Ads 468x60px

.

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

3. Dây chuông oan nghiệt (Chuyện tình Lan và Điệp) (1966) - Ngọc Sơn - Yên Sơn (Ngọc Giàu & Út Hiền)


Dây chuông oan nghiệt
(tức Chuyện tình Lan và Điệp)

Tân Nhạc: Ngọc Sơn,
Vọng Cổ: Yên Sơn




Chuyện tình Lan và Điệp đã lấy không ít nước mắt của người mộ điệu. Nhiều bài hát, vở tuồng, chập cải lương ra đời từ tác phẩm này.
Dây chuông oan nghiệt này là đoạn cuối của vở tuồng với sự trình diễn của những giọng ca thượng thặng, trong đó có bé Chí Tâm với giọng ca thời tuổi trẻ khó lòng nhận ra.
Một điểm thích nữa là cách giới thiệu mào đầu rất thu hút.
Soạn giả:
Ngọc Sơn - Yên Sơn
(Tân Nhạc: Ngọc Sơn,
Vọng Cổ: Yên Sơn)

Diễn viên:
Ngọc Giàu - Lan,
Út Hiền - Điệp,
Út Trà Ôn - Sư Thầy,
Chí Tâm - Chú Tiểu,

Hoàng Oanh ngâm thơ,
Tuyết Mai dẫn giải câu chuyện.




Dĩa Hát Continental Cổ Nhạc 72 - Dây Chuông Oan Nghiệt (Chuyện Tình Lan Và Điệp) (1966)




Dây Chuông Oan Nghiệt - Ngọc Giàu & Út Hiền - 1966
(tức Chuyện tình Lan và Điệp)
Hãng đĩa Continental, Sơn Ca, Premier - Cải lương Số, 21-04-2023.

NSND Ngọc Giàu

NS Út Hiền

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

1. Tuồng ‘Lan và Điệp’ (1936) và dĩa hát ‘Hoa Rơi Cửa Phật’ (1948) - Trần Hữu Trang


Loạt bài của Ngành Mai:
1. Tác phẩm “Tắt Lửa Lòng” và soạn phẩm “Lan và Điệp”
2. Tuồng ‘Lan và Điệp’ và dĩa hát ‘Hoa Rơi Cửa Phật’
3. Tuồng ‘Lan và Điệp’ hát cùng khắp, nhưng tiền bản quyền chẳng được bao nhiêu
7. Tuồng ‘Lan và Điệp’ phóng tác theo tiểu thuyết ‘Tắt Lửa Lòng’
8. Dĩa hát ‘Hoa Rơi Cửa Phật’



Tác phẩm “Tắt Lửa Lòng”
và soạn phẩm “Lan và Điệp

Ngành Mai,
thông tín viên RFA




Soạn giả Trần Hữu Trang.
Thập niên 1940, soạn giả Tư Trang, tức Trần Hữu Trang đã dựa theo cuốn “Tắt Lửa Lòng” của Nguyễn Công Hoan để soạn thành vở ca kịch “Lan và Điệp”, đưa lên sân khấu, do cô đào Năm Phỉ đóng vai Lan, kép Tư Út đóng vai Điệp. Đôi nghệ sĩ tiền phong thượng thặng này đã mở đầu cho 2 nhân vật chính “Lan – Điệp” trở thành bất tử với thời gian.

Vậy sau khi được đưa lên sân khấu rồi, Lan và Điệp còn bước sang bao nhiêu lãnh vực nghệ thuật khác nữa? Tôi xin trình bày sau đây, mời quí vị theo dõi...

Ăn khách
Nhận thấy tuồng “Lan và Điệp” quá ăn khách với nhiều đêm hát đông nghẹt khán giả, do đó đã làm động lực cho hãng dĩa hát Asia tìm đến soạn giả Tư Trang để thương lượng thu thanh dĩa hát. Đồng thời hãng cũng yêu cầu soạn giả viết ngắn lại, làm sao cho tuồng thu ít dĩa càng tốt. Bởi trước đó các bộ dĩa “San Hậu” và “Quan Âm Thị Kính”, bộ nào cũng trên 10 dĩa nên tiêu thụ chậm, khó bán.

Để đáp ứng yêu cầu của hãng dĩa, Tư Trang đã rút gọn tình tiết vở tuồng, bỏ bớt phần đầu nên Lan và Điệp chỉ thu thanh gọn trong 4 dĩa và đặt tên tựa là “Hoa Rơi Cửa Phật”.
Với bộ dĩa nầy soạn giả chỉ lấy đoạn sau, từ cảnh Lan vào chùa tu – Điệp tìm đến chùa giựt chuông – Lan ra mở cổng thấy Điệp, nàng không mở cổng.
Điệp kêu:
Lan mở cổng cho anh vào.

Không được! Anh về đi, đã hết rồi!
Nói dứt câu, Lan đi ngược trở vô chùa – Điệp tiếp tục giựt chuông liên hồi và Lan cắt đứt dây chuông.
Điệp thẩn thờ đành quay gót trở về.
Cảnh này Tư Trang đã xử dụng bản ca “Chuồn Chuồn” cho Năm Nghĩa ca với lối vô đầu giống như vọng cổ (Năm Nghĩa là dưỡng phụ của nữ nghệ sĩ Thanh Nga).

Lan cắt dứt dây chuông, nàng ngất xỉu và phát bệnh luôn. Bệnh mỗi ngày một nặng thêm, thuốc thang đều vô phương cứu chữa. Cho đến một ngày kia Lan biết mình không còn sống được bao lâu nữa, nên nàng mới xin vị hòa thượng trụ trì chứng minh cho nàng trao gởi nỗi niềm tâm sự, có nghĩa là nói hết sự thật do đâu mà nàng đi tu. Đồng thời cũng nói cho vị hòa thượng biết rằng mình là gái tên thật là Nguyễn Thị Lan, đã giả trai và mượn tên Điệp để được nhận vào chùa.

Về phần vị hòa thượng thì nghĩ rằng, ông đã đi tu hơn 30 năm rồi, không còn muốn vương vấn, dính dáng gì đến chuyện thế gian, nên buộc lòng ông từ chối.

Nhưng đến lúc thấy bịnh tình của Lan trầm trọng, và lúc mê sảng thường kêu gọi ba tiếng Vũ Khắc Điệp luôn. Nhớ lại sự việc trước đây Điệp đến chùa và Lan cắt dứt dây chuông, thì vị hòa thượng đã tìm ra giải pháp: Cho người đi mời Điệp đến thay thế ông đóng vai sư cụ, bằng cách cho Điệp mượn chiếc áo cà sa, giả làm hòa thượng vào hậu liêu chứng minh cho chú tiểu Huệ Minh trao gởi nỗi niềm tâm sự (Huệ Minh là pháp danh của Lan).

Khi chú tiểu Huệ Thông đưa hòa thượng, do Điệp giả dạng với chiếc áo cà sa mượn mặc vào. Huệ Thông nói:
Sư cụ đã nhận lời cầu xin của huynh Huệ Minh rồi. Vậy muốn trao gởi gì thì cứ nói.

Thế là Lan nói sự thật như trên đã nói, và cảnh nầy soạn giả Tư Trang đã xử dụng bản Nam Ai, nổi tiếng là bản ca diễn tả lúc buồn. Qua bản Nam Ai với lời ca, Lan kể sự thật xong thì hấp hối. Điệp vội vàng cởi chiếc áo cà sa ra rồi chạy tới ôm Lan:
Em Lan! Anh là Điệp đây!

Lan mệt nhọc nói tiếng còn tiếng mất:

Anh... Điệp. Kiếp nầy không hiệp... hẹn cùng anh theo kịp... em chờ!

Em Lan! Lan!
Lan thở hơi cuối cùng trên tay Điệp.

Đây là cảnh chót, cảnh xúc động nhứt, hàng vạn các bà, các cô đã rơi lệ ở cảnh nầy.

Kịch bản Lan và Điệp, soạn giả Tư Trang trao cho nghệ sĩ Năm Châu lúc gánh Việt Kịch Năm Châu còn hoạt động.
Đầu thập niên 1960 Tư Trang vào mật khu, người ta không biết kịch bản này nằm ở đâu, và cũng không thấy Năm Châu dàn dựng trở lại vở hát này, bởi lúc ấy Ban Năm Châu chỉ lo việc chuyển âm phim.



Thêm thắt
Lúc bấy giờ hầu hết các gánh hát bầu tèo, tức các gánh hát nhỏ ở miền quê, do không có kịch bản chính nên đã lấy bài ca và lời đối thoại trong dĩa Hoa Rơi Cửa Phật làm nền chính, và thêm thắt vào để hát tuồng Lan và Điệp. Tuy vậy tuồng vẫn hay, khán giả vẫn đi coi.
Có điều là đoạn đầu thì mấy gánh hát bầu tèo tùy tiện, viết sao cũng được, miễn là có cảnh Lan tiễn Điệp đi học – Điệp thi đỗ đạt bị gọi đến nhà quan Huyện, bị phục rượu say mèm và đem bỏ vô phòng Thúy Liễu – Cảnh Thúy Liễu hành tội mẹ chồng.

Các cảnh nầy, mấy gánh hát bầu tèo muốn xử dụng bản ca nào, câu đối thoại nào thì tự viết vào rồi cho nghệ sĩ tập tuồng. Xong cho hát, bởi có ai khiếu nại gì đâu.

Lại có cả bầu gánh ngang nhiên sửa đổi tình tiết câu chuyện mới thiệt là đáng trách hơn hết!

Vào khoảng 1962 có gánh hát bầu tèo (không nhớ gánh tên gì) hát ở Suối Cụt, Trảng Bàng, Tây Ninh. Thay vì đoạn cuối Lan chết, thì gánh này lại cho cô Lan sống, và được vị hòa thương cho rời chùa trở lại thế gian, về sống với Điệp và vãn hát.

Do thấy tuồng đã không đúng với sự hiểu biết của mình, nên sau khi vãn hát, một số khán giả đi ra hậu trường chất vấn ông bầu:
- Ai cũng biết tuồng Lan và Điệp kết cuộc cô Lan chết, sao bữa nay cô Lan không chết mà lại về sống với Điệp, nghĩa là sao chớ?
Ông bầu đang ăn cháo lòng, nhậu rượu ba xi đế, đã trả lời:

- Bộ mấy ông bà muốn cô Lan chết phải hôn?

- Nhưng mà tuồng nó như vậy, tôi coi tuồng Lan và Điệp cả chục lần rồi, chỉ có lần nầy cô Lan sống mà thôi.

- Được rồi! Ngày mai đi coi, tôi cho cô Lan chết...

Tóm lại có những vấn đề trên là do soạn giả đã không có mặt, bầu gánh muốn hát sao thì hát. Cải lương mà!

Dĩa “Hoa Rơi Cửa Phật” phát hành được bán khắp cùng từ Nam chí Bắc, bán cả bên Miên, trên Lèo và cả bên Pháp.

Vài tháng sau khi dĩa hát được phát hành phổ biến khắp nơi rồi, thì cuốn bài ca “Hoa Rơi Cửa Phật” cũng được ra đời đem bán các chợ lớn, nhỏ từ thành thị đến thôn quê. Chính nhờ những cuốn bài ca này mà ca sĩ tài tử đâu đâu cũng thấy, tạo thành một sinh hoạt đờn ca tài tử độc đáo ở miền Nam Việt Nam.

Chương trình hôm nay đến đây xin tạm ngưng, hẹn với quý vị kỳ tới. Tôi là Ngành Mai xin kính chào tất cả quý thính giả Đài Á Châu Tự Do.



Ngành Mai










Tuồng ‘Lan và Điệp’ và dĩa hát ‘Hoa Rơi Cửa Phật’

Ngành Mai




Kỳ 1:

Tuồng ‘Lan và Điệp’ và
dĩa hát ‘Hoa Rơi Cửa Phật’

Ngành Mai

Đầu thập niên 1940, kể từ ngày vở hát “Lan và Điệp” của soạn giả Trần Hữu Trang, tức Tư Trang được trình diễn trên sân khấu Năm Phỉ thì phần lớn khán giả cải lương sành điệu, đã biết qua tình tiết lớp lang câu chuyện diễn tiến từ đầu tới cuối.

Buổi trình diễn khi vở hát mới ra đời ấy, do cô đào Năm Phỉ đóng vai Lan, kép Tư Út đóng vai Điệp, đôi nghệ sĩ tiền phong thượng thặng này đã mở đầu cho hai nhân vật chính Lan-Điệp trở thành bất tử với thời gian (nữ nghệ sĩ tài danh Năm Phỉ từng được huy chương của chính phủ Pháp, của Vua Miên, Quốc Vương Lào, và Hoàng Đế Bảo Đại).

Trong lịch sử nghệ thuật sân khấu chưa có vở hát nào được giới mộ điệu ưa thích, đến đỗi càng về sau câu chuyện càng mở rộng xâm lấn sang các lãnh vực văn nghệ khác.

Trước tiên, “Lan và Điệp” được hãng dĩa hát Asia thâu thanh với tên tựa “Hoa Rơi Cửa Phật” phát hành cùng khắp từ Nam chí Bắc.
Dĩa hát cũng được bán qua Miên, và theo theo như nhà phát hành lúc ấy cho biết, thì kiều bào xứ Chùa Tháp tiêu thụ dĩa hát này nhiều gấp 3, 4 lần đại lý dĩa hát ở Cần Thơ. Do ở đất Miên dễ làm ăn, người ta dám mua sắm, vả lại số người sang đây lập nghiệp đại đa số là người Nam Kỳ Lục Tỉnh, mà cổ nhạc cải lương đã gắn liền với đời sống tinh thần của họ.

Dĩa “Hoa Rơi Cửa Phật” cũng được đưa sang Lào và cả ở bên trời Tây, do vậy mà kiều ở Pháp vẫn còn những người lưu giữ các dĩa hát xưa ấy. Song song đó cuốn bài ca “Hoa Rơi Cửa Phật” cũng được ra đời bán ở các chợ miền quê, chợ nhỏ, lớn nào cũng có người bán.

Rồi cũng từ đó các gánh hát bầu tèo (gánh hát nhỏ) ở thôn quê đã sao chép lời ca, lời đối thoại, rồi thêm thắt vào dựng lên tuồng cải lương “Lan và Điệp” phục vụ bà con ở thôn quê và cũng được hoan nghinh.

Sau đó khi Tư Út rời gánh Năm Phỉ thì kép Thanh Tao nhảy vào đóng vai Điệp, cho đến khi cô Năm Phỉ qua đời thì kỳ nữ Kim Cương mới thay dì mình mà đóng vai Lan cùng với kép Sơn Minh thủ vai Điệp.

Vợ chồng nghệ sĩ Văn Chung, Thanh Hương cũng đã có lần hát. Thành Được và Thanh Nga hát hai vai chánh này được mấy lần trong các buổi tổng hợp tài danh.

Riêng bộ dĩa “Hoa Rơi Cửa Phật” phát hành năm 1947, và cuốn bài ca cũng đến tay người mộ điệu cùng thời điểm này.

Dưới đây là đoạn đầu bộ dĩa hát “Hoa Rơi Cửa Phật,” lúc Lan giả trai lấy tên Điệp vào chùa tu, được hòa thượng trụ trì đặt tên là Huệ Minh. (Xem tiếp bên dưới)

Ngành Mai





Kỳ 6:

Tuồng ‘Lan và Điệp’ phóng tác theo tiểu thuyết
‘Tắt Lửa Lòng’

Ngành Mai


Soạn giả Trần Hữu Trang cùng hai người con: Soạn giả Việt Thường và bà Thanh Đạm. (Hình: Ngành Mai sưu tập)


Cuốn tiểu thuyết “Tắt lửa lòng” của nhà văn Nguyễn Công Hoan xuất bản ở Hà Nội thời tiền chiến, và theo như bố cục câu chuyện thì cô Lan là người miền Bắc, cô buồn vì tình duyên trắc trở nên đi tu ở một ngôi ngôi chùa gần đường xe lửa đi Việt Trì, Phú Thọ, Yên Bái; và cậu Điệp, một nam sinh từ tỉnh ra Hà Nội học. Câu chuyện diễn tiến với những tình tiết gay cấn, cảm động.

Ngày nọ, khoảng đầu thập niên 1940, tác phẩm vô tình đến tay soạn giả Trần Hữu Trang (Tư Trang). Nhận thấy tác phẩm mang nhiều kịch tính, nếu được phóng tác thành vở ca kịch thì sẽ thu hút mạnh mẽ người đi coi hát cải lương. Và Tư Trang quyết định viết thơ ra Bắc xin phép nhà văn Nguyễn Công Hoan cho ông được phóng tác theo tiểu thuyết “Tắt lửa lòng”.

Họ Nguyễn bằng lòng với điều kiện là khi nào vở hát ấy được mang ra Bắc trình diễn thì ông phải được xem trước khi ra mắt quần chúng đông đảo. Dĩ nhiên là họ Trần tuân ý. Cho nên khi đoàn Năm Phỉ ra Bắc, Trần Hữu Trang căn dặn kỹ cô Năm Phỉ rằng, đến Hà Nội hát vở gì trước thì hát, còn vở “Lan và Điệp” thì phải đợi sự có mặt của ông cái đã.

Vì một lời hứa với tác giả “Tắt lửa lòng”, ông phải giữ đúng! Và khi đoàn Năm Phỉ dọn ra hát ở Hà Nội thì Trần Hữu Trang khăn gói đi xe lửa ra Bắc, ăn vận áo dài khăn đóng chỉnh chạc đi mời cho được Nguyễn Công Hoan tới nhà hát lớn coi diễn phúc khảo một buổi. Dĩ nhiên là họ Nguyễn có mời nhiều văn nhân, ký giả Hà Nội tới xem với ông. Xem xong, tất cả đều lấy làm hài lòng và hết tình ca ngợi cô Lan Năm Phỉ và cậu Điệp Tư Út.

Tối hôm đó Tư Trang đã phải vay nợ cô Năm Phỉ 10 đồng bạc tiền Đông Dương để đưa Nguyễn Công Hoan cùng với anh em văn nhân ký giả Hà Nội đi chè chén và hát cô đầu. Vui vẻ cả làng với nhau và chẳng có việc đòi hỏi chia chác tiền bản quyền gì ráo.

Có lẽ cũng do người sáng tác câu chuyện “Tắt lửa lòng” đã không nói đến vấn đề bản quyền, thành ra sau này các gánh hát trong Nam diễn tuồng Lan và Điệp, soạn giả Trần Hữu Trang cũng không đòi hỏi gì tiền bản quyền, ai muốn trả bao nhiêu thì trả, mà không trả cũng chẳng sao.

Dưới đây là đoạn kế tiếp dĩa hát “Hoa Rơi Cửa Phật” (kỳ 6, cuối). (Xem tiếp bên dưới)

(Ngành Mai)





D ĩa hát “Hoa Rơi Cửa Phật”
[...]
Năm 1936, soạn giả Trần Hữu Trang đã viết chuyển thể từ nguyên tác (tiểu thuyết Tắt lửa lòng của nhà văn Nguyễn Công Hoan) thành kịch bản cho vở cải lương "Lan và Điệp".
[...]
Năm 1948, Trung tâm ASIA đã cho thu âm vở cải lương này (Lan và Điệp) vào 4 đĩa nhựa với tựa đề "Hoa rơi cửa Phật", với sự tham gia của các danh ca Tư Sạng (Lan), Năm Nghĩa (Điệp), Tám Thưa (Hòa thượng), Hồng Châu (Tiểu Huệ Thông). [...]
[...]
Cô Sáu Liên cho biết đĩa Hoa rơi cửa Phật, với các giọng ca Tư Sạng, Tám Thưa, Năm Nghĩa, Hồng Châu, Út Trà Ôn... bán chạy nhất vì khán giả sành điệu thích nghe cải lương nhịp 8 và 12. Lời ca khoan thai, chậm rãi, mỗi ca từ được nâng niu như rót vào lòng người nghe sự chân thành, da diết của tâm hồn nghệ sĩ. Các sản phẩm nghệ thuật này không mang tư tưởng cao siêu hoặc rao giảng đạo đức xa vời mà đi vào những tích truyện ca ngợi thủy chung, lòng nhân ái, không hề lạc hậu theo thời gian.
[...]
Thanh Hương xin giới thiệu một vở cải lương cổ, nằm trong danh sách ba tuồng cải lương để đời của soạn giả Trần Hữu Trang, đó là: Đời Cô Lựu, Hoa rơi Cửa Phật và Tô Ánh Nguyệt.
Thành phần phân vai của các bật tiền bối:
Cô Tư Sạng vai Nguyễn Thị Lan
Tám Thưa vai Khắc Điệp
Năm Nghĩa vai Bạch Thầy
Hồng Châu vai Chú Tiểu
Vở tuồng mang nhiều nổi xúc động, đem đến những nổi cảm xúc. Quả thật vở này rất hay, được hãng ASIA thu âm năm 1936, trước cả hai vở kia. Vở này Sáu Tửng đờn kiềm - mùi. Sau này, ekip Thanh Kim Huệ - Chí Tâm có dàn dựng lại một cách hoàn chĩnh hơn, đặc sắc và rõ ràng hơn. Nhưng vở này vẫn là cái ra đời đầu tiên để lại ấn tượng khó quên hơn. Nhưng vở này không để lại nhiều nét đẹp của cô Tư Sạng bằng Cô Năm Phỉ. Khi nhắc đến:
Lan là ta nhớ đến cô Năm Phỉ
Lựu là ta nhớ đến cô Phùng Há
Nguyệt thì ta mới nhắc đến cô Tư Sạng

Vở này Hương sẽ đăng phần đầu sau, do cô Tư Bé vào vai Thúy Liểu rất ấn tượng. Những thể điệu Nam Ai, Tứ Đại Oán, Chuồn Chuồn, Văn Thiên Tường nghe rất não lòng. Các điệu vui như Khóc Hoàng Thiên, Kim Tiền Bản, Xàng Xê nghe làm lòng bớt sầu hơn. Chúc các bạn nghe vui vẻ nhé.
Soạn giả: Trần Hữu Trang, tức Tư Trang.
Các nghệ sĩ:
1 - Cô Tư Sạng: Lan (Huệ Minh), Năm Nghĩa, Tám Thưa, Hồng Châu.
2 - Tư Tao, Tư Bé...

Lan và Điệp - Cải lương (Hoa Rơi Cửa Phật - Tư Sạng, Năm Nghĩa)


Tư Sạng vai Lan, Năm Nghĩa vai Điệp, Tám Thưa vai Hòa Thượng, Hồng Châu vai Tiểu Huệ Thông.

... Đoạn đầu bộ dĩa hát “Hoa Rơi Cửa Phật,” lúc Lan giả trai lấy tên Điệp vào chùa tu, được hòa thượng trụ trì đặt tên là Huệ Minh.

Huệ Minh nói:
Than ôi, cánh hoa rụng tả tơi vì gió dập,
xác bướm khô ôm ấp bởi tình yêu.
Như tôi đây nhìn hoa lan mà ruột quặn thắt trăm chiều,
trông hồ điệp lệ sầu tuông mấy lượt.
Kìa những kẻ không cầu sao lại được,
tủi phận mình mong mỏi vậy mà sai,
kể từ đây chốn am mây chôn lấp mạch cảm hoài,
nghe kinh kệ phôi pha cơn khổ não.

      (Ca Nam Ai:)
Hoa lan xác bướm mảnh tơ lòng,
Đành vùi chôn,
Kiếp bướm hoa lỡ làng rồi, Nhưng còn một vật đổi trao nhau,
Càng thấy càng thêm nỗi khổ đau,
Phải chăng con dao này,
Nó đã dứt tình cùng ta,
Bấy lâu đeo giữ mãi bên mình,
Nay đành chôn giữa mả bướm hoa,
Ngăn đôi gian hà,
Cho nhẹ nhàng lòng ta.
Có lẽ khi trời xui phải chịu vậy,
Trần ai còn chi đâu mơ màng,
Trót đã ăn mặc nâu sòng,
Vui kinh kệ là xong.

Huệ Thông nói:
Đó thấy không, huynh Huệ Minh phạm giới sát sanh, để tôi vào bạch tôn sư, cho huynh coi nghé.

Huệ Minh nói:
Không, không phải đâu huynh Huệ Thông, vừa rồi tôi thấy con bướm nó chết khô cho nên tôi tội nghiệp bỏ vào hộp đem chôn vậy mà huynh.

Huệ Thông nói:
Huynh nói dối, hôm trước tôi thấy con bướm ấy nó đậu trên chậu hoa lan đẹp lắm, huynh rình bắt rồi ép khô ở trong cuốn kinh, bây giờ huynh đem chôn, tại huynh bắt nó mới chết, tôi phải vào bạch lại với thầy.

Huệ Minh nói:
Huynh, huynh Huệ Thông.

Huệ Thông nói:
Thế nào tôi cũng vô tôi bạch.

Huệ Thường nói:
Ôi, tu là cội phúc, tình là dây oan, nhưng tình chưa trọn thì tu làm sao cho thành. Đã đem thân nương chốn thiền môn, trót ba mươi năm có lẻ, một khoảng thời gian đăng đẳng, tấm lòng ta tưởng đâu đã nguội lạnh như mớ tro tàn, sự đời gác bỏ ngoài tai, trần ai không hệ lụy.
Bất ngờ vừa rồi nghe mấy lời của tiểu Huệ Minh than thở, mà xúc động mối từ tâm, trông cử chỉ hành vi khiến cho ta phải bàng hoàng ngơ ngẩn.
Đây, đây là nơi chôn chặt nỗi niềm tâm sự, nhưng vết thương lòng e khó nổi phôi pha. Như ta ba mươi năm mà hận cũ vẫn chưa nguôi, thì tiểu Điệp ngày nay dẫu không tròn luật pháp nhà tu, ta cũng rộng lượng thứ tha mà tìm phương an ủi.


Kỳ 2:

Huệ Thông nói:
Bạch hóa tôn sư, huynh Huệ Minh phạm giới sát sanh.

Huệ Thượng nói:
Sao đệ tử biết được?

Huệ Thông nói:
Mô Phật, vừa rồi huynh Huệ Minh bắt được con bướm ép khô rồi bỏ vào hộp đem chôn, lại còn khóc lóc khấn vái than thở làm nhiều chuyện lạ lùng lắm, con theo ghẹo phá hoài là huynh Huệ Minh cũng không chịu bỏ, nên con phải vào bạch với thầy.

Huệ Thượng nói:
Thế là đệ tử có tội.

Huệ Thông nói:
Bạch tôn sư Huệ Minh sát sanh chớ nào phải con phạm giới.

Huệ Thượng nói:
Đệ tử nên biết, khấn vái khóc than đó là giờ phút thiêng liêng người ta tưởng niệm những điều đau khổ, trước cảnh thương tâm ấy, đáng lẽ đệ tử phải lặng lẽ cúi đầu sao lại dám theo ghẹo phá, Huệ Minh phạm giới sát sanh, để rồi thầy sẽ nghiêm trị. Còn đệ tử từ nay nếu còn khuấy rối Huệ Minh, thầy sẽ phạt quỳ hương một tháng.

Huệ Thông nói:
Mô Phật.

Huệ Thượng nói:
Đệ tử vào gọi Huệ Minh ra đây cho thầy dạy việc.

Huệ Thông nói:
Mô Phật.


Huệ Minh nói:
Bạch hóa tôn sư cho gọi con, có điều chi dạy bảo.

Huệ Thượng nói:
Vừa rồi tiểu Huệ Thông thấy con bắt một con bướm bỏ vào hộp và đem chôn. Tại sao lại có những hành vi lạ lùng như thế?
Đã đem thân nương dựa cửa thiền mà lòng trần chưa đoạn tuyệt, thất tình còn vướng, nghiệp chướng còn mang, thầy xem đệ tử sắc diện võ vàng tiều tụy lắm, vậy thầy xin khuyên đệ tử.

      (Ca Xàng Xê:)
Công phu hai buổi sớm chiều, phải tự mình tìm phương giải thoát.
Từ nay chuyện thế gian tua dẹp lại,
Chốn Phật đài tưởng niệm sắc không,
Cái tâm nếu chẳng tạo ra nguyên nhơn,
Thì kết quả phải khỏi trở về với không,
Cõi hư vô có ngày được thảnh thơi.

Huệ Minh ca:
Con cúi xin vàng lời ân sư chỉ dạy,
Bao nhiêu nỗi niềm thắc mắc,
Bao nhiêu khổ sầu ôm ấp bấy lâu,
Kể từ đây con quyết tâm đoạn tuyệt,
Vùi chôn vết thương trong tâm hồn,
Mùi tục lụy chẳng còn vương mang,
Tiếng khóc than đổi thay câu tụng niệm,
Nhờ thời gian sẽ phôi pha sẽ nhạt phai dần.

Huệ Thượng nói:
Nếu được vậy thì tốt lắm, thôi đệ tử hãy theo thầy vào trước Phật đài, thầy sẽ cầu nguyện giúp cho.

      Khai kinh:
Nam mô Như Lai ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh phúc, thiên thê thế gian giải vô thượng sĩ điều ngự thượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.

Huệ Thượng:
Nam mô, phổ quan Phật.

Huệ Minh:
Nam mô, phổ quan Phật.

Huệ Thượng:
Nam mô, phổ minh Phật.

Huệ Minh:
Nam mô, phổ minh Phật.

Huệ Thượng:
Nam mô, phổ tịnh Phật.

Huệ Minh:
Nam mô, phổ tịnh Phật.


Kỳ 3:

Điệp nói:
Dạ xin chào ông đạo.

Huệ Thông nói:
Mô Phật, nơi đây là chùa Phật, thầy tới đây có chuyện chi?

Điệp nói:
Ông đạo làm ơn cho tôi hỏi thăm.

Huệ Thông nói:
Thầy muốn hỏi thăm điều chi?

Điệp nói:
Chẳng biết trong chùa nầy có ni cô nào tên Lan không?

Huệ Thông nói:
Chùa này không có ni cô.

Điệp nói:
Vậy từ Tháng Hai năm ngoái tới nay, có người nào đến quy y không?

Huệ Thông nói:
Có nhưng không phải tên Lan.

Điệp nói:
Người ấy ra làm sao?

Huệ Thông nói:
Người ấy tướng tá không cao không thấp, hình vóc không ốm không mập, gương mặt không tròn không dài, tiếng nói thiệt trong như chuông ngân, mà cặp mắt lúc nào cũng như đầy nước mắt.

Điệp nói:
Vậy ông làm ơn vào nói với người ấy, có tôi, tên là Điệp tới thăm.

Huệ Thông nói:
Không được đâu thầy, chú ấy không tiếp ai hết, trước kia có một vài lần người ta đến hỏi thăm, nhưng chú không chịu ra bảo nói dối rằng không có chú ở đây.

Điệp nói:
Nhưng ông cứ vào nói có một người tên Điệp thì chú ấy ra lập tức mà.

Huệ Thông nói:
Sao lạ vậy, chú ấy tên là Điệp mà thầy cũng là Điệp nữa.

Điệp nói:
Phải rồi, chú ấy giận cha mẹ họ hàng, nên mới mượn tên tôi mà đi tu, bây giờ chú ấy chỉ biết có một mình tôi thôi.

Huệ Thông nói:
Vừa rồi chú ấy và tôi mới bị hòa thượng quở phạt, chú đang buồn chẳng tiếp ai đâu.

Điệp nói:
Chú ấy làm gì mà bị quở phạt.

Huệ Thông nói:
Kìa thầy không không trông thấy à.

      (Ca Khóc Hoàng Thiên:)
Chính giữa một cái mả cao hai mả thấp,
Chú ấy đem chôn lấp, xác bướm với cành lan,
Bướm khô lan đã tàn,
Con dao tây chận ngăn đôi đàng,
Thật rõ ràng nào sai,
Khóc than lâm râm khấn lạy,
Vì thấy chú ấy sát sanh,
Sợ lây tội tình,
Luật ở chùa giới nghiêm,
Thế nên tôi lên bạch thầy,
Mới bị rầy cả hai.


Kỳ 4:

Điệp nói:
Ông đạo ôi!

Huệ Thông nói:
Mô Phật.

Điệp nói:
Tôi từ xa tìm tới đây là mong mỏi cùng người quen được gặp xin ông niệm chút từ tâm.

Huệ Thông nói:
Không phải tôi muốn làm khó thầy, song vừa rồi tôn sư mới ra lịnh nghiêm nhặt, nếu tôi còn nói chuyện gì lôi thôi với chú ấy, lỡ tôn sư gặp tôi phải quỳ hương tới một tháng lận thầy.

Điệp nói:
Vậy bây giờ ông không còn cách nào giúp tôi được sao? Thế là tôi phải về.

Huệ Thông nói:
Thiệt thấy tình cảnh của thầy, tôi muốn giúp giùm nhưng biết làm thế nào? À, hay là chỉ có cách này.

Điệp nói:
Cách nào ông?

Huệ Thông nói:
Thầy bước tới lại đây tôi chỉ cho thầy xem, đây sợi dây này là để cho khách thập phương, mỗi khi tới chùa, giựt chuông cho chúng tăng ra mở cổng, bây giờ tới chiều, phiên chú ấy gác chuông để tôi đi tránh vào trong rồi thầy cứ giựt chuông cho chú ấy ra mở cổng, chừng gặp nhau thì thầy muốn nói gì thì nói.

Điệp nói:
Tôi hết sức cám ơn ông.

Huệ Thông nói:
Mô Phật, thôi tôi vào. Kìa chú ấy đương ngồi tưởng niệm và lần chuỗi bồ đề dưới gốc cổ thụ, kia đó, đây, phía bên này đây.

Điệp nói:
Ôi! Chưa đầy hai năm, mà một vẻ đẹp thùy mị kín đáo trước kia, bây giờ đã hóa ra hình dạng một nạn nhơn khốn khổ.

      (Ca Chuồn Chuồn:)
Em Lan ôi! Tội tình chi mà em phải đọa đày,
Cho khổ sở kiếp hồng nhan,
Hỡi này em Lan,
Nay anh đã dứt rồi nghiệp oan,
Anh tìm đến đây cùng em tạ tội, đặng rước em trở về.
Mối duyên xưa cùng nhau ta nối lại,
Để đền bù những lúc khổ đau,
Ôi tiếng chuông rung chắc trái tim em phập phồng,
Em không ngờ anh đã tới đây,
Nỗi mừng vui nào hơn được lúc này.



Kỳ 5:

Huệ Minh nói:
Anh Điệp!

Điệp nói:
Em Lan, anh đã ly dị với Thúy Liễu, anh lên đây để rước em về.

Huệ Minh nói:
Không thể được, hết rồi.

Điệp nói:
Mở cổng cho anh vào.

Huệ Minh nói:
Không thể được, anh phải đi về đi, đã hết rồi.

Điệp nói:
Lan đành cắt đứt dây chuông.

Khai Chuông:
U minh vỉ mãng vô thượng tấn tốc,
Ngưỡng lao đại chúng an tọa tịnh chung.
Văn chung thinh nhứt tâm thế niệm A Di Đà Phật.

Huệ Thông nói:
Bạch thầy có Vũ Khắc Điệp đến.

Hòa Thượng nói:
Mời người vào.

Huệ Thông nói:
Mô Phật.

Điệp nói:
Mô Phật bạch hòa thượng.

Hòa Thượng nói:
Mô Phật, bần tăng xin chào ngài. Ngài có phải là Vũ Khắc Điệp mà cách đây mấy tháng, ngài có đến chùa này một lần.

Điệp nói:
Bạch hòa thượng phải.

Hòa Thượng nói:
Ngài vừa tới cổng giựt chuông để gọi chúng tăng ra mở cửa, thì có một chú tiểu vội cắt đứt dây chuông, rồi ngất xỉu, lúc ấy ngài đi luôn không vào chùa, và từ đó tới nay cũng không khi nào ngài trở lại.

Điệp nói:
Bạch hòa thượng, trong lúc cắt đứt dây chuông tôi vì cảm xúc quá nên cũng té gục trên cổng, chừng tỉnh lại nhìn vào chùa thấy bốn bề vắng ngắt nên ngậm ngùi lặng lẽ ra về.

Hòa Thượng nói:
Ngài có biết đâu, sau khi ngài đi rồi, chú tiểu ấy phát bịnh nặng, những lúc mê sảng thường kêu gọi ba tiếng Vũ Khắc Điệp luôn, đến nay thuốc thang đà vô phương cứu chữa, nên bần tăng mới cho người đi tầm ngài tới đây, bần tăng cũng vẫn biết sống chết là một lẽ đương nhiên, song có điều làm cho bần tăng không yên lòng, là chú ấy cứ nài nỉ khẩn cầu xin bần tăng chứng minh cho chú ấy trao gởi nỗi niềm tâm sự, điều ấy bần tăng khó thể nhận lời, ngài cũng đủ biết giùm cho bần tăng ngày nay.

      (Ca Vọng Cổ:)
1- Đã ngơ lấp chuyện hồng trần, lòng thanh thản hồn nhiên trước cửa từ bi, bao nỗi thị phi, tai chẳng buồn nghe, mắt cũng không buồn trông thấy nữa.

2- Không sắc đã thay cho danh lợi tự giác nhi giác tha, Lục tự di đà vô biệt niệm trót ba mươi năm mà công quả vẫn chưa tròn.

3- Ngày nay cũng bởi tiểu Huệ Minh, trần lụy đa mang, nghiệp oan chưa dứt, kiếp duyên còn nặng nợ, lòng bận bịu nơi sóng mê bể khổ, nên bịnh căn trầm trọng mỏi mòn.

4- Đã ba hôm rồi yêu cầu bần đạo chứng minh cho người, gởi chút niềm riêng nhưng bần đạo đã xả thân khổ hạnh, thì luật tu hành không thể nhận, chớ có phải đâu sắt đá là loại vô tri, cỏ cây là loài vô cảm mà chẳng thương tâm trước cảnh mất còn.



Kỳ 6, cuối:

Huệ ca:
5- Hòa thượng ôi, người đương hoằn hoại là một nạn nhơn, còn chính tôi đây là một tội nhơn, ấy cũng vì nghịch cảnh xui nên xin hòa thượng hãy rộng lượng xót thương cho kẻ đã bao lâu nay cùng chung đau khổ một tâm hồn.

6- Mới đem thân nương chốn thiền môn đặng tìm phương giải thoát, những tưởng nước cành dương rưới tan niềm oan khổ, nào ngờ đâu không hàn gắn vết thương lòng, hạnh phúc con người ta là quên, nhưng bởi không thể quên nên thành ra khổ thân.

Hòa thượng ca:
7- Hiện thời bịnh thế rất ngặt nghèo, thần sắc xem đã biến thiên, hình thể đã tiêu hao, e không qua khỏi đêm nay, trước cảnh nguy vong bần tăng cũng muốn chứng cho xong, để cho yên lòng người trong cơn hấp hối.

8- Bởi vậy bao nhiêu phép tắc ở chùa, bao nhiêu luật trai giới nghiêm minh, chấp kinh có khi cũng phải tùng quyền, giờ phút này mở rộng lòng bác ái, bao nhiêu trách nhiệm dầu ai có khép tội lỗi gì đều để hết cho bần tăng.

9- Vậy đây mảnh áo ca sa, ngài choàng vào đi, Huệ Thông (mô Phật) Huệ Trí (mô Phật), đệ tử hãy đốt đèn lên rồi đưa ngài giả dạng bần tăng để cho tiểu Huệ Minh trao gởi nỗi niềm tâm sự.

Huệ ca:
10- Ân sư ôi, ơn của ân sư dám sánh tợ biển trời, đức của ân sư đã gội nhuần vạn vật, đạo của ân sư đã độ khắp chúng sanh, ân sư ôi một lạy này đệ tử gọi là chút lòng thành để đền đáp dạ từ bi.

Hòa thượng ca:
11- Ngài ôi, ngài chớ quá nhọc tâm, mà bần tăng thêm tổn đức, ngài hãy bình tâm đi, để lạy này, ngài lạy Phật thì phải hơn, tâm sự đôi bên bần tăng chưa hiểu hết, nhưng chẳng may đạo Huệ Minh tánh mạng khó bảo toàn.
12- Thì bấy lâu nay tiếng kệ câu kinh, tiểu Huệ Minh đã dày công sám hối, dòng hệ lụy dầu chưa có rũ sạch, nhưng căn đã khiến cho gần chốn Phật đài, mà duyên đã tạo nhiều công quả, có lẽ rồi đây cõi Tây phương người sẽ được hưởng phước thanh nhàn.


Nói: Ngài cứ yên lòng, Huệ Thông (mô Phật) Huệ Trí (mô Phật) hãy y lời thầy dặn.

Huệ Thông nói:
Huynh Huệ Minh, hòa thượng đã y lời cầu xin của huynh, nên vào đây, huynh muốn tỏ điều gì thì cứ bạch với tôn sư đi.

Huệ Minh nói:
Huynh Huệ Thông.

Huệ Thông nói:
Mô Phật.

Huệ Minh nói:
Bây giờ là chừng nào rồi.

Huệ Thông nói:
Hết canh tư bước sang canh năm.

Huệ Minh nói:
Ôi tai lắng mõ chuông chớ tấm thân đã nhẹ nhàng tục lụy,
nhưng mắt nhìn cảnh vật, cõi lòng chưa có giải thoát hồng trần,
trong khói hương mà chạnh chốn tử phần,
nỗi đau khổ lạy cha già xin lượng thứ,
tủi duyên phận tôi mới tìm nơi Phật tự,
thân bọt bèo nhờ sư phụ rộng dung tình,
ân sư ôi, đáp ơn dày đành đợi kiếp lai sinh,
số mạng bạc tới đây cam liểu kết,
nghiệp oan dầu hết, mà phúc quả chưa tròn,
như tôi đây dám vì tình lỗi đạo làm con,
thì tội bất hiếu kiếp nào chuộc được.

      (Ca Nam Ai:) (lớp mái)
Ân sư ôi, cúi xin thương tha thứ tội tình,
Thật tôi là họ Nguyễn tên Lan,
Trắc trở cuộc tình duyên,
Bởi quá thống khổ,
Mượn tên Điệp này,
Đặng có nhập thiền môn,
Tôi dẫu chết đã yên phận rồi,
Tội nghiệp cho người kiếp sống không nguôi,
Thương nhau đã lỡ rồi, ôi hỡi đất trời,
Tại vì đâu xui ly biệt đôi nơi,
Từ ngày đành cắt đứt dây chuông,
Ôi anh Điệp anh có rõ cho chăng,
Em chỉ sợ vì em, mà anh phải khổ,
Thôi để một mình thân em chịu là xong,
Nay cái chết không dung em rồi,
Anh hãy yên lòng, vui cảnh vợ con,
Kiếp này không hiệp, hẹn cùng anh theo kịp em chờ.

Huệ nói:
Em Lan.

Lan nói:
Anh Điệp ôi em đã mệt lắm rồi.

Huệ nói:
Trời ôi! Lan, em Lan đã tắt nghỉ rồi.





Tham khảo
  1. Soạn giả Trần Hữu Trang: Sân khấu và dĩa hát - Báo Bạc Liêu, 15/06/2012
  2. Đêm hè nhớ lại Những giọng ca vàng ngày xưa - Nguyễn Phương, Cải lương Số, 2012
  3. ĐIỂM DANH NHỮNG GIỌNG CA VÀNG TỪ NĂM 1940 ĐẾN NĂM 2000 - Soạn giả Nguyễn Phương, Cải Lương Việt Nam, 22/04/2016
  4. Tiểu Sử Cô Tư Sạng - Kho tàng Vọng cổ Việt Nam, 07/08/2021
Cô Tư Sạng
NS Lư Hoà Nghĩa (Năm Nghĩa)

1/ Lời giới thiệu: Mộng Tuyền là một nữ nghệ sĩ cổ nhạc trước năm 1975…Tên tuổi cô rực sáng trong nhiều vở diễn, đĩa nhựa, phim, kịch, truyền hình…
4/ Lan và Điệp (Hoa rơi cửa Phật) – Soạn giả Viễn Châu: Một ca khúc mà tạo cho Mộng Tuyền rất nhiều kỷ niệm đẹp trong quá khức với số phận của Lan…

VOV - Đài Tiếng nói Việt Nam - Chương trình “Tìm trong kho báu” : Nguyễn Công Hoan


VOV - Tìm trong kho báu : Nguyễn Công Hoan

VOV Live
VOV6.VOV.VN


  1. Nguyễn Công Hoan trong vai trò nhà lý luận phê bình
  2. Nhà văn Nguyễn Công Hoan: “Kiến trúc sư” tài hoa của dòng văn học hiện thực phê phán (Răng con chó của nhà tư sản)
  3. Kép Tư Bền - truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Công Hoan (Kép Tư Bền)
  4. Văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan (Trích: Tranh tối tranh sáng)
  5. Tiểu thuyết hiện thực phê phán của nhà văn Nguyễn Công Hoan (Trích: Bước đường cùng)


1. Nguyễn Công Hoan trong vai trò nhà lý luận phê bình

VOV6.VOV.VN

BAN VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT VOV6 - Đài Tiếng nói Việt Nam
Chương trình “Tìm trong kho báu”

Nguyễn Công Hoan trong vai trò
nhà lý luận phê bình

Đài Tiếng nói Việt Nam


Bên cạnh hàng loạt sáng tác văn chương hư cấu nổi tiếng, nhà văn Nguyễn Công Hoan còn thể hiện khả năng lý luận phê bình văn học qua một số tác phẩm bàn về quan niệm văn chương, kinh nghiệm viết văn và chân dung nhà văn. Trên nền tảng sáng tác và tác phẩm, những lý luận về văn chương của ông quả thực hấp dẫn và giàu sức thuyết phục...(Tìm trong kho báu phát 08/08/2019).


Mời nghe mp3

VOV6 - Ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam




2. Nhà văn Nguyễn Công Hoan: “Kiến trúc sư” tài hoa của dòng văn học hiện thực phê phán (Răng con chó của nhà tư sản)

VOV6.VOV.VN

BAN VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT VOV6 - Đài Tiếng nói Việt Nam
Chương trình “Tìm trong kho báu”

Nhà văn Nguyễn Công Hoan - "Kiến trúc sư" tài hoa của dòng văn học hiện thực phê phán

Đài Tiếng nói Việt Nam


Giữa muôn ngả rẽ của tư tưởng văn chương buổi giao thời, ngay từ đầu nhà văn Nguyễn Công Hoan đã dứt khoát hướng ngòi bút của mình đứng về phía người dân lao động bị áp bức. Ông là người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán. Theo Giáo sư Phan Cự Đệ, tác phẩm Nguyễn Công Hoan là bức tranh sống động về những cảnh ngộ, con người trong chế độ cũ...



Mời nghe đọc tại YouTube


Mời nghe mp3
VOV6 - Ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam




3. Kép Tư Bền - truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Công Hoan (Kép Tư Bền)

VOV6.VOV.VN

BAN VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT VOV6 - Đài Tiếng nói Việt Nam
Chương trình “Tìm trong kho báu”

Kép Tư Bền - Truyện ngắn xuất sắc
của Nguyễn Công Hoan

Đài Tiếng nói Việt Nam


Có tài dẫn dắt cốt truyện đến một kết cục không ai ngờ đến, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có dáng dấp như một màn kịch ngắn đầy cảm xúc và cuốn hút. Truyện ngắn “Kép Tư Bền” in trong tập truyện ngắn cùng tên năm 1935 tiêu biểu cho đặc điểm ấy của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan...(Tìm trong kho báu phát 18/07/2019)



Mời nghe mp3
VOV6 - Ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam.

Mời nghe đọc tại YouTube





4. Văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan (Trích: Tranh tối tranh sáng)

VOV6.VOV.VN

BAN VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT VOV6 - Đài Tiếng nói Việt Nam
Chương trình “Tìm trong kho báu”

Văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa
của Nguyễn Công Hoan

Đài Tiếng nói Việt Nam


Không những có công khai phá, mở đường cho văn chương hiện thực phê phán ở nước ta mà nhà văn Nguyễn Công Hoan còn là người góp phần đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Nhiều tác phẩm Nguyễn Công Hoan viết sau Cách mạng tháng Tám ngược về quá khứ, nhìn vào hiện thực với một cảm quan mới, sâu sắc và khách quan hơn...(Tìm trong kho báu phát 01/08/2019)


Mời nghe đọc tại YouTube


Mời nghe mp3
VOV6 - Ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam




5. Tiểu thuyết hiện thực phê phán của nhà văn Nguyễn Công Hoan (Trích: Bước đường cùng)

VOV6.VOV.VN

BAN VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT VOV6 - Đài Tiếng nói Việt Nam
Chương trình “Tìm trong kho báu”

Tiểu thuyết hiện thực phê phán
của nhà văn Nguyễn Công Hoan


Đài Tiếng nói Việt Nam


Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Công Hoan đều được sân khấu hóa. Các thói tục nông thôn, chuyện quan lại chốn đình trung, những chuyện tình yêu bị chia cắt do lễ giáo phong kiến đã được nhà văn phục dựng một cách sinh động. Tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nguyễn Công Hoan thực sự trải trước mắt người hôm nay một bức tranh xã hội cũ thu nhỏ...(Tìm trong kho báu phát 25/7/2019)



Mời nghe đọc tại YouTube


Mời nghe mp3
VOV6 - Ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam





Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

Nghe đọc Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan - (Hoài Niệm – Kính Hồng)


Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Tuyển chọn: Hoài Niệm – Kính Hồng
Diễn đọc: Kính Hồng



Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

Tiểu sử và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Công Hoan


Tiểu sử và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Công Hoan

Văn Học (VanHoc.Net)


Nội dung bài viết
1. Tiểu sử của nhà văn Nguyễn Công Hoan
2. Phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Công Hoan
3. Tác phẩm tiêu biểu
4. Nhận định về Nguyễn Công Hoan


Nhắc đến Nguyễn Công Hoan là chúng ta nhớ đến bậc thầy truyện ngắn, những tác phẩm của ông mang tính chấm biêm sâu cay khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc. Ngày hôm nay hãy cùng Văn học khám phá về tiểu sử và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Công Hoan nhé!

1. Tiểu sử của nhà văn Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan sinh năm 1903 tại Hưng Yên và mất năm 1977 tại Hà Nội. Ông được biết đến là một nhà văn, nhà báo và thành viên của Hội nhà văn Việt Nam.

Nguyễn Công Hoan sinh ra trong một gia đình Nho học thất thế. Chính vì thế khi còn bé Nguyễn Công Hoan đã được tiếp thu rất nhiều những câu thơ, câu văn mang tính chất châm biếm các tầng lớp, quan lại cường hào bắt dân nghèo. Và sau này khi đi theo sự nghiệp văn chương, Nguyễn Công Hoan chuyên viết về thể loại châm biếm sâu cay.

Năm 1926, sau khi tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, Nguyễn Công Hoan đã đi dạy học ở rất nhiều nơi khác nhau. Mãi cho đến khi Cách mạng tháng 8 bùng nổ ông mới viết tác phẩm đầu tay có tên là Kiếp hồng nhan.

Sau Cách mạng tháng 8 sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Hoan bước sang trang mới khi ông giữ những vị trí quan trọng như, Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ.

Năm 1951 Nguyễn Công Hoan làm việc tại Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và Sách sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ chín năm.

Từ sau năm 1954, Nguyễn Công Hoan trở về với cương vị chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngày 6 tháng 6 năm 1977 Nguyễn Công Hoan mất tại Hà Nội.




2. Phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Công Hoan
Đọc tác phẩm của Nguyễn Công Hoan độc giả sẽ thấy được cái châm biếm sâu cay của ông như thế nào. Cái cười trong truyện là tiếng cười đau khổ của những kiếp người lầm than, thấp cổ bé họng.

Nguyễn Công Hoan cho rằng khi viết chúng ta cần phải đề cao về nội dung truyền tải chính vì thế mà những tác phẩm của ông luôn giàu tính nhân văn, mỗi tác phẩm đều có sự sáng tạo riêng biệt.

Trong cuốn sách Đời viết văn của tôi, Nguyễn Công Hoan từng chia sẻ:
“Tôi đặt nhiều công phu vào việc viết truyện ngắn, chứ không phải vào việc viết truyện dài. Tôi chỉ viết truyện dài khi nào tôi lười đi tìm đề tài để viết truyện ngắn.”
Có lẽ tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan là truyện nổi bật nhất trong sự nghiệp cầm bút của ông. Bước đường cùng viết về cuộc đời đầy bi kịch của vợ chồng anh Pha. Vì không có nhiều sự hiểu biết nên vợ chồng anh Pha đã bị địa chủ dùng nhiều thủ đoạn để cướp đoạt ruộng đất và nhà cửa.

Sự bóc lột trắng trợn và lòng tham vô đáy của tên địa chủ đã khiến anh Pha không còn là một chàng nông dân hiền lành chất phác nữa. Hành động anh Pha phang một cú giáng vào đầu Nghị Lại thể hiện sự bức xúc đến đỉnh điểm của anh. Hình ảnh cuối truyện khi anh Pha bị trói, anh nhắm mắt, nghiến răng rơi nước mắt thể hiện lực bất tòng tâm trước thời cuộc. Truyện Bước đường cùng phản ánh rất chân thật đời sống của những người nông dân nghèo ở xã hội phong kiến, họ bị quan lại áp bức, bóc lột nặng nề. Thế nhưng chẳng ai giúp người nông dân nghèo thoát cảnh ấy, họ chỉ biết cắn răng chịu đựng vì không dám đối đầu với quan lại.

“Thế nào là bướng? Tôi không bướng. Tôi chỉ muốn có lẽ phải. Bọn cầm quyền cứ thấy ai hiểu lẽ phải, ngăn cản không cho họ làm bậy, thì bảo là bướng. Thế hãy hỏi quan, lính trên huyện ăn lương để ngồi không à? Sao động có việc gì bắt họ phải làm thì mình lại cứ tống tiền vào cho họ hư quen đi. Là tại mình ngu, cho nên họ mới bắt nạt mình được.”



3. Tác phẩm tiêu biểu


4. Nhận định về Nguyễn Công Hoan
Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện ngắn trong Văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như một “bách khoa thư”, một “tấn trò đời” mà đặc trưng là xã hội phong kiến của thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20.
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian, tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng cười như một “vũ khí của người mạnh” để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng.
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc điểm của nó đã nâng cao khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp.
Chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Công Hoan và coi ông là bậc thầy truyện ngắn.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong Văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại.
Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn khổ của giáo huấn và tiếp nhận, tuân theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả hiện thực.
Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của Nguyễn Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là “cổ điển” trong nền văn học hiện đại.

– Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam.
Nguyễn Công Hoan cũng đã sống ở nông thôn trong nhiều năm, ông chịu khó quan sát nên có nhiều hiểu biết về nông thôn. Ông sáng tác nhiều truyện về đề tài này.
– Lê Thị Đức Hạnh

Cái cười của Nguyễn Công Hoan là một phương tiện đả kích… có sức công phá thật mạnh mẽ. Đôi lúc ta còn bất chợt thấy trong cái cười hài hước của ông một chút ngậm ngùi, một tình tương có thể nói là kín đáo.
– Nguyễn Huệ Chi, Phong Lê

Truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là hiện tượng chưa có tới hai lần trong văn học Việt Nam.
– Nguyễn Hoành Khung.


Lời kết

Dành cả cuộc đời của mình để tận hiến cho sự nghiệp văn học nước nhà Nguyễn Công Hoan xứng đáng trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam. Qua bao nhiêu thế hệ, những tác phẩm của ông vẫn luôn để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc.

Cảm ơn bạn đọc đã dành thời gian quan tâm và đọc những bài viết tại Văn học. Hy vọng trong thời gian sắp tới chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ từ độc giả.