí vị theo dõi...

Ăn khách
Nhận thấy tuồng “Lan và Điệp” quá ăn khách với nhiều đêm hát đông nghẹt khán giả, do đó đã làm động lực cho hãng dĩa hát Asia tìm đến soạn giả Tư Trang để thương lượng thu thanh dĩa hát. Đồng thời hãng cũng yêu cầu soạn giả viết ngắn lại, làm sao cho tuồng thu ít dĩa càng tốt. Bởi trước đó các bộ dĩa “San Hậu” và “Quan Âm Thị Kính”, bộ nào cũng trên 10 dĩa nên tiêu thụ chậm, khó bán.

Để đáp ứng yêu cầu của hãng dĩa, Tư Trang đã rút gọn tình tiết vở tuồng, bỏ bớt phần đầu nên Lan và Điệp chỉ thu thanh gọn trong 4 dĩa và đặt tên tựa là “Hoa Rơi Cửa Phật”.
Với bộ dĩa nầy soạn giả chỉ lấy đoạn sau, từ cảnh Lan vào chùa tu – Điệp tìm đến chùa giựt chuông – Lan ra mở cổng thấy Điệp, nàng không mở cổng.
Điệp kêu:
Lan mở cổng cho anh vào.

Không được! Anh về đi, đã hết rồi!
Nói dứt câu, Lan đi ngược trở vô chùa – Điệp tiếp tục giựt chuông liên hồi và Lan cắt đứt dây chuông.
Điệp thẩn thờ đành quay gót trở về.
Cảnh này Tư Trang đã xử dụng bản ca “Chuồn Chuồn” cho Năm Nghĩa ca với lối vô đầu giống như vọng cổ (Năm Nghĩa là dưỡng phụ của nữ nghệ sĩ Thanh Nga).

Lan cắt dứt dây chuông, nàng ngất xỉu và phát bệnh luôn. Bệnh mỗi ngày một nặng thêm, thuốc thang đều vô phương cứu chữa. Cho đến một ngày kia Lan biết mình không còn sống được bao lâu nữa, nên nàng mới xin vị hòa thượng trụ trì chứng minh cho nàng trao gởi nỗi niềm tâm sự, có nghĩa là nói hết sự thật do đâu mà nàng đi tu. Đồng thời cũng nói cho vị hòa thượng biết rằng mình là gái tên thật là Nguyễn Thị Lan, đã giả trai và mượn tên Điệp để được nhận vào chùa.

Về phần vị hòa thượng thì nghĩ rằng, ông đã đi tu hơn 30 năm rồi, không còn muốn vương vấn, dính dáng gì đến chuyện thế gian, nên buộc lòng ông từ chối.

Nhưng đến lúc thấy bịnh tình của Lan trầm trọng, và lúc mê sảng thường kêu gọi ba tiếngVũ Khắc Điệp luôn. Nhớ lại sự việc trước đây Điệp đến chùa và Lan cắt dứt dây chuông, thì vị hòa thượng đã tìm ra giải pháp: Cho người đi mời Điệp đến thay thế ông đóng vai sư cụ, bằng cách cho Điệp mượn chiếc áo cà sa, giả làm hòa thượng vào hậu liêu chứng minh cho chú tiểu Huệ Minh trao gởi nỗi niềm tâm sự (Huệ Minh là pháp danh của Lan).

Khi chú tiểu Huệ Thông đưa hòa thượng, do Điệp giả dạng với chiếc áo cà sa mượn mặc vào. Huệ Thông nói:
Sư cụ đã nhận lời cầu xin của huynh Huệ Minh rồi. Vậy muốn trao gởi gì thì cứ nói.

Thế là Lan nói sự thật như trên đã nói, và cảnh nầy soạn giả Tư Trang đã xử dụng bản Nam Ai, nổi tiếng là bản ca diễn tả lúc buồn. Qua bản Nam Ai với lời ca, Lan kể sự thật xong thì hấp hối. Điệp vội vàng cởi chiếc áo cà sa ra rồi chạy tới ôm Lan:
Em Lan! Anh là Điệp đây!

Lan mệt nhọc nói tiếng còn tiếng mất:

Anh... Điệp. Kiếp nầy không hiệp... hẹn cùng anh theo kịp... em chờ!

Em Lan! Lan!
Lan thở hơi cuối cùng trên tay Điệp.

Đây là cảnh chót, cảnh xúc động nhứt, hàng vạn các bà, các cô đã rơi lệ ở cảnh nầy.

Kịch bản Lan và Điệp, soạn giả Tư Trang trao cho nghệ sĩ Năm Châu lúc gánh Việt Kịch Năm Châu còn hoạt động.
Đầu thập niên 1960 Tư Trang vào mật khu, người ta không biết kịch bản này nằm ở đâu, và cũng không thấy Năm Châu dàn dựng trở lại vở hát này, bởi lúc ấy Ban Năm Châu chỉ lo việc chuyển âm phim.



Thêm thắt
Lúc bấy giờ hầu hết các gánh hát bầu tèo, tức các gánh hát nhỏ ở miền quê, do không có kịch bản chính nên đã lấy bài ca và lời đối thoại trong dĩa Hoa Rơi Cửa Phật làm nền chính, và thêm thắt vào để hát tuồng Lan và Điệp. Tuy vậy tuồng vẫn hay, khán giả vẫn đi coi.
Có điều là đoạn đầu thì mấy gánh hát bầu tèo tùy tiện, viết sao cũng được, miễn là có cảnh Lan tiễn Điệp đi học – Điệp thi đỗ đạt bị gọi đến nhà quan Huyện, bị phục rượu say mèm và đem bỏ vô phòng Thúy Liễu – Cảnh Thúy Liễu hành tội mẹ chồng.

Các cảnh nầy, mấy gánh hát bầu tèo muốn xử dụng bản ca nào, câu đối thoại nào thì tự viết vào rồi cho nghệ sĩ tập tuồng. Xong cho hát, bởi có ai khiếu nại gì đâu.

Lại có cả bầu gánh ngang nhiên sửa đổi tình tiết câu chuyện mới thiệt là đáng trách hơn hết!

Vào khoảng 1962 có gánh hát bầu tèo (không nhớ gánh tên gì) hát ở Suối Cụt, Trảng Bàng, Tây Ninh. Thay vì đoạn cuối Lan chết, thì gánh này lại cho cô Lan sống, và được vị hòa thương cho rời chùa trở lại thế gian, về sống với Điệp và vãn hát.

Do thấy tuồng đã không đúng với sự hiểu biết của mình, nên sau khi vãn hát, một số khán giả đi ra hậu trường chất vấn ông bầu:
- Ai cũng biết tuồng Lan và Điệp kết cuộc cô Lan chết, sao bữa nay cô Lan không chết mà lại về sống với Điệp, nghĩa là sao chớ?
Ông bầu đang ăn cháo lòng, nhậu rượu ba xi đế, đã trả lời:

- Bộ mấy ông bà muốn cô Lan chết phải hôn?

- Nhưng mà tuồng nó như vậy, tôi coi tuồng Lan và Điệp cả chục lần rồi, chỉ có lần nầy cô Lan sống mà thôi.

- Được rồi! Ngày mai đi coi, tôi cho cô Lan chết...

Tóm lại có những vấn đề trên là do soạn giả đã không có mặt, bầu gánh muốn hát sao thì hát. Cải lương mà!

Dĩa “Hoa Rơi Cửa Phật” phát hành được bán khắp cùng từ Nam chí Bắc, bán cả bên Miên, trên Lèo và cả bên Pháp.

Vài tháng sau khi dĩa hát được phát hành phổ biến khắp nơi rồi, thì cuốn bài ca “Hoa Rơi Cửa Phật” cũng được ra đời đem bán các chợ lớn, nhỏ từ thành thị đến thôn quê. Chính nhờ những cuốn bài ca này mà ca sĩ tài tử đâu đâu cũng thấy, tạo thành một sinh hoạt đờn ca tài tử độc đáo ở miền Nam Việt Nam.

Chương trình hôm nay đến đây xin tạm ngưng, hẹn với quý vị kỳ tới. Tôi là Ngành Mai xin kính chào tất cả quý thính giả Đài Á Châu Tự Do.



Ngành Mai










Thứ Tư, 18 tháng 6, 2025

Suy nghĩ về sự tiếp nhận hình ảnh Tỳ kheo ni Việt - Nguyễn Thành Trung


Suy nghĩ về sự tiếp nhận hình ảnh Tỳ kheo ni Việt

Nguyễn Thành Trung



Trong bài viết Vai trò của Ni giới Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Thích Nữ Phúc Thuận đã nhìn Bát kỉnh pháp của Phật giáo nguyên thủy trong hoàn cảnh Ấn Độ cổ đại, xã hội quy định vai trò thấp kém của người phụ nữ Ấn Độ (ramani). Trước thời Phật, phụ nữ bị cho là nguồn gốc rắc rối, là ngọn đèn chiếu đường xuống địa ngục… từ đó khẳng định ủng hộ vì
Bát kỉnh pháp (Attha garudhamma) là cánh cửa phương tiện (paccaaya) để cho nữ giới đi vào. Đức Phật đã khéo léo vận dụng phương tiện (paccaya) thiện xảo này nhằm tránh né sự chống đối của xã hội và Tăng già với mục đích xã hội hóa tính hợp pháp cho nữ giới về quyền xuất gia tu hành
(Thích Nữ Phúc Thuận).

Hình ảnh Tỳ kheo ni trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại

Xưa, Jesus Christ thường hay dùng ngụ ngôn để giảng dạy môn đồ, Khổng Tử hay kể chuyện để giáo huấn học trò, Phật Thích Ca tùy đệ tử mà kể chuyện, đặt câu hỏi, qua đó giảng pháp. Bắt đầu bài nói chuyện bằng điểm chung chia sẻ với thính giả là con đường của diễn giả thành công, đưa người học đi từ cái biết đến cái chưa biết là cách thức của người thầy lớn. Tiếp nhận là phương pháp quan tâm đến người nghe, người đọc trong giao tiếp nhằm phát huy những kênh tương đồng, những mã tương hợp giữa người phát và người nhận.

Hầu hết người Việt Nam đều biết ca khúc của Mạc Phong Linh và Mai Thiết Lĩnh: “Chuyện tình Lan và Điệp”, Lan và Điệp trở thành hình mẫu để nói mối tình lứa đôi lãng mạn. Nguyên tác câu chuyện này là tiểu thuyết Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan, xuất bản vào năm 1933,

kể về chuyện tình của chàng trai tên Điệp và cô gái tên Lan ở một làng quê nọ, vốn hai nhà có đính ước từ xưa, hai người cũng “tình trong như đã mặt ngoài còn e”; Điệp khi lên tỉnh thi thì mắc lừa quan phủ phải cưới con gái ông là Thúy Liễu, cuộc sống gia đình không hạnh phúc; Điệp bỏ đi, học y sau mở phòng mạch riêng. Riêng Lan, vì đau buồn chuyện tình tan vỡ nên lên chùa Phương Thành, giả trai lấy tên Điệp, chôn xác bướm và hoa lan, khóc thương đau buồn trọng bệnh; Điệp mang về cứu chữa nhưng không kịp, Lan qua đời trên tay Điệp. Type truyện này ngày càng phổ biến, được chuyển thể cải lương, phổ nhạc, dựng phim, diễn kịch… tạo nên một hiện tượng lý thú trong nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX và đặc biệt là in sâu vào lòng công chúng những cảm thức, quan điểm thẩm mỹ nhất định. Có thể tóm lược hành trình phổ biến type truyện này thông qua bảng sau:


Bảng 1. Hành trình type truyện Lan và Điệp
STTTên tác phẩmNăm ra đờiTác giả/ đạo diễnMô tả: thể loại, diễn viên/ ca/ nghệ sĩ
1Tắt lửa lòng1933Nguyễn Công HoanTiểu thuyết, cốt truyện gốc
2Lan và Điệp1936Trần Hữu TrangCải lương: Năm Phỉ, Thanh Nga
3Hoa rơi cửa Phật1948 Cải lương đĩa nhựa ASIA: Tư Sạng, Năm Nghĩa… Viễn Châu viết lời vọng cổ: Mộng Tuyền,
Út Bạch Lan
4Chuyện tình
Lan và Điệp
1965Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng)Tân nhạc: 3 ca khúc Viễn Châu viết tân cổ giao duyên: Lệ Thủy
5Lan và Điệp1970Ban kịch Kim CươngKịch nói: Kim Cương
6Chuyện tình
 Lan và Điệp
1970Loan Thảo, Thế ChâuCải lương: Chí Tâm,
Thanh Kim Huệ
7Chuyện tình Lan và Điệp1972Lê DânPhim nhựa: Thanh Nga,
Thanh Tú
8Lan và Điệp2008Minh ThuậnCa vũ cải lương:
Đàm Vĩnh Hưng, Thanh Thảo


Theo diễn biến này, type truyện Lan và Điệp thể hiện ba đặc điểm, đồng thời cũng gắn kết thành một tiến trình nhân quả gồm: thay đổi chủ đề, bổ sung/chuyển đổi chi tiết, khắc họa đậm nét nhân vật Lan trong chùa.

Thứ nhất, type truyện gốc được viết trong cảm thức hiện thực phê phán, vạch trần bộ mặt xã hội thuộc địa thực dân nửa phong kiến Việt Nam dưới sức nặng đồng tiền dần chuyển sang khuynh hướng lãng mạn với đề tài tình yêu đôi lứa tan vỡ. Đến những năm 1930, thực dân Pháp hoàn thành công cuộc ổn định và bắt đầu khai thác thuộc địa, khủng hoảng kinh tế thế giới ập đến, người dân bị áp bức bóc lột đến cực điểm đã liên kết, tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa; xã hội rối ren, con người trở thành trò rối cho thế cục; lòng người bạc ác, hạnh phúc hóa ra hư ảo mong manh. Bản thân Nguyễn Công Hoan là nhà văn hiện thực phê phán, ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng khắc họa bức tranh đen tối của xã hội đương thời như: Đồng hào có ma, Kép Tư Bền, Bước đường cùngTắt lửa lòng phản ánh sâu sắc thực trạng đó thông qua việc xây dựng mối tình thơ mộng của hai nhân vật chính phải kết thúc trong chùa; cửa thiền trở thành lựa chọn bất đắc dĩ và nghiệt ngã.

Thứ hai, từ Tắt lửa lòng đến “(Chuyện tình) Lan và Điệp” dưới sự tác động của sức mạnh tiếp nhận, không chỉ thay đổi khuynh hướng tư tưởng mà còn được bổ sung, chuyển đổi thêm nhiều chi tiết. Trước hết là dấu ấn văn hóa, từ tiểu thuyết đến cải lương, type truyện này có một hành trình Nam tiến rõ nét. Về mặt ngôn ngữ, đẻ đã thành má, hỏng thành rớt; kịch bản cải lương bỏ chi tiết xin đỗ ở chương 1- Thôi còn chi nữa mà mong, và báo tin đậu cuối chương 4 Khoa. Nhưng quan trọng hơn là gia giảm chi tiết nhằm phục vụ cho chuyện tình của hai nhân vật chính. Đơn cử, bản cải lương không quan tâm Vũ (con Điệp) và cuộc sống về sau của Thúy Liễu mà khắc họa rõ hơn hoàn cảnh trong chùa của Lan với cái chết bi thương. Khâu thắt nút được đẩy lên cao hơn khi các soạn giả biến việc Điệp hỏi ý kiến cha con Lan (về chuyện cưới vợ) thành Lan trộm nghe, ứng với chi tiết đan cài từ trước, Lan nói: Nếu có chuyện gì chắc tui chết quá à, chắc tui đi tu quá à. Vì lẽ đó, trường đoạn Điệp đến chùa, Lan cắt đứt dây chuông được thêm vào, 15 năm xa cách được rút ngắn lại, chi tiết Điệp đem Lan về phòng mạch được thay bằng Điệp lên chùa, mặc áo sư ông vào gặp Lan.

Thứ ba, kết quả của những thay đổi trên là chùa trở thành mảng không gian quan trọng trong kết cấu nghệ thuật (Chuông đổ chùa xa – Lan và Điệp 1), tiểu Lan – tức Lan trong vai trò người tu hành Phật giáo tại chùa – xuất hiện trực tiếp và mang đến nhiều tác động thanh lọc thẩm mỹ (carthasis – chữ Aristotle) song cũng đồng thời đặt ra vấn đề về hình ảnh tỳ kheo ni Lan đối với công chúng. Từ góc độ này nhìn nhận, động cơ Lan lên chùa là để vùi lấp (không phải xả bỏ) chuyện tình duyên (nếu duyên không thành Điệp ơi! Lan cắt tóc quên đời vì anh – Lan và Điệp 1), lên chùa Lan lại giả trai đi tu tức nói dối (không giữ được ngay cả Ngũ giới dành cho cư sĩ), hậu quả là không quên được duyên xưa, chôn hoa lan và cánh bướm, buồn đau sinh bệnh mà chết (chấp ái dục – gốc của sinh tử)


(Lan
náu thân cửa từ bi
bởi
vướng vào sầu đau
Nàng sống mà tim như đã chết
Riêng bóng cô đơn, đôi môi xin phai tàn

– Lan và Điệp 1;
Lan gói niềm riêng tìm quên lãng ngày đêm bên mái chùa
Sớm chuông chiều kinh mặc thời gian dần trôi trong tái tê
Nàng không sao xóa tình yêu xưa cũ dẫu cho con thuyền neo bến đường tu
– Lan và Điệp 2);
chuông chùa hỗ trợ chánh niệm trở thành nỗi ám ảnh sâu sắc
(tiếng chuông đêm dài như tiếng thở than như đem tin buồn, như gieo hoang tàn đến cho đời nàng
– Lan và Điệp 2.
Từng hồi chuông ngao ngán ngân dài như khóc than, tiễn một linh hồn
– Lan và Điệp 3);
chùa trở thành nhà tù giam giữ con tim tình yêu
(Khi tiếng mõ công phu nện đều trên chánh điện thì suối lệ đầy vơi cũng thấm đượm áo nâu sòng… Gia trung Điệp đã về rồi. Đêm đêm quỳ trước Phật đài một mình Lan...
– Lan và Điệp (vọng cổ)…
Có thể nói, con đường tu của Lan thất bại hoàn toàn, tình yêu của Lan gây phiền lụy đến nhà chùa và hình ảnh của Lan không có tác dụng tích cực trong tiếp nhận của công chúng về Phật giáo.

Mặt khác, một điều lý thú ít được quan tâm là trước đó không lâu cũng vào năm 1933, tác phẩm “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng ra đời cũng kể lại câu chuyện yêu đương dưới mái chùa Long Giáng của chàng trai Ngọc và chú tiểu Lan (gái giả trai). Ngọc là chàng trai Hà Nội lên thăm chùa để ý tiểu Lan nước da trắng mát, tiếng nói dịu dàng trong trẻo như tiếng con gái… Qua mấy lần tiếp xúc, đụng chạm, Ngọc để tâm điều tra, đến khi biết Lan là gái, vì bị mẹ cha ép gả nên vào chùa tu, thì anh cũng nhận ra mình đã yêu cô. Cuối cùng, Lan nhẹ nhàng từ chối tình cảm, Ngọc xin giữ mãi mối tình ấy và nguyện ngày ngày lên chùa gặp Lan. Cốt truyện không quá phức tạp, phần vì tâm lý độc giả; cái hay của tác phẩm là những biến chuyển tâm lý sâu kín, tinh vi của các nhân vật. “Hồn bướm mơ tiên” đã bổ sung một góc khác của Lan khi sống trong môi trường tự viện. Tuy không dằn vặt, đau khổ như “Tắt lửa lòng” nhưng cuộc chiến nội tâm của Lan trong “Hồn bướm mơ tiên” không hề nhẹ nhàng, đặc biệt là qua các lần tiếp xúc với Ngọc, nhận ra tình cảm nẩy nở và khao khát yêu đương trỗi dậy. Đánh giá về Lan trong tác phẩm này, cảm thông và chỉ trích đều có. Tam Ích, sau 30 năm tác phẩm ra đời, đã phê phán bản thân Lan không hiểu được cái vui của tu hành, sư cụ thì huyền bí hóa Phật pháp, Lan và Ngọc nhầm lẫn ý nghĩa tình yêu của Phật đà; tóm lại tác phẩm của Khái Hưng có hại cho Phật giáo. 50 năm sau, Hoàng Như Mai chỉ ra nét đẹp trong không gian chùa, những sinh hoạt lễ nghi truyền thống; lý luận Lan mới đi tu được hai năm sao khỏi vướng lòng trần, tuy vậy mỗi khi xao xuyến cô đều niệm Phật để tĩnh tâm; ít nhất Lan và Ngọc vẫn giữ được mối quan hệ trong sáng khỏi vũng bùn tình dục…

Nguyễn Thành Trung

(Còn tiếp)



Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

Từ hình tượng văn học, nghĩ về Tỳ kheo ni Việt Nam - Nguyễn Thành Trung


Từ hình tượng văn học,
nghĩ về Tỳ kheo ni Việt Nam

Nguyễn Thành Trung



Bài viết này không nhằm tôn vinh cũng không phê phán mà hướng đến lý giải nguyên nhân để nhìn nhận không chỉ hình tượng Lan (tác phẩm Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan) riêng lẻ mà giải quyết nhiều vấn đề khác, cụ thể hơn, thời đại hơn. Về nhân vật Lan, trước hết đây là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam: vừa yếu đuối mong manh nhưng cũng vừa kiên tâm mạnh mẽ; họ yêu say đắm để rồi đau khổ vì yêu. Lan là sự nối tiếp hình tượng người phụ nữ trong truyền thống nhân đạo của văn học dân tộc Việt Nam: không tìm được giải pháp trong cuộc đời, gửi thân vào cửa chùa để quên đi đau khổ. Với tính chất là nơi nương tựa cuối cùng, hiếm khi nhà chùa từ chối họ; ở đây Phật giáo thể hiện tinh thần nhập thế, tùy duyên hóa độ hết thảy, đậm tính dân gian của Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, có những thứ ta có thể quên nhưng riêng tình cảm càng cố quên lại càng đau khổ, dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng… Việc Lan chẳng thể quên tình xưa hay không ngăn được con tim vọng động cũng là lẽ gì rất thực, rất tự nhiên; kết thúc đau khổ cũng là kết quả tất yếu; khác chăng là với một nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan thì Lan phải chết, còn với nhà văn lãng mạn Khái Hưng thì Lan (tác phẩm Hồn bướm mơ tiên) vẫn ở chùa tu nhưng chắc chắn chẳng thể nào an nhiên hạnh phúc như xưa. Quyết tìm đến Phật đạo nhưng trong hành trình chuyển hóa đầy gian nan, con người vẫn luôn chịu nhiều dằn vặt và không phải ai đi tu cũng thành công; gánh nặng vật chất dễ dàng rũ đi nhưng mối dây tình duyên cứ hoài cột chặt, đặc biệt đối tượng lại là nữ giới, dù là tỳ kheo ni. Bên cạnh đó, hai tác giả lại là trí thức Tây học, họ quen thuộc với bình diện dân gian của Phật giáo, họ vận dụng Phật giáo như một thể nghiệm, một phương kế có thể thành công hoặc thất bại; bởi từ trong bản chất, chùa, Phật, tiểu Lan hay bất kỳ một hình tượng nào xuất hiện trong tiểu thuyết cũng là phương tiện nghệ thuật – một chỉnh thể có đời sống và quy luật riêng của nó. Điều có thể rút ra từ hình tượng tiểu Lan và câu chuyện này là quy luật biến đổi, là lẽ vô thường, là tâm không chấp trước, là trí dung thông; nghĩa là hiểu được sự thay đổi về chủ đề, cốt truyện là tất yếu bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tác giả… mà đặc biệt là người xem, người tiếp nhận. Với cái nhìn này thì hình tượng tiểu Lan (lẽ ra là tỳ kheo ni Lan) là phương tiện có ảnh hưởng lớn đến người đọc trong gần 100 năm nay; việc đối tượng này đúng đến đâu theo tinh thần Phật giáo không quan trọng bằng việc Phật giáo hiểu và vận dụng nó như thế nào cho hợp lý và đạt hiệu quả.

***

Hình tượng Lan là tiêu điểm đồng thời kết quả của truyền thống Phật giáo Việt Nam. Trong suốt tiến trình ngàn năm ấy, nhiều ni sư lỗi lạc đã góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và đạo pháp, như Ni sư Diệu Nhân (1041-1113), ni trưởng Đàm Soạn, Đàm Hữu, Đàm Tín… Lịch sử Phật giáo Việt Nam và danh tính các ni sư lớn đã được đề cập đến trong nhiều công trình, bài viết; thông qua đó, cơ bản có thể rút ra vài đặc điểm của Phật giáo Việt Nam bao gồm tính tính lịch sử, tính dân tộc và tính linh động.

Thứ nhất, tính lịch sử của Phật giáo Việt cũng như Phật giáo các dân tộc khác là thăng trầm cùng sự biến thiên của các cộng đồng bản địa. Lẽ tất nhiên, Phật giáo ra đời và vận hành giữa thế gian, chính sách kinh tế, hoàn cảnh chính trị, điều kiện xã hội của mỗi đất nước sẽ liên tục tác động và định hình Phật sử quốc gia đó. Nhiều cột mốc lịch sử trùng khớp, hình thành các giai đoạn Phật sử. Lê Mạnh Thát trong bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam đã phân tiến trình này thành 5 thời kỳ bao gồm:

1. Thời kỳ Phật Giáo Quyền Năng (- 544).
2. Thời kỳ Phật Giáo Vận Động Độc Lập (544 - 1069), cần lưu ý là năm 544 Lý Bôn khởi nghĩa xưng đế.
3. Thời kỳ Phật Giáo Thế Sự (1069- 1306), Lý Thánh Tông sát nhập Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính vào Đại Việt năm 1069.
4. Thời kỳ Phật Giáo Cư Trần Lạc Đạo (1306 - 1698), năm 1306 Trần Nhân Tông sát nhập châu Ô, châu Lý vào lãnh thổ nước ta.
5. Thời kỳ Phật Giáo Quần Chúng (1698 - ), năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai phái Nguyễn Hữu Cảnh vào Gia Định.


Không bàn đến tính chính xác, hợp lý của tên gọi và tính chất từng thời kỳ, tính tương hợp về mặt lịch sử khẳng định lịch sử tính của Phật giáo Việt, trong đó, đương nhiên có dòng ni giới. Lịch sử này chứng kiến hành trình Nam tiến gắn liền với khuynh hướng đơn giản, bình dân hóa Phật giáo của người Việt.

Thứ hai, vì gắn liền với lịch sử quốc gia, Phật sử tất nhiên thấm đượm tính dân tộc. Với Phật sử Việt, tính dân tộc thể hiện ở tinh thần nhập thế chủ động, tích cực vì lợi ích chung của đất nước và nhân dân. Ngay trong kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, vượt qua chấp giới sát sinh, nhiều sư cô nổi tiếng như Thiều Hoa, Phương Dung, Thục Nương, nàng Quốc đã cầm quân chống nhà Hán. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nhà Hán ra sức đồng hóa đất Việt, Phật giáo Việt Nam vì thế bản địa hóa giáo lý, bản địa hóa tư tưởng, gởi gắm một số yếu tố Việt Nam vào kinh điển Phật giáo (Lê Mạnh Thát, 151). Phật giáo Lý - Trần đã đưa Đại Việt vào một thời kỳ thịnh vượng vững mạnh và lâu dài, đặt nền móng văn hóa, đánh bại quân Nguyên - Mông, tạo hào khí Đông A… Nhờ tính dân tộc mà Phật giáo Việt Nam Việt hóa truyền thuyết Quan Âm Diệu Thiện, thắp ngọn lửa Thích Quảng Đức thiêu rụi cường quyền và đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.

Thứ ba, Phật giáo Việt Nam thể hiện tính linh động cao độ. Ngay thời kỳ đầu du nhập vào đất Việt, Phật giáo đã mở cửa chùa để hệ thống thần tượng nông nghiệp lúa nước Vân Vũ Lôi Điện trở thành Tứ Pháp, Mẫu được phối thờ nhắc nhở nguồn gốc lâu đời của dân ta. Căn cơ và tạng chất người Việt lại phóng khoáng dung hòa ba tông phái là Thiền, Tịnh và Mật của Phật giáo thành những hệ thống gắn bó, tương chiếu tương liên. Rộng hơn, tính linh hoạt của Phật giáo còn tạo điều kiện cho sự xuất hiện của tư tưởng tam giáo đồng nguyên: Nho - Phật - Lão cùng phát huy hết những khả năng của con người thời Trung đại. Tại miền Nam, thế kỷ XX, để phổ biến tư tưởng đến đại đa số quần chúng nhân dân ít chữ, Phật giáo được Đoàn Văn Huyên đơn giản hóa thành Bửu Sơn Kỳ Hương, kinh sách được Huỳnh Phú Sổ phổ thơ ngâm giảng, hệ phái Khất sĩ tổng hợp kinh sách Nam - Bắc tông thành Kinh Chơn Lý…

Thông qua lịch sử Phật giáo Việt Nam và hình tượng tỳ kheo ni Lan trong tiểu thuyết, tính linh động, lịch sử, dân tộc hiện lên như những giá trị và quy luật quan trọng nhất chi phối, vận hành thế giới quan và nhân sinh quan người Việt. Đương nhiên, quá trình này không phải luôn thuận lợi mà vẫn có những nghịch duyên, đơn cử như sự khắt khe với phụ nữ – kết quả của truyền thống Nho giáo phần nào kiềm hãm sự phát triển ni giới, ni bộ chậm hình thành, có thể vì vậy mà các nhân vật Lan đều phải giả trai để vào chùa tu. Góc nhìn lịch sử cụ thể, linh động biến dịch và đậm bản sắc dân tộc có thể được vận dụng để giải quyết vấn đề Bát kỉnh pháp, ít nhất là với trường hợp ni giới Việt Nam.

Trước hết, với cái nhìn mang tính dân tộc, Bát kỉnh pháp là kết quả của nền văn hóa cổ đại Ấn Độ, một xã hội phân biệt giai cấp sâu sắc, địa vị người phụ nữ thấp kém cùng cực. Cũng như khi giảng pháp, luật Phật cũng tùy hoàn cảnh mà được chế ra cho phù hợp. Lật đổ một chính quyền bằng bạo lực cách mạng đã khó, lật đổ thiết chế tư tưởng ngàn năm thâm căn bền rễ trong lòng người càng khó hơn. Về nguyên tắc điểm ưu trội của giáo thuyết Phật Thích Ca là xóa bỏ đẳng cấp, mang đến cho người phụ nữ những quyền lợi to lớn về đời sống cũng như tâm linh.Vì vậy, những khắt khe, nếu có nhìn dưới cặp mắt hiện đại, cũng là phương tiện phù hợp hoàn cảnh xã hội, theo chiến lược tuần tự, tránh xung đột đối kháng trực tiếp về mặt xã hội, dân tộc, văn hóa. Ví dụ, thời Đức Phật, người phụ nữ Ấn không được tự ý ra ngoài khi không có người đi cùng, định chế xã hội lẫn sự kỳ thị biến thành tấn công bạo lực luôn là những nguy cơ chực chờ đối tượng này; đến nay, sau hơn ngàn năm, hiện tượng đó vẫn chưa hẳn biến mất, pháp thứ 7 trong Bát kỉnh pháp vì thế mà được chế nên.

Thứ đến, dưới góc nhìn lịch sử cụ thể, Bát kỉnh pháp được chế ra như chuẩn tắc để nữ giới mà cụ thể là Mahà Pajàpati Gotami và 500 nữ quý tộc khác bước vào Tăng đoàn. Bát kỉnh pháp được vận hành dựa trên nguyên tắc tiếp nhận, Đức Phật căn cứ vào tính chất của người nhận mà ra quy định; ba pháp đầu yêu cầu kính trọng tuyệt đối tăng bao hàm những người vốn xuất thân bần hàn chính là đánh vào cái tôi của quý tộc Bà la môn. Bên cạnh đó, Bát kỉnh pháp không trực tiếp bàn về các nguyên lý Phật pháp mà thực ra nghiêng về mặt tổ chức, quản lý tăng đoàn; điều này phải căn cứ hoàn cảnh cụ thể. Lúc ấy, tăng bộ đã ổn định, dùng tăng bộ làm xương sống tăng đoàn là quyết định tất yếu; theo nghĩa đó, Bát kỉnh pháp hàm ý giao nhiệm vụ lớn hỗ trợ ni bộ cho tăng bộ đồng thời quy định này hỗ trợ nhiều hơn cho ni giới trong quá trình tu tập được hưởng các quyền lợi như được học tập, được bảo vệ. Ngoài ra, việc phân nhiệm này thể hiện mong muốn duy trì một giáo hội thống nhất, tránh sự phân chia bộ phái theo giới tính có nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến Tăng đoàn.

Sau cùng, vận dụng tính linh hoạt, mềm dẻo của Phật giáo Việt Nam vào Phật Luật nói chung có thể tránh phương hại và bồi đắp vững vàng Bát kỉnh pháp. Như đã bàn, tuy có mối quan hệ chặt chẽ với Kinh nhưng Luật hướng đến các vấn đề xã hội hơn; về bản chất Luật là do Phật chế để giải quyết các trường hợp cụ thể.

Bát kỉnh pháp là trường hợp tiêu biểu của điều Luật xuất hiện trong Kinh (Tăng Chi), hiện tượng mở rộng tính quản lý xã hội trong Kinh thể hiện sự lớn mạnh của tăng đoàn;
hoàn cảnh yêu cầu ngoài Kinh phải có hỗ trợ, quy định về mặt xã hội cho tăng ni thuận lợi tiếp nhận giáo pháp trong một tổ chức quy củ thống nhất. Nói rộng ra, Pháp Luật là một thành tựu văn minh của nhân loại nhằm giải quyết mối quan hệ đa dạng phức tạp trong đời sống; luật phải bao quát tránh thiên tư phiến diện nhưng phải cụ thể hiệu quả trong áp dụng, sức mạnh của luật ở đây nhưng vấn đề cũng ở đó. Luật khái quát trừu tượng phổ quát thì chỉ có bộ phận nhỏ tri thức bậc cao vận dụng và giải thích có lợi cho mình (Bà la môn), nhưng luật cụ thể, rõ ràng thì lại hạn chế trong từng trường hợp nhất định, nghĩa là khi xuất hiện vấn đề mới, luật phải bị xóa bỏ hoặc thay đổi. Đây là một hiện tượng phổ biến trong nhiều tôn giáo lớn (vươn đến tầm quản lý xã hội) trên thế giới: Trong kinh Koran, nhiều điều luật của Mohamed viết được chính ông chỉnh sửa về sau để giải quyết vấn đề chặt chẽ hơn; Tin Lành ra đời trên cơ sở yêu cầu xóa bỏ nhiều điều luật Thiên Chúa giáo. Ở Phật Luật, hiện tượng này không thiếu: Trong 348 giới điều Tỳ kheo ni, nhóm 2- 17 pháp Tăng tàn, pháp thứ 4 cấm tăng ni thưa kiện người nhưng sau đó được Phật chế lại cho phép nếu tòa mời hay có việc chính đáng thì Tỳ kheo được phép đến cửa quan. Điều đó thể hiện tính linh hoạt, tùy thời tùy hoàn cảnh mà điều chỉnh luật miễn không trái Pháp. Không chỉ là luật, nhiều văn bản không do Phật thuyết nhưng làm sáng rõ giáo nghĩa và để tuyên dương chính pháp vẫn được gọi là Kinh. Từ đó, giả thuyết rằng có thể trong giai đoạn nào đó của Phật giáo cần phải đặt vấn đề như Bát kỉnh pháp để bảo vệ tăng đoàn, vì cái chung nên những tiêu chí khác phải bị hy sinh như tính hợp lý lịch sử (Điều 2, 3, 4, 5 Bát kỉnh pháp liên hệ đến nội dung của những khái niệm 10 năm sau khi Thích Ca thành đạo trong khi Bát kỉnh pháp ra đời năm thứ 6, tiêu biểu như Bát kỉnh pháp ra đời trước khái niệm an cư, về mặt logic không thể có quy định an cư trong Bát kỉnh pháp…) cũng hoàn toàn được chấp nhận trong tinh thần linh hoạt, linh hoạt có nghĩa là không cần phải giải bỏ Bát kỉnh pháp mà quan trọng là hiểu và vận dụng thế nào cho phù hợp. Hoặc linh hoạt đến mức ni giới Đài Loan vận động bãi bỏ Bát kỉnh pháp vì hoàn cảnh thực tế lịch sử Phật giáo Đài Loan cũng không thành vấn đề; bởi không chỉ Luật mà cả Pháp Phật đều là con thuyền qua sông, tùy căn cơ mà chọn thuyền lớn nhỏ, thích ngồi ưng đứng tùy ý, thậm chí đội thuyền bơi qua hay bỏ thuyền lại bên kia tự mình vượt sông thì đều không quan trọng, quan trọng là có thể qua sông. Trong tinh thần này, không phải bản thân Bát kỉnh pháp mà là những tranh cãi về Bát kỉnh pháp có thể được giải bỏ.



Hình tượng và con đường của Tỳ kheo ni Việt, suy nghĩ từ góc độ tiếp nhận

Bàn luận hình tượng Lan và Bát kỉnh pháp từ góc độ tiếp nhận, thiết nghĩ con đường phát triển của Tỳ kheo ni Việt cũng có thể vận dụng mỹ học tiếp nhận để soi chiếu. Mỹ học tiếp nhận (rezeptionsästhetik) là một trường phái lý luận văn học ở Đức vào đầu thế kỷ XX quan tâm đến lĩnh vực tiếp nhận tức mối quan hệ nhà văn – tác phẩm – người đọc, đặc biệt là điều kiện, phương thức, quá trình của tiếp nhận ảnh hưởng đến văn học và đời sống.

Hans Robert Jauss với bài phát biểu nổi tiếng của mình đã khẳng định Lịch sử văn học phải là lịch sử tiếp nhận bởi không có cái khách quan lịch sử trong nghiên cứu văn học. Khái niệm này cần phải thay đổi bằng “Tầm đón đợi” với vai trò của tiếp nhận. Theo đó, mỗi giai tầng khác nhau sẽ có thị hiếu thẩm mỹ khác biệt khi tiếp nhận và lý giải tác phẩm; tác phẩm nhờ được nhiều quan điểm soi chiếu nên phong phú hơn; chính đối tượng tiếp nhận làm sống lại những vấn đề cũ, nhìn bản thân văn chương đa trị đa nghĩa, phát hiện cái được biểu đạt thông qua cái biểu đạt, giải mã hệ thống mã hóa. Điều này có nghĩa là khi tầm đón đợi thay đổi thì ý nghĩa tác phẩm cũng đổi. Tồn tại hai kiểu tiếp nhận: Dọc – đọc một tác phẩm theo chiều dọc lịch sử; Ngang – đặt tác phẩm vào một thời đại nhất định với nhiều dạng người đọc.

Những luận điểm của Jauss giúp hình tượng nhân vật Lanvà vai trò tỳ kheo ny được nhìn rõ hơn từ nhiều phía. Trước hết, hành trình nam tiến thực sự đưa cốt truyện này từ giới trí thức Tây học đến đông đảo quần chúng nhân dân thông qua sân khấu cải lương và ca khúc tân nhạc, bài bản vọng cổ; bài học vận dụng phương tiện trong hoằng pháp thể hiện ở đây. Quần chúng hóa giúp Phật giáo dễ lan truyền nhưng phải chấp nhận một thực tế là bình dân hóa Phật học, lu mờ vai trò ni giới, những nhập nhằng cần làm sáng tỏ tồn tại rất nhiều. Ví dụ ở miền bắc, quần chúng không phân biệt tăng ni mà gọi chung là thầy: trong Chùa Đàn, Nguyễn Tuân gọi cô Tơ (Tuệ Không) là sư thầy, Nguyễn Khải trong truyện ngắn Ngôi chùa các chị cũng gọi sư nữ chùa Cốc là thầy. Type truyện Lan và Điệp ban đầu vốn rất đậm tính Phật giáo về tư tưởng nhưng bị trần tục hóa theo type chuyện tình tan vỡ nên dù hình thức, câu chữ có bổ sung không gian, ngôn từ Phật giáo mà ý nghĩa Phật học lại mất mát rất nhiều. Nguyễn Công Hoan đặt tên tiểu thuyết là “Tắt lửa lòng” do lấy lại câu nói của Kiều, sau 15 năm lưu lạc, đang mặc áo ni cô được mọi người gá duyên Kim Trọng,

“Nàng rằng: Chút phận hoa rơi,
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
Tính rằng mặt nước chân mây,
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
Được rày tái thế tương phùng.
Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa,
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu tu trót quá thì thì thôi!”
.

Tắt lửa lòng” nhấn mạnh cái ngộ sau cùng của tiểu Lan hơn là quyến luyến tình duyên thuở “Lan và Điệp”. Đặt vào trục lịch sử, chi tiết buồn đau chuyện gia đình mà vào chùa tu vẫn không thoát nghiệp duyên đến tận khi hấp hối của Lan chính là vận dụng lại cùng motif trong truyện cổ/chèo cổ Quan Âm Thị Kính; huyền tích chùa Long Giáng (Hồn bướm mơ tiên) cũng hấp thụ truyện cổ Phật giáo Quan Âm Diệu Thiện. Lan là tên gọi phổ biến của người Việt đặt cho con gái, với ước mơ như bông hoa có hương có sắc, người mang tên Lan có dung mạo xinh đẹp, tâm hồn thanh cao, tính tình dịu dàng… Nhân vật Lan trong cả hai tiểu thuyết đều nằm trong khuôn khổ mẫu chuẩn tâm thức người Việt; ý thức điều này thì bi kịch của Lan càng gây đau xót và vai trò Phật pháp càng thể hiện rõ, dù là Phật pháp bình dân. Câu chuyện của Lan vận dụng vào hoằng pháp chắc chắn khai thông nhiều bài học thú vị, chư tăng thuyết giảng đề tài này đã hay, chư ni đăng đàn dùng hình tượng Lan như phương tiện giảng pháp càng hứa hẹn nhiều viễn cảnh đặc sắc bởi khả năng ưu trội khi bàn về nữ giới, tỳ kheo ni và Bát kỉnh pháp.

Bên cạnh Jauss thì mỹ học tiếp nhận còn được phát triển bởi Wolfgang Iser. Ảnh hưởng triết học Husserl quan niệm rằng đằng sau hiện tượng không có một bản chất nào mà bản chất chính là hiện tượng hiện ra trong ý thức người quan sát, Iser cho rằng các văn bản phải có kết cấu vẫy gọi để kích thích người đọc; muốn vậy, tác phẩm phải chứa đựng những điểm trắng, chưa xác định, không rõ, gián đoạn. Ngoài ra, để tăng tính kích thích, văn bản phải có mưu cầu phủ định khi khiêu khích các quan điểm chính trị, triết học, đạo đức đương thời. Ở giác độ này, thực sự Bát kỉnh pháp ngay từ khi mới ra đời đã gây chấn động não trạng thời đại và xã hội Ấn Độ cổ, tính khiêu khích ấy kéo dài tận hơn ngàn năm để lại thu hút những bàn luận xung quanh việc giữ hay giải trong hoàn cảnh kinh tế văn hóa chính trị xã hội thay đổi. Những mâu thuẫn về mặt lịch sử trong Bát kỉnh pháp có thể ví như những khoảng trắng, gián đoạn luôn chờ được được lấp đầy thông qua tiếp nhận, tức quá trình mà Iser gọi là hành động đọc. Hành động đọc tiếp nhận dựa trên một tầm đón đợi được xây dựng quan hệ giữa hiện tại quá khứ và tương lai, đọc đồng thời là quá trình hoàn hình, theo nghĩa người tiếp nhận không ngừng sắp xếp các mảng ý nghĩa, chi tiết, thành tố bằng cả lý trí lẫn tâm linh để hình thành một chỉnh thể. Kết thúc quá trình này mang đến kết quả không phải ở người truyền, thông điệp mà là chủ thể nhận/đọc với bản thân theo nghĩa họ tự nâng cao mình, tự phát hiện ra thế giới bên trong. Những luận điểm này đề xuất tăng ni trong quá trình hoằng pháp phải đặc biệt quan tâm đến yếu tố thính chúng, cần nắm bắt quá trình hoàn hình và nâng cao bản thân người nghe; tất cả những thứ khác chỉ là phương tiện (hình tượng Lan, Bát kỉnh pháp), sự vượt trội của tâm linh mới là quan trọng. Quá trình tiếp nhận này lần lượt biến tăng ni và thính chúng thành đối tượng, để liên tục kết hợp chiều ngang và dọc, không gian và thời gian khi tiếp cận Phật pháp.

Tóm lại, bài viết này hướng đến vận dụng hình tượng văn học (nhân vật Lan) để tìm kiếm nguyên tắc, truyền thống của lịch sử Phật giáo và ni giới Việt. Trên tiến trình ấy, con đường tiếp nhận được lựa chọn như thông lộ kết nối, giải trừ những mâu thuẫn xoay quanh Bát kỉnh pháp đồng thời định hướng phát triển ni giới. Tuy nhiên, những mục đích to lớn ấy vẫn còn bị giới hạn trong nhiều chiều kích, bản thân mỹ học tiếp nhận khi cố khẳng định vị trí độc tôn của mình đã là một cực đoan, nỗ lực xóa bỏ những “cái khác” luôn là cạm bẫy hấp dẫn hành trình tư duy, khoa học, đạo pháp và cuộc sống. Trước hoàn cảnh ấy, giải pháp tổng hòa tuy dễ bị mang hơi hướng chiết trung nhưng vẫn là một chiều kích đáng quan tâm để nhìn nhận, lý giải vấn đề từ nhiều phía bởi trong tâm thức phát triển chung thì hòa bình để phát triển vẫn tốt hơn phát triển nhờ đấu tranh. Bài học này mang đến giá trị cho cả văn học, Phật giáo nói chung và hình tượng Lan, ni giới Việt Nam nói riêng.



Nguyễn Thành Trung



Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

Giới thiệu tiểu thuyết Tắt Lửa Lòng (Chuyện tình Lan và Điệp) | Nguyễn Công Hoan - Anh Kiệt Đọc Sách


Toàn bộ tiểu thuyết Tắt Lửa Lòng (Chuyện tình Lan và Điệp) | Nguyễn Công Hoan

Anh Kiệt Đọc Sách




Thứ Năm, 12 tháng 6, 2025

Câu chuyện đằng sau mối tình "Lan và Điệp" có gì mà bất hủ ?


Câu chuyện đằng sau mối tình "Lan và Điệp"
có gì mà bất hủ ?

Hoài Mi




Là đề tài muôn thuở của âm nhạc, tình yêu được đại đa số nhạc sĩ khai thác và khắc họa muôn hình vạn trạng qua nhiều giai điệu. Từ những cảm xúc mới chớm của tình yêu, nỗi xao xuyến lẫn chạnh lòng của cuộc tình đơn phương, sự tuyệt vọng khi cho đi mà không được đáp lại,
tới nỗi tổn thương vì niềm tin đổ vỡ, tất cả đều mang những màu sắc riêng trong âm nhạc. Qua đó, chúng ta sẽ nhận ra rằng, dẫu hạnh phúc hay đớn đau, thì tình yêu vẫn là điều dũng cảm nhứt mà con người có thể dành cho nhau.
Hoài Mi



Thứ Tư, 11 tháng 6, 2025

Từ “Lan và Điệp” đến “Hồn Bướm Mơ Tiên”


Từ “Lan và Điệp” đến “Hồn Bướm Mơ Tiên”

dieutran


Tôi không nhớ tác giả chuyện tình Lan và Điệp là ai, nhưng nhớ rằng, cô đào Kim Cương đã lấy không biết bao nhiêu nước mắt của khán giả khi cô diễn vai Lan trong truyện tình Lan và Điệp. Khán giả của cô chẳng phải chỉ có ông già bà cả đâu, mà ương ương, nhỡ nhỡ, thanh niên, thiếu nữ khi xem tới đoạn sư cô Lan cắt đứt giây chuông để cho Điệp trở về với gia đình, với bổn phận thì khán giả đều khó cầm nước mắt vì Kim Cương diễn hay quá ! Cô nức nở cắt đứt giây chuông chính là can đảm, cắt đứt mối tình mà cô đã đặt tất cả tương lai vào đó.

Câu chuyện này thật tội nghiệp vì anh chàng Điệp nào phải kẻ bạc tình ! Anh ta là nạn nhân của lòng người nham hiểm, xấu xa. Gia đình ông bà phú hộ có cô con gái hư hỏng lỡ mang một hoang thai đã vớ lấy anh học trò hiền lành từ quê lên tỉnh trọ học như một chiếc phao để cứu gỡ danh dự hão huyền cho gia đình họ. Ông bà phú hộ đã chuốc rượu cho Điệp say mèm rồi sai gia nhân khiêng chàng vào phòng con gái. Sáng ra, cũng chính họ vào phòng hô hoán lên rồi lôi Điệp về quê, mắng nhiếc bà mẹ quê tơi bời. Kết cuộc màn kịch bất nhân thất đức đó là họ gia ơn cho hai mẹ con Điệp bằng cách bắt Điệp phải làm đám cưới với con gái họ tức khắc!

Cô thôn nữ mộc mạc tên Lan như từ trên trời rớt xuống vực thẳm. Với tâm hồn lành thiện, Lan làm sao hiểu nổi những điều ác độc, tồi bại như thế ! Và mẹ của Điệp, bà mẹ quê nhân hậu luôn coi Lan vừa như con gái, vừa như con dâu đã xỉu lên xỉu xuống trước tai họa tày trời. Bà không chỉ nhục nhã, đau đớn cho mình mà còn vô cùng lúng túng, thương cảm cho Lan ! Trong vở kịch có những đoạn cải lương rất bi ai mà tôi còn nhớ lõm bõm : “Kéo vạt áo lau đôi giòng nước mắt. Lạy mẹ cha, con thí phát quy y. Con dao kia với xác bướm khô này. Con chôn lấp dưới cội cây ngoài cửa Phật” Đó là lời Lan thưa với cha mẹ. Còn lời nói với Điệp thì Kim Cương xuống câu vọng cổ mùi riệu, không hiểu sao tôi vẫn còn nhớ: “ Điệp ơi, cánh bướm năm xưa hãy bay đi đừng trở lại vì em hiện nay chỉ còn là một đóa lan …… tàn. (tưng … tưng… từng… tưng..)

Quý đạo hữu nào biết hát vọng cổ thử xuống giọng câu này xem, rồi hát tiếp thế này: “ Em biết anh chẳng dạ phụ phàng nhưng kiếp này đã lỡ, xin Điệp đừng lưu luyến chi Lan. Hãy để cho em yên tâm rảnh dạ tu hành. Mượn kinh kệ chốn thiền môn để vơi đi mối sầu vạn cổ” ( ớ….ơ…..ơ..)

Thời được mẹ cho đi theo xem tuồng, tôi cũng chỉ hơn mười tuổi nhưng tôi nhớ rất rõ cái cảm giác bất toại ý của mình khi toàn bộ vở tuồng chỉ chú trọng vào những chi tiết lâm ly bi đát mà để cho cô Lan đi tu chỉ vì thất tình! Khi đã mười tám, đôi mươi, mẹ rủ đi xem tuồng, tôi không đi nữa. Tôi không chịu được ý nghĩ bôi bác Đạo khi đưa ra hình ảnh những người đi tu chỉ vì bị ngoài đời vùi dập chứ không vì nhìn thấy con đường đạo. Thuở đó tôi cũng hiểu gì đạo đâu nhưng lờ mờ cảm nhận như thế với vở tuồng Lan và Điệp, nổi tiếng suốt nhiều thập niên. Có lẽ do vở tuồng quá nổi tiếng nên tôi mới bất nhẫn vì nó đi vào lòng dân gian cái tư tưởng cửa chùa là nơi rộng mở, sẵn sàng đón nhận mọi chúng sanh khổ đau, chứ việc vào chùa để được hướng dẫn tìm ra con đường giải thoát khổ đau chỉ là phụ thuộc. Nỡ nào tác giả vở tuồng đặt nặng phần tình tiết éo le nên chỉ cho khán giả thấy Lan bị đời bầm dập nên chạy vào chùa trốn ! Chỉ có thế thôi ! Thậm chí, khi thế nhân nhìn thấy sư cô nào còn trẻ là khởi ngay câu hỏi “Trẻ đẹp thế mà sao đi tu ? Chắc lại vì thất tình !”.

Đó, văn hóa dân gian nguy hiểm là thế đó.

Còn câu chuyện “Hồn Bướm Mơ Tiên” thì lại khác. Tác giả là nhà văn Khái Hưng, người đầu đàn trong Tự Lực Văn Đoàn một thời làm mưa làm gió trên văn đàn Việt Nam. Cô Lan ở đây không đi tu vì thất tình, không biết rõ lý do nào đi tu nhưng cô muốn yên thân tu hành nên đã cải dạng nam trang, được Sư Cụ chùa Long Giáng thâu nhận làm đệ tử với pháp danh là chú tiểu Ngọc-Lan. Đệ tử của sư cụ đều có pháp danh từ các loài hoa. Cô Lan này đến chùa vào mùa Xuân nên có tên là Ngọc Lan, tình cờ như tên con gái.

Rắc rối bắt đầu khi người cháu gọi sư cụ bằng bác, từ Hà Nội, muốn mang sách vở về chùa để yên tĩnh ôn bài trong dịp nghỉ hè. Chàng sinh viên tên Ngọc đó đã gặp chú tiểu Lan trên đường chú đội thúng sắn về chùa. Ngay phút đầu, Ngọc đã thầm nghĩ “Sao ở chốn quê mùa lại có một chú tiểu trắng trẻo, đẹp trai đến thế?” Anh chàng này thật là tầm bậy quá ! Anh ta muốn về nơi yên tĩnh để học bài mà chưa tới chùa đã quậy sự yên tĩnh bằng tâm nghi ngờ cái việc chẳng ăn nhập gì tới anh ta ! Tệ hại hơn, sự nghi ngờ không dừng ở đấy, nó mỗi ngày mỗi tăng trong suốt thời gian anh ở chùa Long Giáng. Nào là giả bộ nói về giấc chiêm bao thấy đi chơi với một sư chú tuổi chạc chú Lan. Hai người leo đèo lội suối, khi chợt quay lại thì không thấy sư chú đâu mà chỉ thấy một thiếu nữ diễm lệ là …. chú Lan ! Nào là ỡm ờ bảo chú Lan cứ cầu nguyện được cải nam vi nữ đi, chú thành tâm thì Đức Thích Ca sẽ cho toại nguyện đó ! Mà đã hết đâu, vì cái tâm nghi ngờ càng ngày càng lớn nên anh chàng tìm đủ mọi cách theo dõi chú Lan. Chú thỉnh đại hồng chung trên gác chuông anh cũng đi theo, chú đi hái chè dưới chân đồi anh cũng lò dò xuống, rồi bầy đặt cầm theo giá vẽ, bút mầu, ngồi vẽ tranh.
Chú Lan lại vô tình nói:

– Tranh thiếu người.

Thật đúng là trao banh cho chàng đá, vì nghe lời phê bình đó, anh chàng Ngọc sốt sắng ngay:

– Tôi cũng đang định nhờ chú làm mẫu đây. Chú làm ơn đứng tựa gốc thông kia một tý nhé.

Chú Lan này cũng khá ngây thơ, bèn từ bi ra tựa gốc thông. Thế là chàng Ngọc tha hồ ngắm ! Khoảng mươi phút sau, Ngọc tuyên bố đã vẽ xong. Chú Lan chạy tới xem, hốt hoảng vì người trong tranh là một thôn nữ mặc áo tứ thân !

Ấy, cứ như thế, anh chàng về chùa đã mười ngày mà chẳng thấy ông Khái Hưng cho biết anh học ôn được những bài gì, vì thì giờ của anh hầu như dồn cả vào việc tò mò tìm xem chú tiểu Lan là trai hay gái !

Cao điểm của câu chuyện là khi sư cụ sai chú tiểu Lan đem phẩm vật sang chùa Long Vân ở làng bên. Dĩ nhiên là anh chàng Ngọc xin đi theo. Vì biết Ngọc là cháu của sư cụ chùa Long Giáng nên sư ông chùa Long Vân khẩn khoản giữ lại chơi để chàng thanh niên tỉnh thành có đủ thì giờ vãn cảnh. Đêm hôm đó, Ngọc quyết tìm sự thật nên đã nói những lời hung bạo khiến chú Lan hoảng sợ, bỏ chạy ra khỏi chùa. Ngọc đuổi theo, kéo trở lại. Sự giằng co làm đứt mấy nút áo của Lan. Dưới ánh trăng, Ngọc rú lên khi thấy ngực Lan quấn chặt vải nâu !!!

Tìm ra được sự thật thì Ngọc ân hận, thật sự ân hận vì đã làm xáo trộn đời tu hành của Lan. Để chứng minh lòng ăn năn, Ngọc long trọng hứa sự thật này sống để dạ, chết mang đi, không nói cho ai biết. Không những thế, chàng ta còn hứa sẽ rời chùa ngay, trả lại sự yên tĩnh cho Lan.

Nếu câu chuyện chấm dứt ở đây, để khoảng trống cho mỗi độc giả cảm nhận xúc động của mình, có lẽ hay hơn. Tôi chủ quan cho là thế.

Tới chùa làm công quả trong kỳ An Cư Kiết Hạ vừa qua, tôi được nhìn thấy rất nhiều sư cô, sư chú rất trẻ. Chỉ cần nhìn thôi, tôi đã được quý vị ấy truyền cho tràn đầy năng lượng an lạc, vững chãi. Họ là biểu hiện của “như thị”. Thanh tịnh, an nhiên, hỷ lạc, nhìn thôi, là thấy ngay như thế, rõ ràng như thế, không cần suy nghĩ đắn đo, hỏi han, quán chiếu gì. Những cảm xúc này đã bất chợt khiến tôi liên tưởng về hai tác phẩm nổi tiếng “Lan và Điệp” và “Hồn Bướm Mơ Tiên”.

Tôi ngạc nhiên khi nhận ra cái nhìn của mình về việc đi tu của cô Lan trong “Lan và Điệp” đã khác hẳn. Động lực khiến Lan đi tu là vì đau khổ, nhưng nếu hiểu theo tinh thần kinh Duy Ma Cật “phiền não là hạt giống Như Lai” thì có phải sự đau khổ ấy là nghịch-duyên đưa đến thuận-duyên để hạt giống bồ-đề Lan gieo từ kiếp nào, nay đủ duyên mà nẩy nở ? Nay tôi tin như thế vì có phải cô gái nào thất tình cũng đi tu đâu mà đa số kẻ thất tình thường …. tự tử vì họ cho rằng chết là hết khổ. Đã đang khổ vì bị phụ tình lại còn vào chùa sống kham khổ thì ….. khổ quá, chịu sao thấu !!! Hoặc giả, có cạo đầu vào chùa nhưng vào với mục đích “trốn khổ” thì tu làm sao được ? Khổ hay sướng ở trong tâm chứ ở đâu nơi chốn ?

Tôi tin chắc Lan tu được vì tâm hồn cô thôn nữ đó quá lành thiện, quá trong sáng nên tuy đau đớn vì bị phụ bạc nhưng không khí thiền môn là môi trường toàn thiện nhất để tương ưng với tâm hồn “Nhi sanh kỳ tâm” đó. Khi sự tương ưng đã khít khao thì bản nguyện sẽ tròn đầy, viên mãn.

Còn cô Lan trong “Hồn Bướm Mơ Tiên”, tôi không nghĩ cô đi trọn được đường tu vì tâm cô đã bị ái tình của anh chàng Ngọc làm cho vẩn đục.

Đọc mấy trang kết, nếu là sư cụ chùa Long Giáng thì dù từ bi tới mấy, tôi cũng phải lôi đứa cháu rắn mắc này ra, bắt nằm sấp xuống sân chùa và đánh cho một trận. Vừa đánh, tôi sẽ vừa nói “Mong rằng những lằn roi này sẽ trả bớt cho cháu phần nào tội lỗi đã gây ra, vì cháu ơi, tội từ tâm khởi, do tâm tạo, cháu đã khuấy động tâm chú Lan thì chú ấy sẽ tự đọa, tự cứu chứ đâu phải việc cháu rời chùa là cứu được chú ấy!”

Nếu sư cụ đọc hết đoạn kết, ông Khái Hưng viết, thì có lẽ sư cụ không chỉ đánh đòn anh chàng Ngọc mà hàng đêm sư còn phải tụng Thủy Sám, phụ cho cháu mình. Vì sao ư ? Vì gần mười trang cuối, ông Khái Hưng cho độc giả thấy chú Lan cũng “tương tư” rồi ! Chú vào ra những nơi có kỷ niệm của Ngọc, ngơ ngẩn nhớ trước quên sau đến mức chú phải kinh hoàng thốt lên “ Thôi, ta điên mất rồi ! Chẳng lẽ ….”

Chẳng lẽ gì nữa ! Chú tiểu Lan này có ngồi thiền, tụng kinh ròng rã đêm ngày, e cũng khó thấy Phật vì không những tâm vẫn ở ta-bà mà thân cũng đang quằn quại đớn đau vì ái dục trần gian!

Ngày mai gặp các bạn đạo, tôi phải chia sẻ những ý nghĩ ngộ nghĩnh về hai sư-cô tên Lan này, xem quý đạo hữu có đồng ý với tôi không nhé!. Tôi không nghĩ đây là sự chia xẻ hý luận viển vông, vì quán chiếu hai câu chuyện này chẳng phải là chúng ta đang quán chiếu bài học về TÂM đó sao?

dieutran



Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Tham luận: Thử so sánh tình yêu và tôn giáo trong hai cuốn sách "Tắt lửa lòng" của Nguyễn Công Hoan và "Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng


Thử so sánh tình yêu và tôn giáo
trong hai cuốn sách
"Tắt lửa lòng" của Nguyễn Công Hoan và
"Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng

Huy Thanh


I - NỘI DUNG HAI CUỐN SÁCH:

A - TÓM LƯỢC CUỐN "TẮT LỬA LÒNG" CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
Vì cuốn Tiểu Thuyết quá dài, lại quá nhiều tình tiết nên tôi xin phép không đăng hết nguyên văn, mà chỉ lược khảo cốt truyện, đồng thời trích dẫn chứng những điều cảm nghĩ từng đọan văn ngắn, để quý dộc giả tiện việc theo dõi.

Điệp là một thanh niên học thức, anh vừa thi hỏng bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Thành Chung tiếng Pháp gọi là Diplome), Điệp là con của ông bà Cử. Trước đây khi ông Cử còn sống, ông đã cùng người bạn thân là ông Tú hứa hẹn làm suôi gia sau nầy. Họ hẹn nhau khi Điệp công thành danh toại, thành nghề thầy giáo như ước muốn thì sẽ lấy cô Lan con ông Tú làm vợ.

Sau khi ông Cữ mất, gia đình Điệp sa sút dần, bà Cử phái đi bán đầu chợ sớm hôm, gia đình Điệp vướng vào cảnh nghèo khó. Ông Tú thấy hoàn cảnh nhà bà Cử như vậy nên hết sức giúp đở, nhất là ông thường giúp tiền bạc cho Điệp đi ăn học một cách rất khéo léo, tế nhị mà anh không hay biết. Riêng Lan, con ông Tú, được sự giáo huấn của cha nên sống rất có đạo đức, nết na, hiền lành, chân thật. Cô không vì hoàn cảnh nghèo khó của Điệp mà phụ lòng nhân nghĩa mà trái lại cô càng thêm yêu quý, tìm cách giúp đỡ vị hôn phu của mình hơn. Hai người vẫn lén gặp nhau tâm sự, "tình trong như đã mặt ngoài còn e", nhưng hai bên vẫn giữ trong vòng lễ giáo.

Biết Điệp vừa thi hỏng, ông Tú cũng buồn nhưng ông cũng an ủi và khuyến khích Điệp rán học lại, thi khoá sau. Riêng Lan, việc Điệp thi đậu hay không cũng không liên quan gì đến tình yêu của hai người.
Nhưng riêng Điệp anh rất mặc cảm vì chuyện thi hỏng, anh cho đó là mình đã phụ bạc lòng tốt của ông Tú và tình yêu của Lan nên gởi bức thư cho cô bày tõ tấm lòng và xin từ hôn. Lan không trả lời thư nên Điệp phải tìm cách gặp riêng cô để nói chuyện dứt khoát. Lúc đó Lan mới nói rỏ lòng mình khiến Điệp rất cảm đông an tâm quyết chí học hành thi lại ở Khoá sau.

Khoá thi sau Điệp suýt hỏng vì gặp vị Giám Khảo quá khó nếu không nhờ có ông quan Phủ, một bạn thân của vị Giám Khảo nói giúp nên Điệp mới thi đậu.
Quan Phủ là một người sống không đạo đức, rất giả nhân giả nghĩa, ông giúp Điệp là để che đậy một âm mưu lợi dụng Điệp sau nầy. Ông khuyên Điệp đừng thi vào ngành Sư phạm theo đuổi nghề dạy học, mà ông sẽ giúp Điệp vào ngành lục sự (thư ký Toà) để có cơ hội thăng quan tiến chức, bởi vì ông sắp được thăng chức Chánh Án trong ngành Toà Án, sẽ có nhiều cơ hội giúp cho Điệp mau thăng quan tiến chức. Vì còn non nớt, mới ra đời nên Điệp sa vào bẫy của ông Phủ, răm rắp nghe lời ông.
Một hôm, ông mời Điệp cùng "ăn tiệc mừng" ngày Điệp vào làm ngành Toà Án tại Phủ của ông. Đêm đó, ông ép cho Điệp uống say rượu rồi cho người khiêng Điệp vào phòng ngủ của cô Thuý Liễu, con gái ông, một cô gái nhà quan đỏng đảnh, khinh người, đang có chửa hoang với một tên lính trong phủ tên là Cách, tức Tư Kềnh. Điệp đã mắc bẫy của ông Phủ, vì do say quá nên anh không biết gì, anh nghĩ rằng mình đã phá hoại trinh tiết của Liễu mà không biết Liễu đã có thai trước đó. Mặt khác, anh còn bị ông Phủ hăm dọa nên đành phụ bạc tình của Lan để lấy Thúy Liễu. Sau khi cưới nhau, Điệp mới vỡ lẽ là Thúy Liễu đã có thai hoang. Cảnh gia đình Điệp không có hạnh phúc vì sự khinh khi, hà hiếp của gia đình ông Phủ và cả Thuý Liễu nữa. Anh hối hận, xin ly dị Thuý Liễu và hy vọng sẽ trở về với Lan nối lại duyên tình.
Riêng Lan vì quá buồn rầu cuộc tình tan vỡ nên bỏ nhà xuống tóc, vào chùa Phương Thành tu, sau khi đả đào hố chôn một xác con bướm (Điệp) và cánh hoa lan (Lan) ý nói cô đã chôn chặt mối duyên tình năm xưa, quyết một lòng theo Phật. Điệp đã đến chùa Phương Thanh thăm Lan nhưng Lan thấy Điệp thì né tránh, không ra, mặc dù cô rất đau lòng. Sợ Điệp giựt dây chuông làm náo loạn cửa Thiền nên Lan dùng kéo cắt đứt dây chuông. Điệp buồn rầu trở lại nhà, anh quyết tâm tìm quên nổi buồn bằng cách tiếp tục theo đuổi việc đèn sách. Nhờ sự giúp đở của ông Tú cha của Lan, Điệp sang Pháp du học và trở thành bác sĩ, anh trở về nước mở một nhà thương riêng.
Sau đó vài năm, một hôm, có cậu bé đến tìm Điệp vi muốn truy tầm nguồn gốc cha của mình, cậu bé tên là Vũ, chính là đứa con hoang của Thuý Liễu với tên lính Cách tức Tư Kềnh mà cậu bé nghĩ rằng Điệp là cha của mình. Nguyên nhân là sau khi sinh đứa bé, Thuý Liễu đã lấy họ Vũ của Điệp để đặt tên cho con nên mới có sự hiểu lầm của cậu bé. Điệp đã lấy những giấy tờ chứng minh là mình không phải là ba ruột của Vũ. Sau cùng thi Vũ cũng tìm ra được cha ruột của mình là Tư Kềnh, một tên lính của ông quan Phũ ngày trước. Điệp đã gởi thư cho Lan tại Chùa để nói mình đã ly dị Thuý Liểu và muốn gặp lại Lan, nhưng cô tưỡng rằng Điệp còn ở với Thúy Liễu nên không đọc thư.
Sau đó Lan vì quá buồn rầu thân phận, tình duyên trắc trở nên mang bệnh nặng. Điệp được tin của Xuân, em gái Lan báo nên lập tức cùng Xuân đến Chùa chở Lan vào bệnh viện của mình. Bệnh Lan đã quá nặng nên Điệp phải nhờ nhiều bác sỉ bạn bè khác tiếp tay nhưng cũng không khỏi. Điệp cũng viện trợ ngành Đông Y chửa trị nhưng tất cả cũng đều bó tay. Mặc dù đã tìm hết cách cứu chữa, nhưng bệnh của Lan cũng không thuyên giảm. Lan qua đời để lại cho Điệp một mối hận lòng khôn nguôi.



B - TÓM LƯỢC CUỐN "HỒN BƯỚM MƠ TIÊN" CỦA KHÁI HƯNG:
Ngọc là một kỹ sư Canh nông học từ Pháp về, anh là cháu gọi sư cụ trụ trì Chùa Long Giáng bằng Bác. Anh có hẹn với sư cụ là khi về nước sẽ đến chùa thăm ông. Đến ngày hẹn, Ngọc vưà đến thì sư cụ đã sai chú tiểu Lan đón tiếp hướng dẫn về Chùa. Vốn tánh tình cởi mở, vui vẻ, phóng khoáng thêm chút lãng mạn từ khi học bên Tây nên Ngọc nhanh chóng làm chú tiểu Lan từ ngại ngùng, e dè người khách lạ, đã trở nên thân mật lúc nào không hay. Qua cách nói chuyện, dáng vóc, cử chỉ của Lan, ngay từ đầu Ngọc đã nghi cô là con gái giả trai đi tu. Ngọc nhất quyết trong thời gian ở lại Chùa sẽ khám phá điều bí ẩn nầy.
Thời gian ở Chùa, do sư cụ bố trí chú tiểu Lan chăm sóc việc tiếp khách nên Ngọc có nhiều cơ hội tâm sự với chú tiểu Lan về cuộc đời, đạo lý và tìm hiểu về đời tư chú tiểu nầy. Anh tìm cách nói xa, nói gần để dò hỏi ý tứ chú tiễu nhưng Lan đã né tránh. Về phần chú tiểu Lan, chú cũng nghĩ rằng Ngọc đã nghi mình là gái giả trai nên hết sức né tránh những câu trả lời về tình yêu.
Một đêm, Ngọc thấy chú tiểu Lan rón rén đi cầu nguyện một mình, Ngọc lén theo sau để xem coi chú cầu nguyện gì, Ngọc chỉ nghe tiếng cầu nguyện của chú tiểu Lan: " ...Phù hộ cho đệ tử ...đủ nghị lực xa chốn trầm luân. Đệ tử đã dốc lòng tin mộ đạo, không ngờ hôm nay mới biết lòng trần tục vẫn còn chưa rũ sạch, nhưng đệ tử xin thề...", Ngọc còn nghe rõ trong lời cầu nguyện của chú tiểu Lan có nói đến tên mình và cái tên Thi nào đó. Ngọc suy đoán là tên thật của chú tiểu Lan chính là Thi. Từ đó, Ngọc rắp tâm theo dỏi để tìm ra sự thật.

Một hôm sư cụ sai Ngọc và chú tiểu Lan sang Chuà Long Vân làng bên để trả quả ngày lễ.
Dọc đường hai người phải nhảy qua một cái mương, chú tiểu Lan phải nhờ Ngọc kéo nên ngã vào lòng Ngoc. Cái đụng chạm ấy làm cho Ngọc có cái cảm giác rất khó tả như ôm người con gái. Đến chùa Long Vân, họ sắp xếp Ngọc và chú tiểu Lan cùng ngũ một phòng. Chú tiểu Lan nhường cho Ngọc ngũ giường, còn mình thì ngũ đất, càng làm Ngọc nghi hoặc hơn. Trời tối dần, chú tiểu Lan đi với Ngọc về phòng ngũ, liếc thấy khuôn mặt Ngọc có vẻ khó hiểu nên hoảng hốt bỏ chay. Ngoc rượt theo nắm áo chú tiểu Lan lai thì cúc áo tuột ra. Ngọc phát hiện một cái yếm nâu sòng trên ngực chú tiểu Lan. Nhưng Ngọc giã vờ không thấy.
Nửa đêm Ngọc thức dậy thì thấy chú tiểu Lan đi đâu mất. Anh rón rén đi ra thi thấy chú tiểu Lan đang cắp tay nãi chạy trồn. Ngọc rượt theo gọi to, chú tiểu Lan thấy Ngọc rượt theo thì sợ quá té sấp bên gốc cây thông. Lúc đó chú tiểu Lan mới thú thật với Ngọc mình là gái. Lan tâm sự vì gia đình cô ép gã cô cho người không yêu nên cô trốn nhà giả trai lên Chùa Long Giáng xin đi tu, ngay cả sư cụ và những đồng môn cũng không biết cô là con gái. Cô yêu cầu Ngọc giữ kín chuyện nầy. Ngọc hứa là anh sẽ giấu kín không nói với ai để Lan yên tâm tu hành.
Ngọc thấy nếu mình ở lại chùa lâu, tình yêu Lan càng ngày càng sâu đậm, khó mà giữ lời hứa, nên trở về nhà ở Hà Nội mà không cho Lan biết. Khi trở về Hà Nội, Ngọc cảm thấy không thể xa cô nên quay trở lại Chùa Long Giáng để thăm Lan. Hai người gặp lại nhau, họ chấp nhận tình yêu của họ giử trong ý nghĩa thanh cao, trong sạch, nói cách khác, cái mà họ yêu nhau chính là tâm hồn để Lan trọn vẹn lời hứa là trọn đời quy y cửa Phật.



II - SO SÁNH HAI CUỐN SÁCH "TẮT LỬA LÒNG" VÀ "HỒN BƯỚM MƠ TIÊN"

Hai cuốn sách nầy đều viết theo chủ đề Tình Yêu lãng mạn và dang dở, tình yêu của họ được lồng vào khung cảnh đạo lý là cả hai nhân vật chính đều lấy cảnh tu hành cửa Phật làm nơi giải thoát cho những đau khổ của ái tình. Ta thử xem hai cuốn sách nầy có những điểm giống nhau, khác nhau như thế nào.

A - NHỮNG ĐIÊM GIỐNG NHAU:
A1 - HÌNH THỨC:

- Cả hai đều sử dụng lối viết văn xuôi, tả cảnh, tả tình, tả chân xen lẩn phân tích tâm lý nhân vật.
A2 - NỘI DUNG:

1. Cả hai đều lấy sự dang dở của tình yêu làm chủ đề chính: Ngọc và Lan trong "Hồn Bướm Mơ Tiên", Lan và Điệp trong "Tắt lửa Lòng".

2. Nhân vật nam chính trong cốt truyện đều là người trí thức: Ngọc là kỹ sư canh nông học từ Pháp về trong " Hồn Bướm Mơ Tiên", còn Điệp là lục sự Toá Án, sau đó là bác sĩ y khoa học từ Pháp về trong "Tắt Lửa Lòng".


B - NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU:
B1 - HÌNH THỨC:

1. Văn phong "Hồn Bướm Mơ Tiên" viết theo lối truyện dài, cốt truyện đơn giản, chủ yếu là dùng lối văn tả cảnh, phối hợp vời mô tả tâm lý nhân vật. Còn "Tắt Lửa Lòng" viết theo lối văn tiểu thuyết, chủ yếu là đối thoại và tả chân, ít tả cảnh và không đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật.

2. "Hồn bướm mơ tiên" ít nhân vật (Ngọc, Lan, Sư Cụ, chú Mộc, bà Hộ) không có nhân vật phản diện, còn "Tắt lửa lòng" nhiều nhân vật chính diện (Điệp, Lan, Ông Tú, Bà Cử, Xuân, Vũ, vú Áp, bà Hộ) cũng như phản diện (Thuý Liễu, ông Phủ, Tư Kềnh).

3. "Hồn bướm mơ tiên" cách bố cục khép chặt, kết nối các phân đọan gắn bó logic, còn "Tắt lửa Lòng" cách bố cục chia nhiều phân đọan, cách khoảng nhau, rời rạc.

4. "Hồn bướn mơ tiên" cốt truyện đơn giản, viết ngắn, còn "Tắt Lửa Lòng" cốt truyện dài, nhiều tình tiết éo le, viết dài.

B2 - NỘI DUNG:

1. "Hồn bướm mơ tiên" lấy bối cảnh là nhân vật chính đã đi tu trước, (chú tiểu Lan) rồi tình yêu tục luỵ đến sau. Còn "Tắt lửa Lòng" thì tình yêu tục luỵ đến trước rồi nhân vật mới đi tu sau (Cô Lan).

2. "Hồn bướm mơ tiên" nhân vật chính đi tu là gái giả trai (chú tiểu Lan), còn "Tắt Lửa Lòng" nhân vật chính đi tu là gái (cô Lan).

3. Kết thúc "Hồn bướm mơ tiên" là một kết thúc đa nguyên, nghĩa là một đoạn kết thúc đa chiều, có nhiều cách để người đọc suy diển theo sự xúc đông của mình, cảm nhận của tác phẩm đối với nhân vật. Còn "Tắt Lửa Lòng", kết thúc đơn nguyên, nghĩa là một kết thúc dứt khoát, để mọi người đọc đều có cùng một cảm xúc như nhau.

4. "Hồn bướm mơ tiên" lấy đạo là sự cứu rỗi, để hướng thượng tình yêu từ cái tiểu ngã trần tục sang cái đại ngã thoát tục, siêu nhiên, còn "Tắt lửa lòng" lấy đạo như là cách giải thoát, nơi trốn tránh những nổi khổ đau của trần tục, nơi tạm lánh để qua những khổ ải trần gian, lấy cái đại ngã để cứu lấy cái tiểu ngã.

5. Cách kết thúc của "Hồn Bướm Mơ Tiên" không gây cảm động, xúc cảm cho người đọc, còn "Tắt lửa lòng" gây xúc đông đến rơi nước mắt. Chính vì vậy nên vở tuồng cải lương "Chuyên Tình Lan và Điệp" của soạn giả Trần Hữu Trang đã rất nổi tiếng cho đến bây giờ. Một tác phẩm nhạc "Chuyện Tình Lan và Điệp" của Mạc Phong Linh cũng rất phổ biến từ thập niên 1960, được nhiều người biết đến.



III NHỮNG ĐOẠN TRÍCH DẪN TIÊU BIỂU TRONG HAI TÁC PHẨM:
A - TRICH DẪN TRONG "HỒN BƯỚM MƠ TIÊN":
Như tôi đả trình bày trong phần trên, "Hồn Bướm Mơ Tiên" dùng lối văn phong tả cảnh, tả tình, phân tích tâm lý nhân vật. Ta thử lược trích vài đoạn hay để thấy cái tài văn phong của Khái Hưng trong lĩnh vực nầy.

A1:
"Phía Tây, sau dãy đồi cỏ biếc, sắc trời đỏ ửng lấp loáng qua các khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu pong đã lẫn cùng mầu đất, cùng cây, cùng cỏ. Khoảnh khắc mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cảnh nhuộm đồng một mầu tím thẫm. Trong làn không khí yên tỉnh tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiến làm, tăng vẻ đẹp cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọn khói thướt tha, bông luá sột soạt như cảm tiếng gọi muốn theo về nơi hư không tịch mịch" (Đoạn tả cảnh chuà Long Giáng).

A2:
"Về phía đông mấy trái đồi phản chiếu ánh nắng chiều tà nhuộm một sắc da cam. Nền trời xanh nhạt lơ thơ mấy áng mây hồng. In trên cánh đồng luá chín mầu vàng thẫm con cò trắng thong thả bay về phí tây, đôi cánh lờ đờ cất lên đập xuống loang loáng ánh mặt trời. Bên cái quán cũ, ẩn nấp dưới đám mây đen trên con đường hẻm, vài ba đứa mục đồng cưởi trâu hát nghêu ngao trở về trong xóm. (Đoan tả cảnh Ngọc đang vẻ tranh cho chú tiêu Lan coi).

A3:
"Nói xong Ngọc quay đi, Lan ngồi phịch xuống bưng mặt khóc. Ngọc rón rén trở lại yên lặng đứng ngắm Lan. Mặt trời đã lặn sau dãy đồi Tây. Vạn vật nhuốm mầu ảm đạm... Lá rụng.
Lan mở choàng mắt, ngơ ngác nhìn. Rồi mỉm cười:
- Ông vẫn chưa về?

- Lan coi, Lan đuổi Ngọc về mà Lan vẫn mừng khi Ngọc còn ở lại. Trí Lan đi một đường mà tâm Lan đi một lối. Ngọc thương Lan, muốn hy sinh vì Lan.
Lan đăm đăm nhìn phía chùa se sẻ nói:
- Quên, phải quên.
- Nhưng nào quên được. Ngọc chẳng dám mơ màng nọ kia, chỉ ao ước thỉnh thoảng được lên Chùa nhìn thấy mặt Lan là đủ rồi. Vậy Lan cứ ở đây mà tu hành, rồi ngày Ngọc được nghĩ lại cho phép Ngọc phóng xe đạp lên Chùa thăm Lan.
Lan mỉm cười:
- Nếu được mãi như thế.
- Tôi xin thế với Lan là tôi giữ được mãi như thế, tôi thề với Lan rằng suốt một đời tôi sẽ chân thành thờ trong tâm cái linh hồn dịu dàng của Lan. Nghĩa là suốt đời tôi, tôi không lấy ai, chỉ sống trong cái thế giới mộng ảo cuả ái tình lý tưỡng, bất vong bất diệt.
Lan đưa vạt áo lau nước mắt:
- Tôi hiểu lầm ông rồi. Tôi xin ông lại nhà kẻo trời sắp tối.
Ngọc từ giã Lan dắt xe đap xuống đồi.
Bây giờ sắc trời dìu dịu, vạn vật như theo tiếng chuông chiều thong thả rơi vào quãng êm đếm tịch mịch. Lan đứng chấp tay tụng niệm, mắt lờ đò nhìn xuống con đường đất quanh co lượn khúc dưới chân đồi.
Gío chiều hiu hiu.
Lá rụng.

(Đoạn cuối).

B - TRÍCH DẪN TRONG "TẮT LỬA LÒNG"
B1
"Bệnh Lan mỗi lúc một trầm trọng đến nổi Điệp không những không có hy vọng chửa khỏi mà cũng không mong hằng ngày nửa, được giờ nào hay giờ ấy mà thôi. Điệp hết sức chữa cho Lan tỉnh trong một lúc để được nói chuyện trước khi vĩnh quyết nhưng khó quá, lúc nào Lan cũng li bì, mà ba bốn bận ngất đi. Bỗng nhiên Lan thở mạnh một cái, rồi hai con mắt mở to có vẻ có tinh thần. Điệp mừng quá nhưng là cái mừng trong sự tuyệt vọng, vì biết rằng đó là phút cuối cùng của đời Lan. Lan giương mắt nhìn Điệp và Xuân. Điệp ghé đầu lại gần gọi:
- Cô Lan
Xuân rơm rớm nước mắt:
- Chị ơi
Điêp hỏi:
- Cô Lan, cô có biết tôi là ai không?
Lan lim dim hai mắt gật đầu Điệp bảo:
- Cô thử nói tên xem có đúng không?
Lan giương đôi mắt chòng chọc nhìn vào mặt Điệp khẻ cất tiếng
- Điệp
Lan ú ớ nói líu lưỡi:
- Thầy mạnh chứ?
- Thầy mất sáu năm nay rồi chị không biết à?
Lan gật, rồi cố dùng hết sức hỏi Điệp bằng giọng khàn khàn khó nghe:
- Mấy con?
Điệp trố mắt ngạc nhiên hỏi:
- Cô tỉnh hay mê cô Lan?
- Tỉnh
- Thế cô có nhận được ba cái thư tôi gởi vào Chùa không?
Lan gật đầu
- Sao cô lại hỏi thế?
Lan lắc đầu đáp:
- Tôi không đọc
Một hồi trồng ngực làm cho Điệp bồi hồi. Điệp nhăn nhó hỏi dồn:
- Sao lại không đoc?
Lan lắc, lã ngẹo đầu thở dài:
- Thế cô có biết tôi bỏ Thúy Liễu ngay sau mấy tháng sau khi cười không?
Lan lắc đầu, Xuân nhìn Điệp nói:
- Hay la chị vẫn tưỡng Thuý Liễu vẩn ở với anh mà không muốn đứng giữa làm rối cuộc hoà hơp của gia đình anh nên mới thế?
Lan gật đầu. Điệp nói:
- Tôi không lấy ai cả, ngày đó tôi bị bắt buộc cưới Thúy Liễu chứ không nhận Thúy Liễu là vợ.
Lan gật đầu
- Ngày tôi bỏ Thúy Liễu tôi có đến Chuà định thăm cô, nhưng không vào vì tôi quyết lập thân trước, rồi mới nghĩ đến cuộc nhân duyên sau.
Một nụ cười héo hắt nở trên cặp môi khô đét của Lan
- Sao cô lại đày đọa thân cô quá thế. Cô làm gì nên tội để thiệt một đời?
Lan nhăn mặt, lắc đầu cố nói:
- Tôi tưởng ...
Rồi rú lên mà ho, ho xong hai mắt đờ ra, lim dim thở. Điệp hỏi:
- Thế ba cái thư tôi gởi giờ ở đâu?
Lan lim dim mắt
- Hòm (rương)
Điệp vò đầu bứt tai:
- Khổ quá, tôi thương cô quá
Điệp nức nở lên mấy tiếng, Xuân cũng thổn thức, Quanh mắt Lan bấy giờ cũng lóng lánh một quầng lệ. Rồi Lan rên, ú ớ như gọi, nhưng không còn ra tiếng gì nửa. Đứng trước cái phút cuối cùng của Lan, Điệp cảm động quá không thể khóc được, cố giương mắt nhìn Lan để được in sâu trong óc người đã hy sinh một đời cho mình được sung sướng. Rồi giật mạnh một cái, hai bàn tay lạnh như đồng, Lan chòang tay ra chặt lấy cổ tay Điệp và Xuân, thì một tiếng nấc, ngực Lan không thoi thóp nửa, hai mắt lờ đờ trắng phết vẩn cố mở nguyên để nhìn vào phía Điệp đứng.

(Đoạn cuối)

B2
"Tiếng kêu nổi lên theo gió đưa đi nhưng giọng rền rĩ sầu thảm, khói hương phảng phất bay lên. đám ma thong thả theo lối rẽ vào làng Văn Ngoại, rồi đi qua rặng tre bên bờ sông, người đưa mỗi lúc một đông ... Trời đã về chiều đã tăng cái vẻ sầu thảm, trời về chiều lại bày thêm cảnh đám ma có giọng khóc nỉ non ai oán. Tạo hoá như khéo vẽ lên bức tranh đoạn trường. Trống vẫn thúc, kèn vẫn rên. Hồn và xác Lan trong chiếc nhà táng nghênh ngang theo sau tiếng bát âm ẻo lả, lượn vùng quanh lũy, qua mấy thửa ruộng trồng mã đề thì hạ xuống, cạnh cái gò chính Điệp và Lan đã ngồi nói chuyện hôm mười sáu tháng năm khoảng mười lăm năm trước. Trời thấp dần. Núi non xa dần. Cảnh vật xung quanh đã nhuộm một mầu sẫm buồn rười rượi như sắp chết. Bức màn sương, trên rũ xuống. xa đưa lại cũng dần dà trùm khuất mọi nơi rải rác vè u ám thê lương vào buổi chiều hôm hiu hắt. Rồi sau, cây lẫn với núi, núi lẫn với trời, ánh sáng lờ mờ chỉ còn thu lại có một khỏang xung quanh gò đất nhô lên giữa cánh đồng không mông quanh"
"Chim lạc đàn bay về tổ đã hết, người đưa đám ma đi về nhà đã thưa. Thấy sự vắng vẻ mỗi lúc một buồn tênh như cảnh chợ buổi chiều hôm thưa lác đác. Điệp xúc động đến cái nỗi đời lẻ tẻ kẻ còn người khuất, tử biệt sinh ly, Rồi đây chàng cũng ít khi về thăm cái gò nầy, mà Lan sẽ một mình chôn chặt khối tình, chờ trăng, đón gió để ôn lại những ngày thơ ngây. Trời thấp dần. xung quanh không có một tiếng động. Núi non cảnh vật đều nhuôm một mầu đen bi đát như để tang. Giữa khoãng vũ trụ cao thâm man mác, trên đỉnh gò còn trơ hai cái bóng người đen đen nhỏ xíu đứng sững gục đầu lặng lẽ trước nấm mồ mới đắp".

(Đoạn cuối).



Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2025

Chuyện tình Lan & Điệp qua góc nhìn của đạo Phật


Chuyện tình Lan & Điệp qua góc nhìn của đạo Phật

Hành Vân


(TG&DT) - Tiếng chuông Chùa ngân vang trầm hùng thanh thoát, nhưng Lan đã nghe với một khuynh hướng sai lầm. Nếu Lan muốn cắt tóc quên đời thì nàng không nên vào Chùa, bởi chùa không phải là chỗ để làm việc đó. Chùa của Phật giáo là nơi để rèn luyện tu sửa, là trường thi làm Phật.

[...]
Trên đây là những thông tin về các tác phẩm Lan và Điệp mà Wikipedia đã cung cấp cho chúng ta, được sửa lần cuối vào lúc 9g30’ ngày 22/02/2011.
Về 4 bài tân nhạc Chuyện Tình Lan và Điệp được phổ biến ở Việt Nam lâu nay, sẽ được trích dẫn để lấy ý tứ cho bài bình luận này. Còn truyện Tắt Lửa Lòng, vở cải lương Chuyện Tình Lan và Điệp, vở tân cổ Lan và Điệp… quý đọc giả có thể tìm trên mạng để xem thêm nếu có nhu cầu tìm hiểu kỹ.
Tôi kể người nghe đời Lan và Điệp, một chuyện tình cay đắng,
Lúc tuổi còn thơ tôi vẫn thường mộng mơ đem viết thành bài ca.
Thuở ấy Điệp vui như bướm trắng, say đắm bên Lan
Lan như bông hoa ngàn, thương yêu vô vàn,
Nguyện thề non nước sẽ không hề lìa tan…
Chuyện của Lan và Điệp là những câu chuyện muôn thuở của nhân sinh. Định dạng của những câu chuyện này là kể về các tình yêu đôi lứa, sẽ trải qua những trắc trở nào đó, cuối cùng là một kết thúc có hậu hay một kết thúc đáng tiếc… Chuyện của Lan và Điệp là một chuyện tình cay đắng, vậy ta có thể biết được là nó có một kết cục đáng tiếc.
Chuông đổ chùa xa, chiều tan trường về, Điệp cùng Lan chung bước
Cuối nẻo đường đi, đôi bóng hẹn mùa thi, Lan khóc đợi người đi.
Lần cuối, gặp nhau Lan khẽ nói: “Thương mãi nghe anh, em yêu anh chân tình.
Nếu duyên không thành, Điệp ơi Lan cắt tóc quên đời vì anh!”…

Tiếng chuông Chùa ngân vang trầm hùng thanh thoát, nhưng Lan đã nghe với một khuynh hướng sai lầm. Nếu Lan muốn cắt tóc quên đời thì nàng không nên vào Chùa, bởi chùa không phải là chỗ để làm việc đó. Chùa của Phật giáo là nơi để rèn luyện tu sửa, là trường thi làm Phật (Tuyển Phật trường) chứ đâu phải đơn giản. Sau này, khi duyên không thành, Lan quả thật đã đến Chùa và một vị thầy nào đó đã bất cẩn cho một kẻ giả trai, một kẻ thất tình đi tu. Xuống tóc rồi, Lan có an tâm tu hành được chút nào, cô ta đã phát tâm Bồ-đề bao giờ, nên “chú Điệp” lúc nào cũng chỉ nhớ đến chàng Điệp! (Lan đã lấy tên Vũ Khắc Điệp, tên của người yêu để đi tu ở một chùa Tăng). Trong trường hợp của Lan, dân gian gọi là “tu hú” cũng chẳng sai.
Lan gói niềm riêng tìm quên lãng ngày qua bên mái chùa,
Sớm chuông chiều kinh mặc thời gian dần trôi trong tái tê.
Nàng không sao xóa tình yêu xưa cũ,
Dẫu cho con thuyền neo bến đường tu.
Lan không mong chờ, nhưng Lan bây giờ mấy ai nào ngờ!...
Một ly nước đã đổ, Lan có thể mong chờ được gì? Cái không mong chờ của Lan là không mong chờ mọi thứ vì đã quá mong chờ một thứ, mà bây giờ thứ ấy chỉ còn là dĩ vãng, đó là một tình yêu đẹp, trọn vẹn thủy chung. Thật tội nghiệp cho Lan, thân đã đến đạo tràng mà tâm vẫn chìm trong tình trường, nên xem như Lan chưa đến được Phật đài. Sự bế tắc trong tâm hồn của Lan quả thật có mấy ai ngờ...
Lỡ một cung đàn, phải chăng tình đời là vòng dây oan trái?
Nếu vì tình yêu, Lan có tội gì đâu sao vướng vào sầu đau?...
Ớt không cay người ta không ăn, chanh không chua người ta không dùng, mía không ngọt người ta không thích, thịt không béo người ta không ham… Cái sở thích hưởng dụng của người đời là phải có đủ đắng, cay, chua, chát, ngọt, béo, mặn, nồng, bùi, dai, giòn, bở, ngắn, dài, vuông, tròn… thì mới vừa lòng. Họ đã thường có khuynh hướng như thế, hiếu động, không bình lặng, chẳng thanh đạm, ưa sanh diệt tưng bừng hơn là cảnh giới tâm như như bất động mà tùy duyên hiện khắp. Vậy mà họ còn làm như thơ ngây tự hỏi “Phải chăng tình đời là vòng dây oan trái?”. Làm sao mà không oan trái cho được, khi khuynh hướng của nó ngay từ đầu đã như thế! Có đôi uyên ương nào mà chưa từng cắn đắn nhau? Có mối tình nào lại không được tô đắp bởi đủ thứ giận, hờn, thương, ghét?...

Nói về tội của Lan thì đó là dạng tội của Adam và Eva, là những tội chưa xử của nhân loại. Nhiều người đã lên tiếng rằng yêu không phải là một cái tội, rằng mọi điều đều có thể được tha thứ vì tình yêu, rằng tình yêu là nhân bản… Nhưng Thánh Kinh của Thiên Chúa giáo đã thẳng thắn gọi đó là tội tổ tông, là tội dòng, là tội di truyền, và vì cần thường phải sám hối nên đây cũng là tội chưa xử. Nếu chưa xử thì hôm nay chúng ta sẽ xử nó, giải phẫu nó, để trên thế gian này bớt đi những câu chuyện của Điệp và Lan.
Điệp ơi, duyên lỡ làng rồi thôi đành chờ kiếp sau.
Đừng đem ân tình thương nhớ đến đây chi thêm sầu!
Cánh cửa trần tu khép lại rồi mà chuông còn reo mãi,
Lan giận đời nên nàng cắt đứt dây chuông từ lưu luyến…
Yêu như Lan đã yêu là tình yêu có phần thật thà, thiếu hiểu biết. Điệp đã tìm đến giải thích rõ lý do mà Lan còn tự chuốc lấy sầu muộn làm gì nữa. Điệp đã là một nạn nhân chứ có sung sướng gì. Tình yêu là mơ còn hôn nhân lại là thật. Giấc mơ thường đẹp vì nó thường chủ quan theo ý riêng. Thực tế thường không đẹp bởi thực tế thường khách quan không theo ý riêng. Nếu Lan không hiểu được những điều đó thì kiếp sau lại chỉ làm khổ nhau mà thôi! Tốt nhất là đừng hứa hẹn gì khi lòng còn quá nhiều vướng bận.
Ai đã từng yêu, cảm thông nỗi niềm đau thương với nàng
Mối tình đầu tiên nàng đành chôn vùi theo bướm hoa.
Sầu cho thân gái tình duyên ngang trái,
Tiếng chuông đêm dài như tiếng thở than,
Như đem tin buồn, như gieo hoang tàn đến cho đời nàng!...

Quả thật như thi hào Nguyễn Du đã nói:
Người sầu cảnh cũng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!

Phật pháp đã chỉ rõ tướng của các pháp đều là giải thoát, buồn hay vui chính là do tâm sanh sự, tiếng chuông chùa vốn chẳng hề làm phiền ai cả… Tiếng chuông chùa ban đêm đã được cảm ứng là dài như tiếng thở than chỉ với những cái tâm như cô Lan mà thôi. Các nhạc sĩ, nghệ sĩ, ca sĩ và các khán thính giả Việt Nam suốt 80 năm qua có như cô Lan không? Họ đã thường gieo trồng những hạt giống như thế vào tâm, chắc rằng dần dần họ cũng sẽ thành những người ủy mị như Lan không khác...
Đời Lan khác chi như một cành hoa xuân hương sắc sớm phai màu!
Một đêm gió mưa, bên ngọn đèn quạnh hiu Lan đã trút linh hồn.
Ngoài xa từng tiếng cú kêu sương ôi thê lương,
Gió than não nề trong màn đêm nghe đau thương,
Từng hồi chuông ngao ngán
Ngân dài như khóc than,
Tiễn một linh hồn!...

Thật đáng tiếc thay, thật đáng thương thay, một cô gái trẻ lỡ bị cùng đường quẩn lối! Nếu những lúc đó Lan có một người mẹ, hay một chị gái, hay một người thầy hiểu biết… thì có lẽ cuộc đời Lan sẽ tươi sáng hơn. Ảm đạm, thê lương thay tâm trạng của Lan trong những giờ phút cuối đời. Với tâm trạng đó dĩ nhiên Lan xuống địa ngục chứ có thể đi đâu. Phải chăng đây là sự lựa chọn khôn ngoan của một người có giáo dục?
Mộng tình đã vỡ, thương tiếc cánh hoa lan
Nụ cười đã tắt, có ai khóc cho nàng?
Nàng lìa trần gian,
Những câu chuyện Điệp và Lan
Thương mãi vô vàn!...

Mộng tình đã vỡ ư? Có lẽ là chưa, bởi nếu thật vỡ thì phải thấy nhẹ nhàng giải thoát chứ! Một mụt nhọt vỡ ra là đến lúc nó hết đau nhức, một mối nghi bùng vỡ là khi người ta bừng sáng, một giấc mộng tình đã vỡ là lúc người ta thức tỉnh… nói chung đều là tin mừng chứ sao còn thương tiếc? Mộng tình trong lòng Lan chưa vỡ mà mộng tình trong lòng mọi người cũng chẳng chịu vỡ nốt. Chẳng phải là mọi người đang dùng những tác phẩm Lan và Điệp này để tô đắp thêm thật nhiều mộng tình đó sao? Cho nên câu thơ đầu đoạn trên phải là: “Mộng tình lẩn quẩn, thương tiếc cánh hoa lan” thì mới thích hợp…
Người ơi chuyện xưa
Điệp yêu Lan tha thiết,
Khấn xin ơn trời cao
Khép đôi tim vào nhau
Đến khi bạc đầu!...

Một giấc mộng muôn kiếp! Ai cũng mong muốn chiếm hữu khi yêu. Tình yêu của Lan giành cho Điệp là tình yêu thường tình, chưa có đủ sự hiểu biết, tha thứ và nhẫn nại. Lan đã cho Điệp nhiều và dĩ nhiên là Điệp phải báo đáp. Tình yêu của Lan không phải là tình yêu vô điều kiện, nên nó cũng chứa sẵn những niềm thất vọng, giận dỗi, khổ đau… Thật là:
Âu cũng bởi lòng trần vọng niệm
Để xa rời một điểm chơn như,
Đường trần từ đó ngẩn ngơ
Càng rong ruổi bước càng mờ mịt xa!...

Trong khuynh hướng túy sanh mộng tử của người đời, Chuyện Tình Lan và Điệp đã được nhiều người tô vẽ và biết đến. Dưới tác động của sự mơ mộng chất chồng nhiều tầng lớp, Chuyện Tình Lan và Điệp đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, được dùng làm món ăn tinh thần cho bao người đang hụp lặn trong tình trường. Biết bao người trên thế gian này đang mơ mộng và không ngừng mơ mộng, có lẽ vì giấc mơ thú vị hơn hiện thực họ đang sống.

Lan và Điệp đầu tiên là con đẻ của văn sĩ Nguyễn Công Hoan. Dần dần, Lan và Điệp là con tinh thần chung của biết bao người Việt Nam. Tại sao mọi người không sanh ra những đứa con hoàn hảo hơn chứ? Tại sao người ta cứ thích có những đứa con trai, con gái èo uột, mau nước mắt, cả đời sống trong bất hạnh đáng thương? Khi con cái sống bất hạnh thì kẻ làm cha mẹ có hạnh phúc không? Cưu mang hoài những đứa con ảo đó làm chi, chỉ thêm thúi ruột thúi gan...

Trong khuynh hướng tỉnh thức chánh niệm của hàng Phật tử, những câu chuyện Điệp và Lan đã được nhìn nhận thực tế. Với trí tuệ, các Phật tử đồng thời có được lòng từ bi thích đáng để hiểu và thương cho Điệp và Lan. Điệp và Lan đã sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh xã hội của họ. Cả hai người đều quá trẻ để có thể sống tự chủ trước những khuynh hướng, những định kiến và những gió bão của cuộc đời. Những giọt nước mắt thầm khóc mỗi ngày của Lan, những dòng lệ nghẹn ngào trong tim của Điệp là điều đáng được thông cảm.

Tuy thông cảm nhưng ta không chấp nhận, không ngâm nga hoài những câu chuyện bất hạnh và tiêu cực, không để mỗi ngày mỗi dệt ra những câu chuyện buồn thảm trong tâm tư. Ta nên sửa lại những tình tiết và đoạn kết của Chuyện Tình Lan và Điệp, để cuộc sống này có ý nghĩa hơn, để con người được hạnh phúc chân thật hơn. Xin hãy ghi nhớ lời dạy quý báu của cổ đức:
“Ai đứng dưới chữ ÁI người đó là chúng sanh. Ai đứng trên chữ Ái, người đó là Phật vậy!”.



Hành Vân