Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2019
Thứ Ba, 5 tháng 3, 2019
Thứ Hai, 4 tháng 3, 2019
Vẫn còn trịch thượng
Mời bạn đọc theo dõi
Chuyện của ông Huyện Văn Giang với cô Khuê nhà bác Giốc qua bộ ba truyện ngắn:
1. Vẫn còn trịnh thượng
2. Chiếc đèn pin
3. Nạn râu
2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
4. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
5. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
2 Kênh 2 Video
2. Chiến Hữu Audio - Người đọc: Chiến Hữu 01:10
Mời đọc Bản đánh máy
Vẫn còn trịch thượng
(1903 - 1977)
Ngày xưa, mỗi tỉnh lỵ có một nhà thông phiên, là những nhà bằng gạch hoặc bằng tranh, cốt nhất phải rộng rãi sạch sẽ, để người chủ cho các ông phủ, ông huyện trong hạt trọ, mỗi khi các ông này lên tỉnh có việc quan.
Ngày nay, nghệ thuật làm quan đã tiến một bước dài, từ ông huyện hạng ba cũng có thể có ngay được chiếc ô tô hạng xa xỉ, nên vì cách đi về mau chóng, mà không còn một tỉnh nào có thông phiên, cũng như trong hàng phủ, huyện, ít lâu nay, bói cũng không ra một vị nào có râu nữa.
Bây giờ xin các bạn cố tưởng tượng hộ một ông huyện ngày xưa, một ông huyện không giầy ban, không răng trắng, không khăn xếp nhiễu, không áo xa-tanh trơn, một ông huyện không bóng đầu chui đâu cũng lọt, như các bạn vẫn thường thấy, nhưng một ông huyện có mũi hin, có trí hẹp, có búi tóc củ hành, lẫn trong vành khăn lượt quấn rối, có mép và cằm nhây nhớt những râu chảy lòng thòng cả xuống chiếc ngực lép, một ông huyện mặc áo sa hoa nhầu, dài quá đầu gối, mà hai ống quần có thể làm người ta nghĩ đến hai chiếc đèn xếp gấp bằng giấy moi.
Song, tuy ông huyện ngày xưa với ông huyện ngày nay khác hẳn nhau ở bề ngoài, mà bề trong họ vẫn có chỗ hơi giống nhau. Họ cùng biết dùng quyền thế mình để đục khoét dân, cùng biết gọi người cho mình bằng mày một cách mất dạy, và nhất là đối với đàn bà con gái, họ cùng:
Đêm sao quan lớn nô đùa như dân?
Ngày trông quan lớn như thần,
Đêm sao quan lớn tần mần như ma?
Ngày trông quan lớn như cha,
Đêm sao quan lớn la đà như con?
* *
Tôi không còn nhớ là về năm nào nữa, ông Huyện Văn Giang tôi lên tỉnh có việc quan, và trọ ở nhà người thông phiên tên là Giốc.
Giốc có một cô con gái năm ấy trạc hai mươi tuổi. Cô Khuê, tên cô ta, mặt trái xoan, trắng, hai môi đỏ thắm lúc nào cũng như sẵn sàng khoe hai hàm hạt huyền nhỏ và đều. Ngày thường, cô đội khăn vuông suyến, và mặc áo nâu non. Tuy áo ấy không may chét lườn như bây giờ, nhưng giải đũi màu cá vàng bao giờ cũng bó lấy bộ lưng cong, làm nở nang bộ ngực đầy thi vị.
Bởi vậy, mỗi khi ông Huyện có việc phải ngủ lại ở tỉnh - mà rồi ông hay ngủ lắm - và mỗi khi bàn đèn đã bày giường mà Khuê rón rén đến gần, lễ phép chế ấm nước sôi vào bình tích chè hạt, thì y như ông Huyện phải ngây ngất cả tâm hồn.
Ông giương mục kỉnh, ngắm đẵn cổ tay ngà của Khuê, có năm ngón nung núc những thịt, ông ngắm nước da hồng ở má mà ông chắc nó vừa thơm thơm quý báu mà kẻ tốt phúc mới được mó tay vào. Ông thở dài.
Rồi khi Khuê xách siêu đi xuống bếp, ông nhìn theo cho đến lúc khuất, và không bao giờ quên để mắt vào hai giò cổ chân, hai giò cổ chân trắng nõn, dưới đôi ống quần đen nhánh.
Ông Huyện Văn Giang tuy thấy mình đầu hoa râm, môi, cầm và má mọc bừa bãi những râu, song hình ảnh cô con gái hơ hớ có thể kéo ông ngược trở lại ba mươi năm trước. Bởi vậy ông chẳng chịu phí cơ hội nào gần Khuê mà không vờ vĩnh hỏi cô dăm ba câu chuyện.
Có một lần thấy Khuê rót tóe một tí nước sôi ra ngoài chiếu, ông vội bỏ chỏng quèo cối sái, làm ra mặt sợ hãi dịu dàng hỏi:
- Có bỏng không, con?
Cô con gái được quan an ủi, hồi hộp trả lời:
- Bẩm cụ, không việc gì ạ.
Tức thì, thông phiên Giốc ngồi phản bên kia, cho là con mình dám để bận lòng quan khách, vội quắc mắt mắng:
- Con bé vô ý quá!
Rồi bác đến gần ông Huyện, gãi tai xin lỗi:
- Quan lớn tha tội cho, con bé cháu nó lớn người, mà làm ăn chẳng biết gì cả.
Khuê ửng đỏ hai má, chạy tọt vào buồng. Ông Huyện ôn tồn, gỡ tội hộ người lép vế để lấy cảm tình thục nữ:
- Không, chị ấy còn có ý tứ bằng mấy trăm con cô nó nhà tao đấy. Con nhà quan chẳng học làm học ăn, cho nên cái gì cũng vụng.
Ông Huyện chắc thế nào Khuê cũng được vui sướng về những câu khen ngợi không ngờ ấy. Cô ta sẽ phải khen ngợi ông là dễ dãi, là tử tế, cô ta sẽ thiện cảm với ông, sẽ bằng lòng ông. Mà một khi cô ta đã bằng lòng, thì đối với mắt cô, tự nhiên râu ria ông rụng đi, da răn reo nhẵn thín. Lúc ấy cụ sẽ hoàn toàn thành cậu trẻ măng. Rồi nếu muốn vườn thêm hoa nữa, ông mua cô về làm nàng hầu thứ sáu, để sớm khuya đấm bóp. Nếu nhà họ ít phúc, con gái chẳng có số làm cô lớn, thì ông cũng coi cô như đóa hoa thơm giữa đường để vui thú tạm bợ khi lũ gái sề vắng mặt.
Cái chương trình tối thiểu ấy đã phác ngay từ khi ông mới đến cai trị dân Văn Giang. Bởi thế, ông cứ tuần tự mà tiến.
Đã nhiều lần, ông gọi thông phiên lên khuyên bảo:
- Phố xá là chỗ tai vách mạch rừng mày nên bảo con bé nhà mày ăn nói cho cẩn thận. Trong quan trường chỉ hơn ngoài được cái trật tự, trên ra trên, dưới ra dưới. Người ta gọi cụ là cụ lớn Thượng, hoặc các đường quan ở trên này, còn những thuộc quan, thì chỉ được gọi là quan lớn mà thôi. Con bé nhà mày gọi tao bằng cụ, tao e đến tai cụ Thượng, cụ lại cho tao có ý lấn đó.
Bác Giốc nhăn nhó, xin lỗi:
- Lạy quan lớn tha tội cho cháu, nó ngu si lắm. Thôi thì con dại cái mang.
Ông huyện xua tay:
- Tội lỗi gì cái vặt ấy. Là tao nói thế vì tao sợ nó gọi quen miệng đi. Nhưng thôi, mày đừng mắng mỏ gì nó cả, nghe chưa?
Sau một tiếng dạ dài, bác thông phiên sang phản bên kia, chờ xem quan có gọi gì thì sẵn sàng hầu hạ.
Nhà bác Giốc không lấy gì làm rộng cho lắm. Ngoài là ba gian, hai đầu hai trái, tức là hai buồng, có cửa gỗ cẩn thận. Không biết gian bên phải, phía gần bếp, ngày thường dùng làm gì, nhưng hễ tối nào ông Huyện nghỉ lại, thì y như độ khuya khuya cô Khuê ở dưới bếp lên, khẽ kẹt mở cánh cửa, rồi vào ngủ đó. Cạnh cửa buồng kê cái phản thấp của bác Giốc nằm.
Nhiều đêm, khi cơm đen đã gần no say, ông Huyện nghe thấy bác Giốc kéo gỗ inh nhà, thì bực mình, quay cổ sang gọi:
- Này, thông phiên, ngáy vừa vừa chứ!
Tức thì bác Giốc ngồi nhổm dậy, bàng hoàng một lát, rồi đáp đỡ đòn:
- Bẩm quan lớn, những người ngáy rất tỉnh ngủ.
Nhưng nào quan lớn có mong gì bác tỉnh ngủ, trái lại quan lớn muốn bác ngủ say như chết, nhất là bác lù lù nằm cạnh cửa vào buồng thì đống thịt bác ghê tởm như thần giữ của. Quan lớn nói:
- Hay là mày ra chỗ khác mà ngủ. Tính tao hễ nghe thấy tiếng động là không sao chợp mắt được.
Nhưng bác thông phiên ngu độn hiểu đâu được cái thâm ý của quan:
- Bẩm quan lớn, con ngủ đây để đêm hôm coi nhà hầu quan lớn.
Đối với Khuê, thỉnh thoảng ông Huyện gọi lên, sai các việc vặt. Ông bảo:
- Thấy mày già, lắm lúc tao muốn mượn cái này cái nọ mà tao nể quá.
Khuê cảm động đưa mắt nhìn ông lão phúc hậu:
- Dạ.
Một vài khi, chỉ có mình ông với Khuê, thì ông cất cái giọng khê nồng nặc mà ngọt ngào nhủ:
- Con nên học ăn, học làm cho ngoan ngoãn khéo léo, rồi ta làm mối cho.
Khuê thẹn thò, cố mỉm cười để giữ đủ lễ với người trên. Ông Huyện lại tủm tỉm, nói:
- Con nên tập tiêm thuốc phiện, trước hết là giúp thầy, sau là mỗi khi vào bữa thuốc mà ta bận, thì con tiêm hầu ta.
Tưởng lời khuyên bảo thật thà, Khuê không đáp, vì cô không dám trả lời trái ý quan.
Một lần nữa, trong khi ông Huyện nhờ bác thông phiên ra phố mua bán vài thứ, ông gọi Khuê lên gần để khoe khoang nhà cửa.
Ông lấy cô lớn Năm ra để dò ý Khuê rồi ông tặc lưỡi:
- Ấy, cô ấy cũng trạc tuổi con và cũng xinh xắn như con ấy. Nhưng cô ấy không được dịu dàng đầy đặn như con đâu.
Ông thấy Khuê vui sướng lộ ra nét mặt.
Một lát, ông kéo cái tráp khảm, lấy chìa khóa mở nắp ra, rón đồng bạc đưa Khuê, và nói:
- Ta thưởng riêng cho con đồng bạc vì con đã chịu khó hầu ta.
Khuê lúng túng chắp tay, nói:
- Lạy quan lớn, con không dám.
- Không, ta không nói với thầy con đâu mà sợ. Con cứ cầm. Thánh dạy: Thượng tứ hạ bất cảm từ. Con không cầm, ta giận đó.
Khuê chẳng hiểu thánh nói gì. Song thánh đã bảo mà không nghe ắt phải tội, nên hai tay giơ ra. Khuê ấp úng đáp:
- Con xin quan lớn.
Ông Huyện sướng hơn người được tiền, dí mạnh đồng bạc vào gan hai bàn tay của Khuê. Ông đã cọ sát vào làn da mát rượi và mềm mại của cô con gái nõn nà ấy. Ông hồi hộp. Giá không còn tỉnh mà trông thấy bác Giốc đã về, quyết ngay lúc ấy ông nhảy một cái từ địa vị phụ mẫu dân đến địa vị con rể anh hàng cơm trọ.
Bác Giốc làm tắt cuộc tán tỉnh. Khuê lẳng lặng xuống bếp. Bởi vậy ông Huyện không biết nổi cái tình ý của đóa hoa mơn mởn ấy ra sao.
Rồi ông đâm ra tư lự.
Nghề làm quan hay trịch thượng, trịch thượng ở việc làm với dân đã đành, trịch thượng ở cái ái tình trong trí tưởng tượng.
Cho nên, sau một lúc vừa tiêm thuốc vừa nghĩ ngợi suy tính, ông Huyện Văn Giang đã dùng sức óc để đi rất mạnh, rất nhanh mà đoán rằng tất sao đêm nay ông cũng được cưỡi phượng.
Rồi đến khi tiếng kiểng cầm canh tư trong dinh cụ Thượng đã đưa đi xa để báo cho ông biết rằng đêm đã khuya, ông mong mãi cô Khuê mới lên buồng, và mãi bác thông phiên già mới "kéo gỗ".
Chờ cho mọi người ngủ thực say, ông đằng hắng rõ to mấy tiếng. Không thấy bác Giốc cựa, ông tắt phụt đèn đi, khe khẽ ngồi dậy, và rón rén tụt xuống đất.
Ông bấm kiễng năm đầu ngón chân, nhịn thở, sờ soạng trong nhà tối như hũ nút, để đi.
Bác thông phiên vẫn ngáy đều đều.
Qua giường ông nằm, ông đưa tay sang ghế trường kỷ, rồi đến chiếc bàn tre. Ông bước dài ra phía ngoài, lần theo hàng cửa giữa, rồi cửa bên.
Lúc này ông hết sức im lặng.
Khi tay đã để vào cánh cửa buồng, ông đứng dừng lại, lắng tai nghe một lúc lâu.
Trống ngực ông đánh to quá, đến nỗi chính tai ông cũng nghe rõ. Trong người ông, máu nóng chạy ran lên.
Ông thấy Khuê cựa luôn. Trí tưởng tượng trịch thượng của ông đoán rằng chính cô bé cũng đương lòng xuân phơi phới mà trằn trọc mất ngủ.
Ông sờ khe hai cánh cửa, ẩy thử một tí: không gài then!
Ông vén râu lên để thở bằng miệng cho đỡ ra tiếng. Im phăng phắc. Ông nâng cánh gỗ và mở ra dần dần.
Nhưng bất đồ, một tiếng "thịch" khẽ, tiếng ngáy bỗng im bặt, và tiếng người ngồi nhổm dậy, rồi xòe một cái, ngọn diêm tóe ánh sáng vào mặt ông Huyện. Không tránh đằng nào được nữa, ông luống cuống, ngay như cán tàn. Thấy động, Khuê giật mình, ngẩng cổ, rú lên.
Bác Giốc, khi đã nhìn rõ vị khách xấu chơi thì vừa giận vừa sợ. Nhưng vì bác chỉ là một thằng dân hèn thì cố nhiên cái giận phải nhường chỗ cho cái sợ, nên bác chỉ dám thở dài cau mặt, nói khẽ:
- Chết, sao quan lớn lại thế, người ngoài người ta biết thì còn ra thế nào nữa?
Thấy thông phiên nhu nhược, ông Huyện thản nhiên bước chân ra, và vẫn giọng trịch thượng, ông đáp:
- Mẹ kiếp, trừ tao với mày, với nó, không ai nói ra, thì người ngoài đứa nào biết được mà mày sợ!
Tiểu thuyết thứ bảy số 199 (ngày 19 tháng 3 năm 1938).
Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Trong Tổng tập văn học Việt Nam - Tập 28 - Trung tâm KHXH NV Quốc gia -2000
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
PDF - Trong Tổng tập văn học Việt Nam - Tập 28 - Trung tâm KHXH NV Quốc gia -2000
Tham khảo: Các bài viết liên quan
Chuyện của ông Huyện Văn Giang với cô Khuê nhà bác Giốc qua bộ ba truyện ngắn:
1. Vẫn còn trịnh thượng
2. Chiếc đèn pin
3. Nạn râu
Chiếc đèn pin
Mời bạn đọc theo dõi
Chuyện của ông Huyện Văn Giang với cô Khuê nhà bác Giốc qua bộ ba truyện ngắn:
1. Vẫn còn trịnh thượng
2. Chiếc đèn pin
3. Nạn râu
2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
4. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
Diễn đọc: 1. Chiến Hữu | 2. Dung | 3. Hằng Phạm | 4. Hồng Ngọc | 5. Mắm Tôm | 6. TV DKD | 7. Anh Khôi | 8. Nui Ha Noi | 9. Radio Kể Truyện
7 Kênh 7 Video
2. TV DKD 03:23:36
3.
4. Hằng Phạm Audio
Mời đọc Bản đánh máy
Chiếc đèn pin
Lần sau, có việc lên tỉnh, ông huyện Văn Giang vẫn vào trọ nhà Giốc như thường. Thế là bác thông phiên đã đoán sai. Bác tưởng hôm nọ xảy ra, nó động tới chỗ liêm sỉ của ông huyện, bác sẽ mất đứt mồi.
Mà rồi biết đâu, ông ta lại chẳng cổ động các quan khách đến trọ cả nhà khác, thì thật là họa vô đơn chí.
Nhưng mà không. Ông huyện vẫn vui vẻ sai bảo bác, như quên khuấy chuyện hôm nọ, đến nỗi bác nghĩ rằng hay là đêm ấy bác đã chiêm bao mê hoảng mà thôi.
Nạn râu
Mời bạn đọc theo dõi
Chuyện của ông Huyện Văn Giang với cô Khuê nhà bác Giốc qua bộ ba truyện ngắn:
1. Vẫn còn trịnh thượng
2. Chiếc đèn pin
3. Nạn râu
2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
4. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
Diễn đọc: 1. Chiến Hữu | 2. Cô Vân | 3. Hồng Ngọc | 4. Mắm tôm | 5. TV DKD
Mời đọc Bản đánh máy
Nạn râu
Khuê sợ hãi, hỏi:
- Chết, thầy định sửa thế nào, lỡ rồi việc ra đến cửa công, thì lại một ông quan khác xử, vậy lẽ nào quan họ chẳng bênh nhau.
Bác thông phiên Giốc cười, lắc đầu:
- Không phải tao sửa như mày tưởng, tao sửa lão ta một món tiền tiêu kia mà.
Khuê rú lên:
- Ối! Thế thì con nhục quá.
Bác Giốc quắc mắt:
- Làm gì mà đã tru tréo cái mồm lên thế nào! Mày tưởng tao đê mạt đến nỗi đem hiến vợ con cho người quyền thế để mưu cầu danh lợi riêng cho mình à? Nếu tao có thể xử đê tiện đểu giả thế, thì bây giờ ít ra tao cũng làm đến tuần phủ rồi, chứ lại chịu nghèo xác nghèo xơ thế này à?
Chuộc cụ
2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
4. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
5. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
Mời đọc Bản đánh máy
Chuộc cụ
(1903 - 1977)
- Trưa lắm rồi, cô vào mời cụ dậy để con mở cổng, kẻo chúng nó cứ nheo nhéo từ sáng đến giờ.
Cô Tư đỏng đảnh gắt:
- Kệ chúng nó, ai bảo hôm qua, hôm kia không đến một thể. Ai làm đầy tớ chúng nó lắm thế được. Tận ba mươi Tết mới thèm vác xác vào!
Song tuy làm ra dáng hách dịch như vậy, mà cô Tư cũng không bỏ lỡ dịp nào không để cho người nhà, đầy tớ tin rằng cô vẫn được cụ Hàn yêu hơn hết bọn cô hầu. Cô bèn xỏ chân vào guốc, đứng dậy.
Cô đến trước tấm gương treo ở cột. Cô vuốt mái tóc, nắn lại khăn, bôi ít sáp vào môi, rồi khi yên trí mình vẫn còn nguyên vẹn nhan sắc của cô con gái ngoài hai mươi, cô mới lên nhà trên rón rén mở cửa buồng.
- Ông! Ông! Mời ông dậy.
Cụ Hàn cựa, mở mắt, mỉm cười với cô, rồi quờ tay nắm lấy cổ tay cô, rồi, cụ giơ hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy cô hầu non. Nhưng cô Tư cản lại:
- Chúng nó chờ đông lắm rồi.
Cụ Hàn hút một chập mới vươn vai. Cô Tư dịu dàng hỏi:
- Rửa mặt nhé.
Thấy cụ gật, cô bèn lấy chiếc khăn màu nước dưa, vẫn treo ở lưng ghế cạnh giường, dúng vào thau nước, vắt khẽ và đưa cho cụ.
Cụ Hàn lau qua loa đôi mắt, rồi nói:
- Bảo thằng Quýt mở cổng!
Cánh cổng nhà cụ Hàn bấy giờ mới mở: một dinh cơ gồm sáu chiếc nhà gạch lớn.
Năm người theo Quýt vào ngồi chực ở nhà ngang.
Bác khán Thạch cũng ở trong bọn đó. Bác chờ đã lâu lắm. Bác chỉ cần chuộc cụ rồi ra chợ mua miếng thịt, kẻo vãn người vì chợ hôm nay chỉ họp một lúc buổi sáng.
Năm nào cũng vậy, bác cầm cụ từ đầu tháng năm cho cụ Hàn, bởi vì tháng ba, tháng tư, tháng nào bác cũng có giỗ. Mọi năm phong lưu, hăm tám hăm chín Tết bác đã đi chuộc về. Nhưng khốn nỗi, năm nay làm ăn khó khăn quá. Hôm nọ, vừa lo được đủ tiền, bác đã bị người ta lần túi đòi mất. Thật thế, bác nợ nhiều quá, chẳng năm nào đến tối ba mươi Tết, bác không bị réo ở cổng. Cho nên trốn được món nào hay món ấy, không có, bác phải nói khó hoặc van lạy người ta để người ta thương tình. Bác cố giấu biệt dần dần, nay một hào, mai một hào, cho đủ hai đồng mới có tiền chuộc cụ và sắm miếng thịt miếng thà cho ra vẻ Tết.
Món chuộc cụ, không ai thúc bách, song bác coi khẩn bằng mấy mươi món khác. Bác tưởng tượng nếu không chuộc được cụ về thì phải tội chết.
- Nào, ai cần thì lên hầu trước đi.
Dứt lời Quýt, cả năm người đều tranh nhau đứng dậy.
Bác khán nằn nì:
- Tôi chờ từ sáng, cho tôi lên trước.
Nhưng Quýt trỏ vào người mặc áo tây thâm và ra lệnh:
- Bác xã về tận Tràng, mà chuộc những hai chiếc mâm, cho lên trước.
Mười lăm phút sau, bác khán Thạch lại phải nhường cho người ở Tam Đa lên chuộc lại cái lư. Và mãi tận hơn một giờ, bác mới được gọi.
Bác theo Quýt đi. Qua sân lát gạch bát to, bác lên thềm nhà giữa rồi đứng lại. Bác cởi thắt lưng lấy tám hào ba nắm ở tay và bỏ hai xu vào túi. Bác khúm núm vạch bức mành mành để vào. Bác vái chào.
- Lạy cụ ạ.
Cụ Hàn nằm cạnh bàn đèn có cô Tư tiêm thuốc, không trả lời, chỉ nhìn bác.
Cô Ba ngồi têm trầu gần đó, hất hàm hỏi:
- Kêu gì?
Bác khán gãi tai:
- Bẩm con đến trình cụ cho con chuộc cụ con về.
Cô Ba hiểu, nhanh nhẹn vào trong buồng. Cụ Hàn nói theo:
- Tên Nguyễn Thạch có chua chữ ở dưới đế ấy nhé.
Bác khán chờ. Im lặng.
Trong buồng đưa ra những tiếng gỗ chạm vào nhau, lục cục, rồi bỗng cô Ba hỏi:
- Từ tháng nào nhỉ?
Bác khán đáp:
- Bẩm tháng năm ạ.
Cụ Hàn mồm ngậm giọc tẩu, tay bấm đốt, rồi khi đã hút xong điếu thuốc, cụ nhìn bác Khán nói:
- Tám hào rưỡi.
Thấy cô Ba tìm mãi không được, cụ Hàn giục:
- Sao lâu thế?
- Thưa, chưa thấy ạ.
Cụ cau mặt, nhìn Quýt:
- Mang cả ra đây. Nó chả được việc gì cả!
Tức thì Quýt nhanh nhẩu vào buồng, rồi bưng ra một sọt bài vị. Chiếc bài vị nào cũng sơn đỏ, bụi bám đầy, có dấu vôi trắng ở mặt và ở đế.
Quýt đặt sọt xuống đất. Cụ Hàn ngồi dậy cúi chọn từng chiếc một rồi phàn nàn:
- Chết chửa, còn bao nhiêu đứa không biết chết trôi chết giạt đi đằng nào mà không chuộc cụ chúng nó về. Ông cho rồi quỷ sứ nó lại không rút lưỡi những đồ bạc ác ấy đi à!
Bác khán đứng yên để chờ.
Cụ Hàn xáo lộn để tìm. Cụ cũng phải tìm mãi. Khi thấy chiếc bài vị đề tên bác khán Thạch, cụ mới trừng mắt mắng cô Ba:
- Chả nó là con khỉ đây à?
Rồi cụ hất hàm bảo bác khán:
- Tám hào rưỡi!
Bác khán thở dài. Bác tủi thân lắm. Lại thấy cụ Hàn không được vui vẻ, nên bác thất vọng. Song bác cũng cứ liều, mất gì lời nói. Bác đặt tám hào ba vào đĩa, đằng hắng rồi thưa:
- Lạy cụ, mấy năm nay, con nhờ vả cụ, không lần nào dám thiếu cụ, nhưng lần này con chỉ lo được có ngần này, xin cụ thương cho.
Cụ Hàn không nói không rằng, quẳng chiếc bài vị vào sọt và nằm xuống.
Bác khán giật mình như trông thấy tổ tiên bị thương. Bác gãi tai. Nhưng cụ đuổi:
- Bước! Mày tưởng mấy hào bạc của mày to lắm à?
Cô Từ mắng theo:
- Thôi, đi! Quýt, cất cái sọt rồi đuổi nó ra!
Quýt kéo áo bác, nhưng bác cố đứng lại. Bác như muốn ứa nước mắt, móc túi lấy thêm hai xu rồi để vào đĩa.
Cô Ba ngảnh nhìn, đoạn nhặt bài vị đặt lên phản.
Bác khán kính cẩn nâng lấy cụ và túm vạt áo, chùi bụi chỗ đánh dấu vôi vào mặt cụ.
Đoạn sung sướng vì đã có cụ để thờ trong mấy ngày Tết, bác thu thu khúc gỗ sơn son ấy vào bọc, vái chào cụ Hàn và hai cô, rồi hớn hở lui ra.
Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Trong: Tổng tập văn học Việt Nam - 28 - 2000 - - Tr.163-166
Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
PDF - Trong Tổng tập văn học Việt Nam - Tập 28 - Trung tâm KHXH NV Quốc gia -2000
Tham khảo: Các bài viết liên quan
Tổng tập văn học Việt Nam 28 - 2000 Trung tâm KHXH NV Quốc gia
Tổng tập văn học Việt Nam 28 - 2000 Trung tâm KHXH NV Quốc gia
Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977)
Từ câu chuyện "Quyết chí ra đi"
Từ câu chuyện "Quyết chí ra đi"
Vốn là hồi đầu thế kỷ, để xây dựng Hà Nội trở thành một đô thị theo kiểu châu Âu hiện đại, đồng thời với việc mở mang đường phố, xây dựng Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Nhà băng, Nhà hát lớn, …người Pháp có những quy định để nói như chúng ta ngày nay là “đảm bảo trật tự mỹ quan đô thị” như cấm hàng rong buôn bán trên vỉa hè, cấm vứt rác ra đường, xe tay bánh sắt chỉ được hoạt động ở ngoại ô, chỉ xe tay bánh cao su (có hình thức lịch sự hơn) mới được chở khách trong nội thành… Người đi xe tay bánh sắt từ ngoại ô vào tới nội thành phải đổi sang đi xe bánh cao su (cũng phiền phức, lôi thôi lắm đấy chứ!). Vì là chủ trương của Pháp nên người Việt Nam ta phản đối ghê lắm, nhất là những trí thức yêu nước. Một trong những cái cấm bị phản ứng rất dữ dội là cấm phóng uế bừa bãi. (Hình như đây là một thói quen khó bỏ của người Việt Nam ta. Điều cấm này đã có từ một thế kỷ nay nhưng giờ cái nạn này vẫn tồn tại). Nhà văn Nguyễn Công Hoan khi ấy vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm, đang là giáo học (nghĩa là đã thuộc thành phần trí thức) bèn viết truyện ngắn “Quyết chí ra đi” đả kích chủ trương không hợp lòng dân này.
Xin tóm lược để mọi người đọc cho vui:
Hai vợ chồng nhà nọ quê ở gần tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phòng. Một hôm, sau một trận cãi nhau, anh chồng vô cùng tức giận cô vợ lăng loàn, nghĩ tới phong trào xuất dương tìm đường cứu nước đang rầm rộ bèn “quyết chí ra đi” noi theo các bậc đàn anh. Ra ga tàu hỏa, người quen bán hàng ở ga hỏi, nhưng anh đang tức giận không thèm trả lời. Chẳng mấy khi ra khỏi lũy tre làng, định đi Hải Phòng để xuất dương, nhưng anh lên nhầm con tàu chạy hướng ngược lại về Hà Nội. Xuống ga Hàng Cỏ (Hà Nội), anh vẫn tưởng là Hải Phòng, hỏi thăm đường ra cảng. Người ta liền chỉ đường cho anh ra bến Phà Đen (cũng là cảng nhưng là cảng trên sông Hồng). Nghe anh hỏi tàu xuất dương, ai cũng cười giễu cho là anh bị thần kinh. Tha thẩn mãi, tới khi muốn đi tiểu anh bèn theo thói quen, “tè” ngay bên vệ đường. Ai ngờ, cảnh sát trông thấy, liền bắt giam vì tội phóng uế bừa bãi.
Chị vợ ban đầu nghĩ chắc chồng giận chỉ bỏ đi đâu đó, nhưng chờ hai ba ngày vẫn chưa thấy chồng về bèn bổ đi tìm. Ra ga hỏi thăm, người ta nói thấy chồng chị lên tàu về Hà Nội. Thế là chị sấp ngửa lên Hà Nội tìm chồng. Chẳng có manh mối nào, chị cứ lang thang khắp các phố phường hy vọng gặp được chồng. Lúc đi ngang qua một cái hồ rộng như cái đầm nước ở quê chị, theo thói quen ở nhà quê, chị ngồi sụp xuống bên một bụi cây để làm cái việc có thể sánh với “thứ nhất quận công…”. Ai ngờ, đội xếp Tây bắt chị về giam ở bót Hàng Trống vì phạm điều cấm phóng uế bừa bãi của Tòa thị chính. Phòng giam đàn ông và đàn bà riêng biệt, mãi đến giờ phạm nhân được ra ngoài đi dạo, chị vô cùng sung sướng gặp lại chồng đang bị giam ở phòng giam đàn ông.
Gặp nhau, hai vợ chống mừng mừng tủi tủi, vô cùng cám ơn “nước mẹ Đại Pháp” đã có luật cấm phóng uế bừa bãi, giá như không có cái luật ấy thì sao hai vợ chồng tìm thấy nhau.Không ít truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan viết trước 1945 có nội dung đả kích như thế này.
Hiện nay, phản ứng trước một số chủ trương của chính quyền thường có 2 xu hướng.
Một là của bà con trên mạng xã hội. Phản ứng cũng không khác mấy so với thái độ của Nguyễn Công Hoan. Chính quyền không còn thu phục được niềm tin của mọi người. Qua một số chủ trương đã ban hành, dưới con mắt của bà con, những người trong chính quyền đều hoặc ngu dốt hoặc vụ lợi. Những chủ trương của họ ban hành đều chỉ đáng vứt vào sọt rác. Thế là lập tức công kích. Mình nghĩ, chưa tới mức hoàn toàn như vậy. Một số chủ trương được đưa ra cũng có tác dụng tích cực trong việc điều hành đời sống đô thị. Như cái chủ trương cấm buôn bán hàng rong trên vỉa hè, cấm bán rượu bia sau 22 giờ hàng ngày, thay đổi cung cách thi cử, … chẳng hạn, hạn chế nằm ở cách thực hiện các chủ trương đó. Xin để một hôm khác bàn tới chuyện này.
Hai là các báo lề phải. Nói thực, cái đáng phản bác, công kích thì các vị im như thóc, “đếch” dám ho he, còn những cái chưa rõ trắng đen, còn đang trong quá trình thực nghiệm hay với những người yếu thế “thấp cổ bé họng” không được ai bênh vực thì các vị đua nhau vào đánh hội đồng. Như cái việc đóng ngã ba, ngã tư để giải quyết việc ùn tắc giao thông. Báo nào cũng “chửi”, nói rằng thế giới chưa có nước nào làm như thế. Đúng là trên thế giới chẳng có nước nào làm như vậy, vì làm gì có nước nào lắm xe máy như nước ta? Có nước nào ý thức người tham gia giao thông kém như nước ta? Chắc các bác giao thông sợ quá, đành phải bỏ. Tốn kém bao nhiêu tiền của. Thế là tắc lại hoàn tắc. Cái đường Láng trước đây vào giờ đi làm buổi sáng và giờ tan tầm buổi chiều luôn tắc, có hôm xe máy ô tô nối đuôi nhau hàng cây số. Mời các nhà khoa học của Viện khoa học kỹ thuật giao thông vận tải tham mưu. Sau mấy ngày ra hiện trường mắt thấy tai nghe, các nhà khoa học đưa ra phương án ngăn các ngã ba như đã làm trước đây. Từ đó, hai năm rồi, chẳng thấy tắc nữa. Báo chí từ đó mới hết chọc ngoáy.
Mỗi chủ trương mới ra đời không dễ tìm được sự đồng thuận, nhất là khi chính quyền hiện nay không còn được lòng dân, luôn bị dân nghi ngờ. Nhưng mình nghĩ bà con ta nên bình tĩnh suy xét, gạn đục khơi trong. Chưa thay đổi được cái lớn thì cũng mong có sự thay đổi dù nhỏ để cuộc sống bớt u ám.
Thứ nữa, trước khi đưa ra một chủ trương, các “tác giả” của nó cũng nên xem xét cho kỹ, tránh việc chủ trương không thực hiện được, xã hội vẫn chẳng có gì văn minh tiến bộ hơn mà chỉ thêm cái cớ cho bọn chức dịch các loại ở địa phương nhũng nhiễu dân lành.
* Quyết chí phiêu lưu
Thứ Ba, 18 tháng 12, 2018
Đảng Rổ Bẫy
2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
4. Mời đọc tại ISSUU
5. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
Diễn đọc: 1. Thái Hoàng Phi | 2. Cô Vân | 3. Mắm Tôm | 3-19. Thái Hoàng Phi (Chương 1-16) | 20-36. Mắm Tôm (Chương 1-16) | 37-52. Cô Vân (Chương 1-16)
Mời đọc Bản đánh máy
Đảng Rổ Bẫy
Diễn đọc: Thái Hoàng Phi
Đồng trinh Gia Long
2. Mời đọc Bản đánh máy
3. Mời đọc Bản chụp dạng ảnh Trong Cậu Ấm, Số 6, 27 Tháng Ba 1935
4. Mời Đọc/Lấy về Bản chụp dạng PDF
5. Tham khảo: Các bài viết liên quan
Mời nghe đọc
Diễn đọc: 1. Thái Hoàng Phi | 2. Chiến Hữu | 3. MamTom | 4. Phạm Hằng
Mời đọc Bản đánh máy
Đồng trinh Gia Long
Đồng trinh Gia Long cũng to vừa bằng đồng trinh Khải Định, nên vì vô ý hoặc vội vàng, ngay lúc ấy, tôi cứ bỏ tọt vào túi.
Nhưng mà, về đến nhà, thấy bị thiệt mất nửa xu, tôi bực mình quá.
Không thể làm cách gì tiêu được đồng ấy, tôi đành cất nó vào hộp. Mà luôn trong nửa tháng trời, hễ lúc nào tôi nhìn đến nó đã lên dỉ, là lòng tiếc của lại cắn rứt tôi, có khi đêm nằm chỉ thở dài, trằn- trọc mãi không ngủ được.
Sốt ruột không chịu được, tôi phải nghĩ kế tống nó đi.
Lần ấy tôi được nghỉ lễ ba ngày.
Hôm tôi sắp về nhà quê, tôi nghĩ đến sáng hôm sau phải đi xe lửa sớm mà chợt tôi được thấy ngay một ý rất hay.
Tôi định rẽ ra ga ngay từ lúc năm giờ. Lúc ấy hẳn là trời còn tối, chưa rõ mặt người. Như thế, nhân dịp tốt, tôi sẽ vào một hàng quà ở trước cửa ga, để mua một thứ gì cần trả tiền bằng xu lẻ. Rồi khi trả tiền, tôi đếm cả đồng trinh Gia Long lẫn vào những trinh Khải định. Thế thì có trời biết.
Suốt đêm tôi thấp thỏm mừng thầm, đắc chí lắm.
Sáng hôm sau, tôi đến ga rất sớm.
Đứng ở hiên, tôi móc túi, lấy đồng trinh Gia long, ghé vào tận dưới ngọn đèn để xem cho kỹ, rồi cho riêng vào một túi. Tôi đi sang dãy hàng cơm bên kia đường, chọn một nhà có người xem chừng còn ngái ngủ mới vào. Tôi mặc cả một phong bánh khảo để đem về làm quà cho em bé tôi:
- Mấy xu một phong bánh khảo thế bà?
- Bảy xu!
- Bốn xu có được không?
- Không!
- Thế bốn xu rưỡi vậy.
- Gớm! Cậu này mua bán chặt chẽ quá! Sáu xu, thực giá đấy!
- Thôi, năm xu, bà bán cho tôi.
- Không được, sáu xu kia!
Chẳng được giá, tôi bỏ đi. Nhưng vừa bước khỏi nhà, bà hàng đã gọi giật lại:
- Này, cậu mua bánh khảo! Năm xu rưỡi đấy.
- Không, tôi chỉ có năm xu thôi.
Rồi tôi lại đi.
- Này, lại đây. Cậu lấy hai phong, tôi bán rẻ cho một hào.
- Không, tôi chỉ mua một phong thôi.
Tôi không bằng lòng mua hai phong, chẳng phải tôi không đủ tiền. Nhưng nếu tôi trả một hào, thì đồng trinh chết rấp ấy, tôi đẩy nó đi sao được.
Mặc cả hàng bên cạnh, tôi cũng bị người ta nói thách, tôi bèn bụng bảo dạ:
“Thôi, năm xu rưỡi cũng được, cốt mình trả được bằng tiền trinh là khá rồi.”
Nghĩ vậy, tay tôi thọc vào túi, đếm mười đồng trinh, và nhét đồng Gia long vào giữa là mười một. Tôi đến hàng ban nãy, nói:
- Nào, năm xu rưỡi, bà bán cho tôi một phong.
Bà hàng uể oải mở tủ. Tôi vẫn nắm trong tay mười một đồng trinh. Rồi sự khôn ngoan lại xui thêm tôi nên đứng chân trong chân ngoài, để lúc trả tiền xong, tôi cần cắm cổ đi cho chóng, kẻo người ta gọi lại.
Bà hàng lấy phong bánh, nói:
- Bánh này ngon lắm, đáng sáu đồng xu của tôi.
Tôi mỉm cười. Vì tôi lấy làm khoái trí rằng sẽ được lợi hẳn một xu!
Bà hàng đẩy gói bánh lên mặt quầy. Tay tôi vẫn thọc sẵn vào trong túi.
- Nào, trả tiền đi.
Tôi rút nắm trinh ra. Nhưng vì vội quá, tôi đụng tay đánh rơi mất hai đồng.
Lúng túng, tôi cúi xuống tìm. Khi nhặt được đủ, tôi lại có ý để đồng trinh Gia long len vào giữa, rồi nhanh như cái cắt, tôi đặt cả cọc tiền lên mặt tủ và giao hẹn:
- Tiền đây, bà nhé!
Nói xong, trống ngực thình thình, tôi quay gót bước một mạch cho mau, vừa đi vừa thỉnh thoảng quay lại nhìn, yên trí sao cũng được nghe tiếng:
- Này! đổi cho tôi đồng khác!
Nhưng may quá! Bà hàng đã đếm tiền xong, mà cũng chẳng thấy gọi tôi lại. Đến hiên ga, tôi vừa thở vừa nhìn lại: trong hàng, tôi không thấy bà ấy nữa. Một người khác đã ra coi thay từ bao giờ.
Mừng quá! Thật là may mắn! Từ nay đỡ nỗi bực mình. Thành ra tôi khôn một tý hóa được một xu lợi.
Ngồi trên xe lửa, vơ vẩn, tôi nghĩ tới em bé tôi. Chắc thoạt thấy tôi về, nó mừng rỡ. Khi đòi quà mà được phong bánh khảo, thì hẳn nó reo ầm, mừng quýnh, ôm chặt lấy tôi mà hôn. Nghĩ đến cảnh tượng ấy, tôi sung sướng, đắc chí lạ thường.
Rồi hai tay vùng vẫy, tôi tung tăng đi lên đầu toa, lại xuống cuối toa.
Lúc chợt muốn biết bánh khảo ấy hiệu gì, tôi sực nhớ ra... Khổ quá! Quái! Lạ thật...
Tôi ngẩn người, cau mặt để nghĩ. Tôi nghĩ lại từng lúc một, thì dần dần mới nhớ đích là tôi đã bỏ quên phong bánh ngay ở hàng cơm.
Bởi vì được tiêu thoát đồng trinh Gia long, tôi vừa mừng, vừa lo, nên cứ cắm cổ chạy, quên bặt mất không cầm gói bánh. Thảo nào tôi không thấy nhà hàng gọi tôi!
Chán quá!...
Năm 1935
Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Tham khảo: Các bài viết liên quan
2. Chuyện ít biết về Thái Phỉ - Tổng biên tập báo thiếu nhi đầu tiên của VN - Kiều Mai Sơn
Thứ Hai, 17 tháng 12, 2018
Nhà văn học văn: Nguyễn Công Hoan - mải mê học tiếng Việt
Nhà văn học văn: Nguyễn Công Hoan - mải mê học tiếng Việt
Về kinh nghiệm học văn để rồi sáng tác, đeo đuổi nghiệp văn, bài học mà ông thấm thía, tâm đắc nhất vẫn là phải nghiêm chỉnh học tiếng Việt: 'Học để hiểu tiếng khó, thêm tiếng mới'
Một nhà văn được đánh giá ở tầm vóc như thế, thuở còn “mài đũng quần” ở Trường Bưởi (nay là Trường THPT Chu văn An - TP.Hà Nội), học chung với nhà thơ Tú Mỡ, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan… đã học văn thế nào?
Quả thật, cha đẻ của nhân vật Kép Tư Bền hồi nhỏ cực kỳ… láu cá, tinh nghịch, hay tìm những trò tinh quái để lỡm bạn bè. Ông có một niềm say mê không cưỡng lại được là đọc sách, đọc báo, dù các ấn phẩm ấy dành cho người lớn.
Ngày nọ, thầy giáo ra đề bài luận - Tả một đêm trăng trên Hồ Tây, ông bèn mở Đông Dương tạp chí, chép lại nguyên si bài Đêm trăng thú chơi Hồ Tây của Phan Kế Bính. Đến câu: “… mấy đóa hoa nở muộm mà vẫn xanh tốt”, dù không hiểu “nở muộm” là gì, Nguyễn Công Hoan vẫn chép y chang. Lúc chấm bài xong, thầy giáo nhẹ nhàng bảo: “Đây là chữ muộn chứ không phải muộm, nhà in chép sai đấy, anh không nhận ra à?" Nhà văn tương lai của chúng ta tái mét mặt mày.
Tình yêu văn chương ở một đứa trẻ không hình thành ngẫu nhiên mà từ nếp nhà. Với Nguyễn Công Hoan, do bố là huấn đạo (dạy học), bác đỗ đại khoa, vì thế trong nhà ông có rất nhiều sách. Bà nội thuộc dòng dõi nhà nho nên ngay từ bé, từ lời ru, lời ăn tiếng nói của bà, Nguyễn Công Hoan đã thuộc nhiều câu trong Truyện Kiều, Nhị độ mai… dù không hiểu nghĩa.
“Cố nhiên là tôi đọc lại như vẹt, ngâm ngọng. Song do đó, niêm luật của thơ ca, nhạc điệu của ngôn ngữ được luyện vào óc tôi, được nhuần vào óc tôi từ ngày ấy” - ông cho biết.
Lúc ông học Trường Bưởi, Đông Dương tạp chí xuất bản thành khổ nhỏ, có phần văn chương, Trung Bắc tân văn có phần Từ phú thi ca và Đoản thiên tiểu thuyết thì trong thời gian nghỉ hè, không ngày nào ông không đọc những bài đã in trong báo đó.
Không riêng gì thơ ca, những đoạn văn có vần điệu du dương, nhịp nhàng, ông cũng đọc đến thuộc lòng. Khi Nam phong tạp chí ra đời, phần Văn uyển là chuyên mục ông thích nhất. Từ chỗ thích đọc, khiếu văn chương còn thúc giục Nguyễn Công Hoan phải viết. Tương tự Nam Cao, Tô Hoài… ban đầu, Nguyễn Công Hoan cũng làm thơ, tất nhiên chịu ảnh hưởng sâu đậm của lớp người đi trước đã thành danh.
Lúc được làm quen với thi sĩ Tản Đà, đọc “Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có, cửa nhà thời không”, cái mộng dan díu với “nàng thơ” ở ông tắt ngúm vì thừa biết mình không thể sánh được với bậc đàn anh.
Năm 1920, vì chuyện xích mích trong gia đình, Nguyễn Công Hoan “phiêu lưu” lên Hải Phòng. Lúc này, Tản Đà vừa xuất bản Còn chơi và ra tạp chí Hữu Thanh. Đọc tập thơ này, ông nảy ra ý viết lại chuyến đi của chính mình. Quyết chí phiêu lưu ra đời, nhưng… không báo nào in.
May mắn, chúng được chọn in trong tập Truyện thế gian của Tản Đà tu thư cục. Còn lại một số truyện ngắn, ông tự in thành tập, mang tên Kiếp hồng nhan. Tác phẩm này, về sau được các nhà phê bình xem như một trong những viên gạch đầu tiên đắp nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam.
Qua năm 1922, ông thi vào Trường Nam Sư phạm. Năm thứ nhất ở nội trú, kỷ luật rất nghiêm, đến giờ phải lên giường ngủ, nhưng đèn vẫn không tắt. Nhờ vậy, ông bắt đầu viết truyện dài Phải gió. Bạn bè đọc thử, thích thú cười rúc rích, giám thị xộc tới tịch thu tác phẩm, đem mách hiệu trưởng. Thầy hiệu trưởng Pujarnisele vốn là nhà thơ nên thông cảm với “nhà tiểu thuyết”, dù không phạt nhưng giữ riệt bản thảo, thế là Phải gió mất tích.
Những sáng tác này, Nguyễn Công Hoan còn viết bằng thứ văn biền ngẫu, chịu ảnh hưởng lớn từ Tản Đà. Nhưng do lòng yêu mến Tản Đà, ông rút ra bài học: không nên viết lối văn du dương như thơ kiểu Tản Đà nữa, vì không còn hợp thời.
Tình cờ đọc truyện ngắn Sống chết mặc bay và nhất là Tiếu lâm An Nam của Phạm Duy Tốn (thân phụ nhạc sĩ Phạm Duy), ông ngạc nhiên vì thấy “từ cách dùng chữ cho đến lối đặt câu, sao mà nó lọt lỗ tai và vẫn còn mới thế. Lọt lỗ tai và mới, tức là văn ấy vẫn còn như văn chúng ta nói, nó không cũ tí nào”.
Ông “nghiệm ra rằng, văn chương mà viết đúng như tiếng nói và lối nói của dân tộc thì nó hay, nó đứng vững mãi. Bởi vì ngôn ngữ của dân tộc là một thứ trường cửu, ít thay đổi vì thời thế”.
Không chỉ học từ câu văn, Nguyễn Công Hoan còn học cả cách viết. Ngày kia, người bạn thân là Tương Huyền (anh ruột nhà văn Tam Lang) cho ông mượn tập truyện ngắn của Guy de Maupassant, Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo… để ông tham khảo về cách bố cục, dựng truyện… Với cách học và thực hành qua các truyện ngắn hiện thực phê phán lần lượt đăng trên báo chí thời ấy, Nguyễn Công Hoan ngày một tiến bộ.
Đến năm 1932, với tập truyện dài Những cảnh khốn nạn, tên tuổi của ông đã được bạn đọc tìm đọc. Năm 1935, tập truyện ngắn Kép Từ Bền đã đưa Nguyễn Công Hoan thành cây bút sáng giá, tầm cỡ cùng các đồng nghiệp đương thời như Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, Nhất Linh, Ngô Tất Tố…
Về kinh nghiệm học văn để rồi sáng tác, đeo đuổi nghiệp văn, bài học mà ông thấm thía, tâm đắc nhất vẫn là phải nghiêm chỉnh học tiếng Việt:
“Học để hiểu tiếng khó, thêm tiếng mới. Đọc bài nào mà người viết không “hay chữ”, tôi cứ thấy như “ăn phở không người lái”. Học ở ngôn ngữ dân tộc, học ở văn học dân gian… Nghề của ta là nghề dùng tiếng để viết. Anh không giàu tiếng, thì đố ngòi bút của anh tung hoành được”.