Ads 468x60px

.

Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2025

Nghe đọc Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan - Radio Huyền Học (Radio Kể Truyện)


Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Tuyển chọn & Diễn đọc: Radio Huyền Học


Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: Radio Kể Truyện





Radio Kể Truyện

Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan - Quan điểm xã hội, luân lí


Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan -
Quan điểm xã hội, luân lí



Quan điểm xã hội của Nguyễn Công Hoan (NCH)

Được thể hiện rõ nét qua cách ông nhìn nhận và phản ánh hiện thực cuộc sống trong các tác phẩm của mình. Dưới đây là những khía cạnh chính trong quan điểm xã hội của NCH:
  • Sự đối chọi giữa người giàu và người nghèo: NCH luôn nhìn nhận hiện thực qua lăng kính giàu nghèo, với các tác phẩm xoay quanh sự xung đột giữa hai tầng lớp này. Ông coi đây là "cái cốt" của hầu hết các truyện ngắn và truyện dài của mình.
    • NCH đứng về phía người nghèo khổ, thậm chí bênh vực họ ngay cả khi họ phạmtội. Ví dụ, trong các truyện ngắn như Thằng ăn cắp, Bữa no... đòn, Thế cho nó chừa, ông đều cố gắng bào chữa và thanh minh cho những người nghèo. Ngược lại, NCH vạch trần bản chất xấu xa, tham lam của bọn nhà giàu qua các nhân vật như Thằng Quýt hay Thằng ăn cướp.
  • Đả kích các tầng lớp áp bức: NCH không ngần ngại đả kích bọn thực dân, quan lại, tư sản, địa chủ, cường hào và lính tráng, đặc biệt là hai tội: cậy quyền thế ức hiếp và tham lam vô độ. Ông miêu tả bọn chúng đều "to béo" vì ăn bẩn. Các truyện ngắn của NCH thường xoay quanh những mánh khóe ăn bẩn của bọn quan lại cường hào, nhưng không hề trùng lặp.
    • Quan điểm giàu nghèo của NCH dần được mài sắc và có xu hướng tiến tới quan điểm giai cấp trong bối cảnh xã hội thuận lợi như thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quan điểm của ông vẫn chưa hoàn toàn là quan điểm giai cấp chính xác.
  • Lập trường không hoàn toàn đứng về phía người nghèo: Mặc dù luôn đứng về phía người nghèo, NCH không phải lúc nào cũng đứng trên lập trường của họ. Trong một số trường hợp, ông đã phóng đại những khía cạnh tiêu cực như sự nhếch nhác và bẩn thỉu của họ.
  • Phản ánh sự tha hóa đạo đức xã hội: NCH căm ghét và khinh bỉ xã hội thực dân, bọn quan lại và những "nhố nhăng, quái thai" của xã hội mới đã giày xéo lên các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Ông lên án mạnh mẽ những quan lại hãnh tiến vô liêm sỉ và những người chạy theo lối sống Âu hóa một cách nhố nhăng.
  • Xung đột thế hệ và giới tính: Các tác phẩm của NCH thường thể hiện sự xung đột giữa hai thế hệ (già và trẻ), hai giới tính (nam và nữ), và giữa vợ cả và vợ lẽ. Ông thường đứng về phía người già, nam giới và vợ cả để phê phán những nhân vật khác, đặc biệt là phụ nữ và người trẻ.
  • Nhân vật diễn trò trong các tác phẩm của NCH thường là nữ giới, người trẻ và vợ lẽ, thể hiện quan điểm luân lý đạo đức bị chi phối bởi tư tưởng phong kiến bảo thủ và cái nhìn thành kiến với phụ nữ.
Tóm lại, quan điểm xã hội của NCH thể hiện sự phê phán sâu sắc đối với xã hội bất công và những tầng lớp áp bức, đồng thời bộc lộ một số hạn chế trong cách nhìn nhận về người nghèo và phụ nữ. Tuy nhiên, sự phản ánh chân thực về sự đối lập giàu nghèo và sự tha hóa đạo đức đã làm nên giá trị đặc biệt trong các tác phẩm của ông.



Quan điểm luân lí của Nguyễn Công Hoan (NCH)

Được thể hiện qua sự căm ghét, khinh bỉ xã hội thực dân và những "nhố nhăng, quái thai" của xã hội mới. Những điều này đã giày xéo lên truyền thống đạo đức của dân tộc. Dưới đây là các khía cạnh chính trong quan điểm luân lí của NCH:
  • Đả kích sự suy đồi đạo đức: NCH lên án mạnh mẽ bọn quan lại hãnh tiến vô liêm sỉ và những người chạy theo lối sống Âu hóa một cách nhố nhăng. Ông coi đây là sự lăng nhục đối với các giá trị đạo đức và văn hóa cổ truyền của dân tộc.
  • Mâu thuẫn trong quan điểm về phụ nữ: Quan điểm luân lí của NCH về phụ nữ, hôn nhân và gia đình bị chi phối mạnh mẽ bởi tư tưởng phong kiến bảo thủ. Ông thường có cái nhìn thành kiến và ác cảm với phụ nữ, điều này thể hiện qua các nhân vật trong các tác phẩm như Cô Kếu gái tân thời, Cô giáo Minh, Thanh đạm, và Danh tiết.
  • Xung đột thế hệ và giới tính: Các tác phẩm của NCH thường thể hiện xung đột giữa các thế hệ (già và trẻ), giới tính (nam và nữ), và giữa vợ cả và vợ lẽ. Ông thường đứng về phía người già, nam giới và vợ cả để phê phán, trong khi nhân vật diễn trò thường là nữ giới, người trẻ và vợ lẽ. Điều này cho thấy quan điểm luân lí của NCH còn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phong kiến.
  • Tính trào phúng và mỉa mai: NCH sử dụng sự chế giễu, mỉa mai, châm biếm và đả kích để lên án những cái xấu, cái ác của bọn quan lại, tư sản, cường hào ác bá và thanh niên nam nữ hư hỏng đua đòi theo lối sống Âu hóa.
Tóm lại, quan điểm luân lí của NCH vừa thể hiện sự bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống, vừa bộc lộ những hạn chế do ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, đặc biệt trong cách nhìn nhận về vai trò của phụ nữ trong xã hội. Quan điểm này được thể hiện qua các mâu thuẫn, xung đột trong các tác phẩm của ông, và thường bị mỉa mai, châm biếm để làm nổi bật sự giả dối và suy đồi của xã hội đương thời.



Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan (NCH)

Là một phần quan trọng trong sự nghiệp văn học của ông, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật độc đáo và quan điểm sâu sắc về xã hội. Dưới đây là phân tích chi tiết về truyện ngắn của NCH:

1. Quá trình sáng tác:
  • Giai đoạn 1929-1935: NCH bắt đầu viết truyện ngắn từ đầu những năm 20, nhưng đến năm 1929 mới được chú ý. Tập truyện Kép Tư Bền (1929-1935) đã gây tiếng vang lớn và tạo ra cuộc tranh luận về quan điểm nghệ thuật giữa Hải Triều và Hoài Thanh. Giai đoạn này, NCH tập trung làm nổi bật sự xung đột giữa người giàu và người nghèo, phơi bày sự bất công, thối nát của xã hội.
    • Ông vạch trần bộ mặt tàn ác, đểu cáng của những kẻ giàu có, có tiền, có quyền. Ví dụ, trong truyện Răng con chó của nhà tư sản, NCH miêu tả sự đối lập giữa người ăn mày và con chó trong việc tranh giành miếng ăn.
    • NCH cũng thể hiện tình cảnh khốn cùng của người dân nghèo thành thị như phu xe, ăn mày, lưu manh, gái điếm, con sen, thằng quýt. Các truyện ngắn tiêu biểu như Thằng ăn cắp, Được chuyến khách, Thanh! Dạ!, Ngựa người và người ngựa, Kép Tư Bền.
    • Tuy nhiên, ở giai đoạn này, tầm bao quát hiện thực của NCH còn hạn chế, chủ yếu phản ánh đời sống ở thành thị và mới chỉ phê phán nhà giàu trên phương diện đạo đức. Thái độ của ông đối với người nghèo và phụ nữ chưa thực sự trân trọng.
  • Giai đoạn 1936-1939: Đây là giai đoạn truyện ngắn của NCH đạt đến đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật.
  • Giai đoạn 1940-1945: Đây là giai đoạn sa sút của NCH. Hoàn cảnh xã hội ngột ngạt khiến nhà văn không còn kiên định lập trường của chủ nghĩa hiện thực.

2. Phong cách nghệ thuật:
  • Cái nhìn mới mẻ, độc đáo: NCH nhìn đời như một sân khấu hài kịch, một tấn trò hề lố lăng, giả dối.
  • Phát hiện mâu thuẫn và tạo tình huống trào phúng:
    • NCH nhạy bén với các loại mâu thuẫn và thường tạo ra các tình huống hài hước.
    • Mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng. Ví dụ, Báo hiếu: trả nghĩa cha, Đồng hào có ma.
    • Mâu thuẫn giữa mục đích ý nghĩa và bản chất. Ví dụ, Tinh thần thể dục.
    • Mâu thuẫn giữa hy vọng và thất vọng, niềm tin và nỗi buồn. Ví dụ, Ngựa người và người ngựa.
    • Mâu thuẫn giữa phúc và họa. Ví dụ, Hé! Hé! Hé!.
    • Mâu thuẫn nguyên nhân - kết quả. Ví dụ, Thằng ăn cắp.
    • Các mâu thuẫn, xung đột này tạo nên chất kịch trong truyện ngắn của NCH.
  • Thủ pháp cường điệu, phóng đại: NCH thường phóng đại cái xấu xa của con người, tạo nên những bức chân dung biếm họa. Ông sử dụng lối cường điệu để làm biến chất sự vật, vật hóa tả người, tô đậm phần "con" lấn át phần "người".
  • Nghệ thuật kể chuyện: Cốt truyện li kì, hấp dẫn và giàu tính kịch. NCH ít chú ý đến tính cách, tâm lý nhân vật mà tập trung vào việc dẫn dắt tình tiết sao cho mâu thuẫn trào phúng bật ra ở cuối tác phẩm. Ông thường đánh lạc hướng người đọc khỏi cái đích thật sự của câu chuyện.
  • Ngôn ngữ đậm chất trào phúng:
    • Ngôn ngữ quần chúng được chọn lọc, nâng cao, đậm chất ca dao, tục ngữ.
    • Ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh, so sánh, ví von.
    • Mỗi loại nhân vật có sắc thái ngôn ngữ riêng.
    • Câu văn thường mang mâu thuẫn hài hước bên trong.
    • Sử dụng từ Hán Việt và từ thuần Việt để tạo tiếng cười.
    • Dùng từ trang trọng để chỉ những việc không trang trọng.
    • Nói vòng để tạo liên tưởng thú vị.
    • Câu văn ngắn gọn, lặp lại cú pháp để tăng kịch tính.
    • Lời văn mang tính nhại (parody).
Tóm lại, truyện ngắn của NCH không chỉ phản ánh hiện thực xã hội một cách chân thực mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo của ông. Qua các mâu thuẫn, tình huống trào phúng, ngôn ngữ đa dạng và thủ pháp phóng đại, NCH đã tạo nên một phong cách truyện ngắn trào phúng đặc sắc, có giá trị phê phán sâu sắc đối với xã hội đương thời.



Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan (NCH) trong truyện ngắn

Rất đặc sắc, thể hiện qua nhiều khía cạnh độc đáo. Dưới đây là phân tích chi tiết về phong cách nghệ thuật của ông:

1. Cái nhìn mới mẻ, độc đáo:
  • NCH nhìn nhận cuộc đời như một sân khấu hài kịch, một tấn trò hề lố lăng và giả dối. Ông thấy "cái gì cũng là giả dối, lừa bịp, đáng khôi hài".
  • Trong khi Nam Cao nhìn cuộc đời là sự "chết mòn" và Vũ Trọng Phụng thấy đời "vô nghĩa lí, xã hội khốn nạn", NCH lại tiếp cận hiện thực với góc độ hài hước, châm biếm.

2. Phát hiện mâu thuẫn và tạo tình huống trào phúng:
  • NCH rất nhạy bén với các loại mâu thuẫn và thường tạo ra các tình huống hài hước, oái oăm.
  • Ông tập trung khai thác các mâu thuẫn như:
    • Mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng: Ví dụ, truyện Báo hiếu: trả nghĩa cha có vẻ bề ngoài là chí hiếu nhưng thực chất lại bất hiếu. Hoặc như Đồng hào có ma có vỏ ngoài oai vệ nhưng bên trong lại là lưu manh.
    • Mâu thuẫn giữa mục đích ý nghĩa và bản chất: Ví dụ, truyện Tinh thần thể dục có mục đích bề ngoài tốt đẹp nhưng thực chất lại gây ra tai họa cho người dân.
    • Mâu thuẫn giữa hy vọng và thất vọng, niềm tin và nỗi buồn: Ví dụ, Ngựa người và người ngựa thể hiện tình thế oái oăm khi cả hai nhân vật đều mong có khách nhưng cuối cùng lại thất vọng.
    • Mâu thuẫn giữa phúc và họa: Ví dụ, các truyện như Hé! Hé! Hé!.
    • Mâu thuẫn nguyên nhân – kết quả: Ví dụ, Thằng ăn cắp khi nguyên nhân nhỏ (ăn quỵt hai xu bún riêu) lại dẫn đến kết quả nghiêm trọng (bị đánh đập dã man).
  • Các mâu thuẫn và xung đột này tạo nên chất kịch trong truyện ngắn của NCH. Mỗi truyện của NCH có thể được xem như một vở kịch ngắn với sự đối lập và mâu thuẫn được sử dụng như nguyên tắc để xây dựng mối quan hệ giữa các nhân vật và tình tiết.

3. Thủ pháp cường điệu, phóng đại:
  • NCH thường phóng đại cái xấu xa của con người để tạo ra những bức chân dung biếm họa.
  • Ông sử dụng lối cường điệu để làm biến chất sự vật. Ví dụ, miêu tả bà phủ với hình ảnh "bánh giầy đám cưới" ở giữa có "quả chuối ngự""hai múi cà chua".
  • NCH sử dụng nguyên tắc "vật hóa tả người", biến các nhân vật phản diện thành lố bịch, kệch cỡm, làm nổi bật phần "con" lấn át phần "người". Ví dụ, miêu tả nhân vật trong truyện Phành phạch như "một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại".

4. Nghệ thuật kể chuyện:
  • Cốt truyện của NCH thường li kì, hấp dẫn và giàu tính kịch.
  • Ông tập trung vào việc dẫn dắt tình tiết sao cho mâu thuẫn trào phúng bật ra một cách bất ngờ ở cuối tác phẩm, đôi khi hy sinh tính hợp lý trong diễn biến tâm lý nhân vật để tăng kịch tính.
  • NCH thường sử dụng thủ thuật đánh lạc hướng người đọc khỏi mục đích thật sự của câu chuyện.
  • Ông hay dùng một nhân vật đóng vai người trong cuộc hay người chứng kiến, thường là người thật thà, ngớ ngẩn nhưng lại mang cái hóm hỉnh, ranh mãnh của nhà văn. Ví dụ như nhân vật Bắc trong Oằn tà rroằn.
  • Trong truyện Hai cái bụng, NCH mô tả hai đoạn tách biệt, không liên quan gì đến nhau, nhưng khi đọc xong cả truyện, người đọc thấy được sự đối lập và mỉa mai. Phần đầu mô tả tình cảnh đói rách của thằng bé ăn mày, phần sau là hình ảnh một bà béo phì "cổ rụt, má chảy, bụng xệ".

5. Ngôn ngữ đậm chất trào phúng:
  • Ngôn ngữ của NCH được chọn lọc từ ngôn ngữ quần chúng, mang đậm chất ca dao, tục ngữ.
  • Ông sử dụng ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh, so sánh, ví von để tạo sự liên tưởng thú vị cho người đọc.
  • Mỗi loại nhân vật trong tác phẩm của NCH đều có sắc thái ngôn ngữ riêng.
  • Câu văn thường mang mâu thuẫn hài hước bên trong. Ví dụ: "Nàng vì quá nhẹ dạ, nên phải nặng lòng..." trong Oằn tà rroằn.
  • NCH sử dụng từ Hán Việt và từ thuần Việt để tạo tiếng cười. Ví dụ: "quan huyện tư pháp... cùng trịnh trọng làm việc và cùng trịnh trọng khạc nhổ".
  • Ông thường dùng từ trang trọng để chỉ những việc không trang trọng.
  • NCH sử dụng lối nói vòng để tạo liên tưởng thú vị cho người đọc. Ví dụ: "Tang vật đó to bằng vành khăn đàn bà, cuộn quanh lù lù trên mặt đất thành một bãi, đầu hình búp măng, màu vàng, mà đứt đuôi là có hơi ngạt, thôi thối" trong Cái lò gạch bí mật.
  • Câu văn thường ngắn gọn, lặp lại cú pháp để tăng kịch tính. Ví dụ: "Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch... Như mưa vào đầu..." trong Bữa no... đòn.
  • Lời văn của NCH thường mang tính nhại (parody). Ông nhại văn hành chính, công vụ (Tinh thần thể dục, Chính sách thân dân), văn báo chí (Một tấm gương sáng), văn cáo phó (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ), văn trữ tình lãng mạn (Thế là mợ nó đi tây), văn trinh thám (Cái lò gạch bí mật), giọng hát tuồng (Đào kép mới), giọng tiểu thư (Nỗi lòng ai tỏ) và giọng con buôn (Hé! Hé! Hé!).
Tóm lại, phong cách nghệ thuật của NCH trong truyện ngắn là sự kết hợp giữa cái nhìn độc đáo về cuộc đời, khả năng phát hiện mâu thuẫn và tạo tình huống trào phúng, thủ pháp cường điệu, phóng đại, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn và ngôn ngữ giàu chất trào phúng. Ông đã tạo nên một phong cách truyện ngắn trào phúng đặc sắc, mang đậm dấu ấn cá nhân và có giá trị phê phán sâu sắc đối với xã hội đương thời.




Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Công Hoan (NCH) trong truyện ngắn

Thể hiện qua nhiều khía cạnh độc đáo. Dưới đây là phân tích chi tiết về nghệ thuật kể chuyện của ông:
  • Cốt truyện li kì và hấp dẫn: NCH rất tài hoa trong việc tổ chức cốt truyện, thường tạo ra những tình huống bất ngờ và giàu tính kịch. Ông ít chú ý đến việc xây dựng tính cách nhân vật và tâm lý phức tạp, mà tập trung vào việc dẫn dắt tình tiết để mâu thuẫn trào phúng và tình huống hài hước bật ra một cách đột ngột ở cuối tác phẩm.
  • Hy sinh tính hợp lý để tăng kịch tính: Nhiều khi, để cốt truyện thêm phần li kì và hấp dẫn, NCH sẵn sàng bỏ qua tính hợp lý và chân thực trong diễn biến tâm lý của nhân vật. Điều này giúp tạo ra những cú twist bất ngờ, làm tăng hiệu quả trào phúng của câu chuyện.
  • Thủ thuật đánh lạc hướng: NCH thường sử dụng thủ thuật đánh lạc hướng người đọc khỏi mục đích thực sự của câu chuyện. Ông thường dùng một nhân vật đóng vai người trong cuộc hoặc người chứng kiến, thường là người thật thà, ngớ ngẩn, nhưng lại mang sự hóm hỉnh và ranh mãnh của nhà văn.
  • Sử dụng các đoạn tách biệt: Trong một số truyện, NCH mô tả các đoạn tách biệt, không liên quan đến nhau, nhưng khi đọc xong cả truyện, người đọc sẽ thấy được sự đối lập và mỉa mai sâu sắc.
    • Ví dụ, trong truyện Hai cái bụng, NCH mô tả hai đoạn tách biệt: một bên là tình cảnh đói rách của thằng bé ăn mày, một bên là hình ảnh bà béo phì. Hai đoạn này không có sự liên kết trực tiếp, nhưng khi đọc xong, người đọc thấy rõ sự đối lập giữa hai hạng người trong xã hội: người ăn không hết và người không có gì để ăn. Câu kết của hai đoạn cũng tạo nên sự đối lập và mỉa mai sâu sắc: "nó chỉ thèm được ăn" (đứa bé) và "bà ấy chỉ thèm ăn được" (bà béo phì).
  • Tạo ra tình huống trào phúng: NCH rất nhạy bén trong việc phát hiện các mâu thuẫn và tạo ra các tình huống trào phúng độc đáo.
    • Ông khai thác các mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, mục đích và bản chất, hy vọng và thất vọng, phúc và họa, nguyên nhân và kết quả.
    • Ví dụ, truyện Thằng ăn cắp mâu thuẫn giữa nguyên nhân nhỏ (ăn quỵt hai xu bún riêu) và kết quả lớn (bị đánh đập dã man).
    • Các mâu thuẫn và xung đột này tạo nên chất kịch trong truyện ngắn của NCH. Mỗi truyện của ông có thể được xem như một vở kịch ngắn, với sự đối lập và mâu thuẫn được sử dụng như một nguyên tắc để xây dựng mối quan hệ giữa các nhân vật và tình tiết.
  • Kết thúc bất ngờ: NCH thường kết thúc truyện một cách bất ngờ, tạo ra tiếng cười và sự suy ngẫm cho người đọc.
    • Tình huống hài hước thường bật ra ở cuối tác phẩm một cách đột ngột, gây ấn tượng mạnh.
Tóm lại, nghệ thuật kể chuyện của NCH là sự kết hợp giữa cốt truyện li kì, tình huống trào phúng độc đáo, thủ thuật đánh lạc hướng, và cách xây dựng các đoạn tách biệt. Ông đã tạo ra những truyện ngắn hấp dẫn, giàu tính kịch, và mang đậm dấu ấn cá nhân.





Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2025

"Câu chuyện gia tình" của Nguyễn Bá Học và "Báo hiếu: trả nghĩa cha; Báo hiếu: trả nghĩa mẹ" của Nguyễn Công Hoan


"Câu chuyện gia tình" của Nguyễn Bá Học và "Báo hiếu: trả nghĩa cha; Báo hiếu: trả nghĩa mẹ" của Nguyễn Công Hoan

3.3.2. Câu chuyện gia tình của Nguyễn Bá Học và Báo hiếu: trả nghĩa cha; Báo hiếu: trả nghĩa mẹ của Nguyễn Công Hoan

Đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đẩy mạnh việc khai thác thuộc địa ở Việt Nam, xã hội Việt Nam bị phân hóa nhanh chóng thành nhiều giai tầng khác nhau, mâu thuẫn đối lập nhau. Đồng thời quá trình tiếp xúc văn hóa phương Tây cũng làm cho nền tảng văn hóa Nho học phong kiến ở Việt Nam bị lung lay. Nhiều giá trị văn hóa đạo đức truyền thống bị đổi thay và mai một. Với đạo đức truyền thống, chữ hiếu từ là một giá trị được mọi người đề cao, xem đó là đạo lí hiển nhiên phải có ở mỗi con người. Từ người thường dân đến vua chúa quan lại, ai ai cũng phải có hiếu với cha mẹ, kính trọng cha mẹ, phải biết ơn đấng sinh thành, dưỡng dục. Ấy vậy mà với sự hình thành của giai cấp tư sản, đồng tiền đã lên ngôi và ngự trị, giá trị đạo đức có khi bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Chữ hiếu trước đây được mọi người tôn thờ thì nay có kẻ nhẫn tâm chà đạp.

Đề tài này đã được nhiều cây bút truyện ngắn quan tâm thể hiện, gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh mọi người. Người tiên phong viết về đề tài này trong truyện ngắn hiện đại là Nguyễn Bá Học.

“Mặc dù vẫn quan niệm thiên chức của nhà văn là làm văn để “treo gương luân lí”, bảo vệ đạo đức truyền thống, nhưng Nguyễn Bá Học đã bước đầu rời bỏ quan niệm văn học của nhà nho, ý thức được cần thiết phải có thể loại mới để phản ánh đời sống, đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ mới và tính chất mới của công chúng”[11; tr 269].

Trong truyện ngắn Câu chuyện gia tình, Nguyễn Bá Học đề cao sự sinh thành, giáo dưỡng của người mẹ:

“Già ở góa đã 30 năm nay, nhà nghèo, chỉ bới đất nhặt cỏ, nuôi hai con đi học. Ngày quên ăn, đêm quên ngủ, trông thấy con ấy là ngọc giải phiền, không nỡ lúc nào mà mẹ con xa vắng nhau” [17; tr151].

Tấm lòng của người mẹ đối với con không gì đo đếm được. Người mẹ hi sinh tất cả vì con, đứa con là nguồn sống nguồn vui là động lực cho người mẹ vượt qua mọi khó khăn khổ ải của cuộc đời. Ấy vậy mà cả hai đứa con của bà cụ không đứa nào nuôi nổi mẹ. Đứa lớn theo Nho học làm thầy đồ, từ khi nhà nước bỏ thi bỗng thất nghiệp không nuôi nổi vợ con, mẹ già. Đứa con thứ hai theo Tây học khấm khá thành đạt hơn nhưng tệ hại hơn là ăn chơi, cờ bạc, ăn cắp tiền của vợ để đi chơi với người tình, nói dối với cả mẹ đẻ ra mình. Dưới con mắt của nhà nho Nguyễn Bá Học, những hành động ấy thể hiện sự băng hoại, xuống cấp trầm trọng của đạo đức. Hành động ấy của đứa con đối với người mẹ là sự bất hiếu lớn.

“Có thể nói ông (Nguyễn Bá Học) là nhà văn đầu tiên của Việt Nam đầu thể kỉ XX viết truyện ngắn phản ánh cuộc sống thành thị đang trên đà tư sản hóa. Cuộc sống thường nhật được miêu tả trong bầu không khí náo động, xô bồ, chen chúc các loại người mưu mô và trụy lạc gia tang ở thành thị, ngược hẳn với nông thôn vắng lặng và tàn tạ” [11; tr 269].

Cùng đề tài sa đọa về đạo đức, Nguyễn Công Hoan trong Báo hiếu: trả nghĩa chaBáo hiếu: trả nghĩa mẹ cũng xây dựng hình ảnh một người mẹ tận tụy hết lòng vì con, cũng là người có số phận không may mắn ở góa để nuôi con.

“Bà ấy là một người đàn bà góa. Đã ngoài ba mươi năm nay, có một đêm bà ấy trót dại chiều chồng mà tình cờ đẻ ra được một đứa con trai. Sinh được ít lâu, trời bắt tội bà ấy góa bụa. Nhà nghèo, làm ăn vất vả, kiếm chẳng đủ ăn, nhưng bà ấy chẳng nhẫn tâm bỏ đứa bé thơ ngây trả nhà chống để đi bước nữa mà vui thú với tuổi xuân đương hơ hớ. Qua mấy năm khó nhọc, khi sài khi đẹn, suýt chết mấy lần thì đứa bé đến tuổi đi học” [18; tr54].

Thằng con ấy sau bỏ ra tỉnh làm ăn buôn bán phát tài trở nên giàu có là chủ hãng ô tô Con cọp. Ấy thế nhưng người mẹ không được hưởng chút nào cái sung sướng cùng con mà ngược lại trong một đêm “Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt tận xương”, bà bị chính đứa con trai của mình ra đuổi bà ra đường. Sự bất hiếu đến táng tận lương tâm của người con khiến cho bà cụ uất lên mà chết. Ấy vậy nhưng khi bà cụ chết, hắn lại tổ chức đám tang linh đình trọng thể, khóc than kêu gào thảm thiết để che mắt thiên hạ. Vợ chồng hắn càng tỏ ra có hiếu, càng cố sức che đậy thì người đọc càng nhận ra bản chất đại bất hiếu của hắn. Cả hai truyện ngắn đều có điểm chung là người mẹ ở góa tần tảo nuôi con khôn lớn trưởng thành nhưng sự bất hiếu của người con khiến cho các bà mẹ phải buồn lòng, thậm chí uất hận mà chết như trong Báo hiếu: trả nghĩa mẹ của Nguyễn Công Hoan.

Hai truyện ngắn của hai tác giả (Nguyễn Bá Học và Nguyễn Công Hoan) sáng tác ở các thời điểm khác nhau nhưng đều có chung quan niệm: chính xã hội tư sản ở thành thị đã làm băng hoại đạo đức tha hóa con người, hủy hoại giá trị đạo đức truyền thống. Lối sống tư sản thành thị đề cao đồng tiền và ăn chơi sa đọa, hưởng lạc là nguyên nhân trực tiếp làm nảy nòi những đứa con bất hiếu.

Mặc dù có nhiều điểm tương đồng ở hai truyện ngắn, song mỗi truyện lại có cách thể hiện riêng độc đáo. Truyện ngắn Câu chuyện gia tình sáng tác thời kì đầu thế kỉ XX (1918), nội dung phản ảnh sự xuống cấp của hai nền giáo dục: giáo dục Nho học thì đã lỗi thời, chỉ là thứ lí thuyết suông.


Giáo dục Tây học đi liền với sự tiến bộ, văn minh, thực nghiệp thì không ngăn nổi con người tiêm nhiễm nhiều thói hư tật xấu của lối sống tư sản thành thị. Người con thứ hai của bà cụ học theo Tây học lên tỉnh sống và đổi tính, đổi nết

“lúc ở nhà thì thật thà hiếu hữu, bây giờ động nói thì dở lí dở luật ra con người vô tình. Khi ở nhà thì thật là thuần hòa, bây giờ động việc thì cậy thế cậy quyền ra con người táo tợn; khi ở nhà thì ăn ở kham khổ, đến bây giờ thì học thói xa xỉ tưởng thế là văn minh; khi ở nhà thì nhịn bạn nhường thầy, đến bây giờ thì cậy trí khoe tài cho ai cũng là mọi rợ.” [17; tr 153].

Quan niệm của Nguyễn Bá Học là

“làm người ai cũng phải có bổn phận: làm con phải đền ơn cha mẹ, làm chồng phải giúp vợ, làm cha phải nuôi con” [17; tr152].

Vậy mà cả hai đứa con của bà cụ không nuôi nổi cụ, tệ hại hơn người con thứ hai còn ăn trộm tiền, tư trang của vợ để đi chơi với người tình, sẵn sàng nói dối mẹ đẻ. Đó là những biểu hiện vi phạm đạo đức nghiêm trọng cần gióng chuông cảnh tỉnh mọi người.

Câu chuyện gia tình là truyện ngắn hiện đại đầu thế kỉ XX nên nội dung tư tưởng các yếu tố nghệ thuật có nhiều đổi mới, song có một số yếu tố chưa hoàn thiện. Cốt truyện còn đơn giản, câu chuyện mang tính luận đề phục vụ cho mục đích “treo gương đạo đức” của tác giả. Nhân vật bà cụ già lẩm cẩm mà nói câu nào cứ như một bậc hiền triết giảng về đạo Nho, giảng về luân lí đạo đức vậy. Nghệ thuật kể chuyện còn dài dòng, rườm rà, đoạn đầu là đoạn nghị luận xã hội của tác giả, là bình luận ngoại đề, tác giả còn dùng nhiều từ Hán Việt và câu văn biền ngẫu. Dù còn một số nhược điểm song Câu chuyện gia tình vẫn là một truyện ngắn khá thành công của Nguyễn Bá Học nói riêng, của truyện ngắn trên tạp chí Nam phong nói chung và cũng là sự thành công của người đi tiên phong trong viết truyện lối mới ở nước ta, mở ra triển vọng của truyện ngắn Việt Nam hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ.

“Có thể nói nếu Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn là những cây bút tiên phong trong việc tạo dựng thể loại truyện ngắn quốc ngữ hiện đại Việt Nam thì Nguyễn Công Hoan là người đã có công hoàn thiện thể loại truyện ngắn và đẩy nó phát triển cao hơn. Ông thực sự đã trở thành một cây bút truyện ngắn, một tác giả lớn trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại” [11; tr 280].

Nguyễn Công Hoan với hai truyện ngắn liên hoàn Báo hiếu: trả nghĩa chaBáo hiếu: trả nghĩa mẹ đã đem lại thành công lớn cho đề tài viết về đạo đức trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Nguyễn Công Hoan xây dựng được tình huống truyện độc đáo, trước hết đó là tình huống trớ trêu nghịch lí, phi lí trái với đạo đức thông thường. Trong ngày giỗ cha, người con trai tổ chức cỗ bàn linh đình quan khách đông đúc tấp nập, dự tiệc ăn uống trong ngôi nhà rộng rãi ấm cúng, đèn sáng trưng thì cũng chính là kẻ đã nhẫn tâm đuổi bà mẹ ra ngoài trời mưa rét sau khi bố thí cho bà cụ hai đồng hào. Chính hắn cùng với vợ đã giết mẹ đẻ của mình sau đó làm đám ma rất trọng thể, rất linh đình để được khen là người có hiếu. Qua những tình huống trên, bản chất đại bất hiếu của người con trai bị bóc trần, người đọc không chỉ khinh bỉ mà còn căm ghét hạng người vô đạo bất hiếu không có lương tâm.

Cách kể chuyện của Nguyễn Công Hoan cũng thật tự nhiên, câu văn rất linh hoạt, ngôn ngữ chọn lọc gần gũi với ngôn ngữ dân gian, với ngôn ngữ sinh hoạt đời thường giàu cảm xúc. Nguyễn Công Hoan cũng chú trọng xây dựng hoàn cảnh điển hình đối chọi, đối lập nhau gay gắt. Trong phòng là những con người ăn mặc lịch sự đèn điện sáng trưng ấm cúng, còn ở ngoài trời mưa phùn gió bấc, rét buốt tận xương với hình ảnh bà cụ đói rét, ăn mặc bẩn thỉu. Chi tiết nhỏ này ngay từ đầu đã bóc trần sự tệ bạc của người con đối với mẹ.

Ngôn ngữ trong truyện ngắn Báo hiếu: trả nghĩa cha của Nguyễn Công Hoan nhiều màu sắc, mỗi nhân vật có một sắc thái ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ ông chủ hang ô tô Con cọp đầy quyền uy hách dịch khi nói với bà cụ đẻ ra mình; ngôn ngữ bà vợ ông chủ khi nói với khách thì ngọt nhạt giả dối; ngôn ngữ của bà cụ thì mộc mạc chân thật. Ngôn ngữ đã bộc lộ rõ tính cách nhân vật. Ngoài ngôn ngữ nhân vật, Nguyễn Công Hoan còn sử dụng ngôn ngữ người kể chuyện giàu tính hài hước, có khi đan xen bình luận nửa trực tiếp: vừa là ngôn ngữ nhân vật vừa là ngôn ngữ tác giả tạo nên sự sinh động hấp dẫn. Tính chất trào phúng thể hiện cả trong ngôn ngữ, tình huống truyện, trong ngữ cảnh đối lập.

“Từ những sự việc trong cuộc sống, Nguyễn Công Hoan đã tạo nên những tình huống truyện độc đáo, phù hợp với ngôn ngữ trào phúng của mình, đồng thời có ý nghĩa phê phán sâu cay xã hội đương thời” [11; tr 294].

Qua hai truyện ngắn cùng đề tài về đạo hiếu của hai tác giả trên, chúng ta thấy có sự kế thừa phát triển và hoàn thiện truyện ngắn Việt Nam hiện đại.


-----

Một phần của tài liệu Truyện ngắn trên tạp chí Nam Phong (1917-1934) với việc xây dựng mô hình truyện ngắn hiện đại (Trang 86 - 91)




Thứ Tư, 12 tháng 2, 2025

Một đời văn lực lưỡng Nguyễn Công Hoan


Một đời văn lực lưỡng Nguyễn Công Hoan

GS. Phong Lê


Đã hơn một thế kỷ, tính từ những năm hai mươi cho đến nay, Nguyễn Công Hoan vẫn được nhắc nhở trong dư luận của nhiều thế hệ bạn đọc.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan. Ảnh: Internet.


Nguyễn Công Hoan bắt đầu được chú ý từ những truyện trong tập Truyện thế gian của Tản Đà Thư Cục năm 1922; rồi Kiếp hồng nhan, năm 1923; để trở nên nổi tiếng với những chuyện đời trong chuyên mục “Xã hội ba đào ký”, thời An Nam tạp chí cũng của Tản Đà đầu những năm ba mươi. Và đến hôm nay, sau bao nhiêu biến thiên xã hội, ông vẫn tiếp tục là nhà văn thân quen của nhiều thế hệ bạn đọc, trong số đó không ít người đã từng qua một tuổi trẻ hoặc tuổi học đường sớm biết đến Nguyễn Công Hoan, qua Bước đường cùng và các truyện ngắn được chọn lọc trong chương trình văn học ở nhà trường.

Cố nhiên ở mọi thời kỳ, sự quan tâm của bạn đọc đối với Nguyễn Công Hoan là có khác nhau. Nguyễn Công Hoan xuất hiện với một bút pháp lạ, một cách nhìn lạ, một giọng điệu lạ, hài và bi, cười cợt và nghiêm trang, đùa mà tỉnh táo, đã được báo hiệu ngay từ Kiếp hồng nhan (1923). Rồi Nguyễn Công Hoan với truyện ngắn và truyện dài, dồn dập và xen kẽ, chuyển dịch qua bao xu hướng nghệ thuật trong những năm ba mươi. Nhà văn muốn tỏ ra trung thành với chủ nghĩa hiện thực trào lộng trong truyện ngắn lại rất nghiêm trang, mực thước trong Tấm lòng vàng, Cô làm công...

Chủ nghĩa lãng mạn tưởng như xa lạ với Nguyễn Công Hoan, khi nhà văn cố tình trở về với các khuôn mẫu cổ điển, để chống lại Đoạn tuyệt của Nhất Linh, trong Cô giáo Minh, lại là người đẫm ướt trữ tình và nước mắt lãng mạn trong Tắt lửa lòngLá ngọc cành vàng. Thanh đạm u trầm trong một khí hậu hoài cổ nhằm dẫn dắt con người vào một thời xưa, trong lúc Bước đường cùng lại rất quyết liệt phanh phui, lật tẩy hiện tại - sách bị cấm mà thành danh to, năm ngàn bản hết veo và được in đi in lại nhiều lần...

Nguyễn Công Hoan, tóm lại, đó là người viết dường như muốn có một mục tiêu để trung thành, để chung thủy,
nhưng lại nhiều đổi thay, chuyển dịch và không ít giọng điệu. Có phải vậy chăng cùng lúc có ở trong ông vừa khách quan vừa chủ quan, vừa mới vừa cũ, vừa hoài cổ vừa cách tân, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa cổ điển vừa tự nhiên và cả tự nhiên chủ nghĩa... Vậy là, phải chăng về cái gọi là “phức tạp”, qua con mắt người đương thời và hậu thế, thì xem ra Nguyễn Công Hoan cũng có mặt nổi danh không kém Nguyễn Tuân.

Nhưng rút lại thì cái lớn, cái duyên và có thể là cả cái may nữa, của Nguyễn Công Hoan là ở đâu và lúc nào ông cũng được quan tâm. Có thể nói ông là nhà văn chưa bao giờ bị quên. Ông là người thường xuyên được nhắc nhở. Quả là trong làng văn Việt Nam hiện đại, người có vị trí như Nguyễn Công Hoan không phải thật quá hiếm hoi. Nhưng có người danh đang như cồn, bỗng bị quên ngay. Có người rất thực tài nhưng chịu rất nhiều thăng trầm.

Có người chịu một số phận âm thầm thật lâu rồi mới sáng sủa dần lên. Còn ông, nhà văn Nguyễn Công Hoan thì lúc nào cũng là người hiện diện cùng độc giả. Tham gia cách mạng, hoạt động ở nhiều cương vị, cho đến hết cuộc kháng chiến chống Pháp, trở về hòa bình, ông là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên từ khi có Hội, năm 1957, cương vị ấy ở ông gợi nhớ chức danh Tổng thư ký Hội Văn nghệ của Nguyễn Tuân trước đó gần một thập niên trong Đại hội lần thứ nhất Hội Văn nghệ Việt Nam. Những chọn lựa của lịch sử và nghề nghiệp quả thật là tinh.

Nghề và nghiệp, danh và thực, quả đã tìm được sự hội tụ ở những người viết có bản lĩnh, có chân tài. Qua hai hiện tượng trên, ở hai cương vị đại diện: một cho chủ nghĩa lãng mạn, một cho chủ nghĩa hiện thực, tôi thấy thật thú vị về sự gặp gỡ của hai phong cách lớn trong văn học Việt Nam hiện đại.





Trong tác phẩm "Ngựa người và người ngựa" phản ánh những mặt trái của xã hội cũ.
Ảnh: VnExpress.


Nhà văn Chủ tịch Hội Nguyễn Công Hoan đã khẩn trương trở về với vốn sở trường của mình qua một loạt các tiểu thuyết dài dồn dập, hơn bất cứ ai, trong giao điểm những năm năm mươi và sáu mươi: Tranh tối tranh sáng (1956), Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống rác cũ, tập I (1963) như là một sự tổng hợp và nâng cao, trong quy mô sử thi, để có thể đồng thời diễn đạt cho được cả hai mặt: mặt tối tăm bi thảm và mặt cách mạng của cuộc đời cũ.

Nguyễn Công Hoan - cây đại thụ của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Ảnh: Internet.


Mặt tối tăm, dường như hầu hết những gì ông đã viết trước 1945 có thể xem là một tập đại thành; còn mặt sáng sủa, mặt cách mạng của xã hội cũ thì có dễ đến bây giờ ông mới có chủ trương và có quyết tâm trong một nỗ lực nhận thức rất cao. Còn nhớ có lần ông nói:
“Tôi vẽ người xấu nhạy hơn người tốt. Bởi vì tôi vốn bi quan nên nhìn mọi vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy phía xấu. Phía xấu dễ nhập tâm hơn phía tốt”.
Vậy là có phải bây giờ mới là lúc ông thấy cần và ông có điều kiện thể hiện mình trên cả hai thái độ: phê phán và khẳng định.

Nhưng gắn cho được cả hai mặt đó vào một chỉnh thể, sao cho nó hữu cơ, cho nó nhuần nhị, có nhân và quả, hoặc vừa là nhân vừa là quả, có quan hệ và tác động theo cả hai chiều, thật là cả một sự nặng nhọc. Ấy là chưa nói những đòi hỏi theo “phép biện chứng” ở người đọc, theo lý luận về hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nhìn cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng và khẳng định mặt đang lên của hiện thực, phải đâu dễ đáp ứng được, nếu nó không tìm được lối thuận trong tạng của nhà văn.

Thiên chức nhà văn: nói cho toàn diện về hiện thực, hướng con người về phía cái tốt cái thiện, là câu chuyện ta từng bàn đi bàn lại, nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Ai cũng mong đạt cái đích cao và xa ấy. Nhưng đòi hỏi của cả một nền, cả một thời có khác với đòi hỏi riêng ở từng người. Và ở mỗi người, chuyện lực và tâm, và cả tạng nữa, có gắn bó hô ứng được với nhau không cũng còn phải tính. Một đời dài theo nghiệp văn, Nguyễn Công Hoan đã để lại cho ta một di sản lớn về nhiều mặt. Nhưng tôi lại nghĩ nếu Nguyễn Công Hoan biết chiều cái tạng riêng của mình và xã hội một thời dài cũng sẵn sàng chấp nhận, hoặc biết bao dung cái tạng ấy thì hẳn chắc sự nghiệp của ông còn lớn hơn, thậm chí lớn hơn rất nhiều. Ông cứ viết, tiếp tục với giọng trào lộng của riêng ông về cái cũ, cái ác trong xã hội cũ và cả về cái cũ, cái xấu trong xã hội mới nữa, cũng được chứ sao!

Chúng tôi là những người đọc hậu sinh trung thành và chuyên cần của nền văn chương quốc ngữ, chúng tôi càng quý trọng một trong những người đặt nền móng đầu tiên là Nguyễn Công Hoan. Cũng chính ông là người tiếp tục cần mẫn lần lượt leo lên nhiều tầng giàn giáo của công trường văn xuôi quốc ngữ Việt Nam. Một công trường thật sự là đông đúc, nhưng những bậc thợ cả trong số đó như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam. Khái Hưng, Tô Hoài, Nguyên Hồng... thì quả chưa phải là nhiều.

Còn chưa nhiều nên mới quý. Và càng quý khi tất cả họ, khi trong con số ít ỏi ấy ở họ, lại là những chân dung rất khác nhau, những gương mặt hoàn toàn không lẫn vào nhau.
Nghĩ về Nguyễn Công Hoan tôi luôn luôn nhớ đến một tiếng cười riêng, tiếng cười Nguyễn Công Hoan, tiếng cười gây cười, lập tức làm ta bật cười, cười không cản được, cười to lên hoặc tủm tỉm, nhưng rồi sau đó là một vị chát có lúc như nghẹn đắng, có lúc làm cay nơi mắt ta. Ngẫm ra thật là “sợ” cho ngữ ngôn, cho văn tự, cho chữ nghĩa Nguyễn Công Hoan: Oẳn tà roằn, Ngựa người và người ngựa, Báo hiếu - trả nghĩa cha, Cô Kếu - gái tân thời, Thế là mợ nó đi Tây...

Nghĩ về Nguyễn Công Hoan tôi luôn thấy sống động cả một thế giới người thật đông đúc và cũng thật là lúc nhúc trong văn ông: những phu phen, thuyền thợ, dân quê; những địa chủ, lý dịch, cường hào; những nghị viên, dân biểu, quan lại (huyện, phủ, bố, án, tuần...); những ký, lục, phán, tham; những con buôn, tư sản, chủ thầu; những giáo chức, nghệ nhân, viết văn, làm báo; những me tây, cô đầu, kép hát; những gái điếm, con sen, thằng nhỏ; những “ván cách”, lính cơ, thày quyền; những bồi, bếp, tây trắng, tây đen...

Nghĩ đến Nguyễn Công Hoan tôi nghĩ đến cả một gia tài truyện ngắn thật đồ sộ mà ông để lại; và truyện ngắn - đó mới chính là sở trường của ông, trào phúng mới là giọng điệu của riêng ông. Một thứ trào phúng rõ ràng là bắt nguồn từ gia tài dân gian và cổ điển, nhưng vẫn là rất riêng của ông, không lẫn với ai, và không ai bắt chước được. Hơn thế, đó lại là cái trào phúng xem ra không chỉ có một mà nhiều cung bậc; mọi cung bậc không phải tất cả đều thuận tai; nhưng khi một nhà văn được viết hồn nhiên theo thiên tính của mình, thì cái hồn nhiên ấy mới làm phát lộ ra biết bao tài hoa khiến cho ta kinh ngạc.

Thế kỷ XX ghi nhận tên tuổi Nguyễn Công Hoan - tác giả của hàng trăm truyện ngắn sáng giá - là người hiếm hoi, cùng với Nam Cao, Thạch Lam có công đưa thể loại dễ mà khó này lên một tầng cao thật siêu việt. Là người có một tiếng cười riêng thật đặc sắc trong một bối cảnh vốn lúc nào cũng rất cần có tiếng cười. Một cuộc sống tối tăm đau khổ, thật đáng khóc như cuộc sống trước 1945, vẫn cần có tiếng cười; đã có một chuỗi cười dài trong Số đỏ, lại có tiếng cười của Nguyễn Công Hoan, cùng tiếng cười trong thơ của Tú Mỡ, Đồ Phồn.

Cuộc sống mới sau 1945, dẫu có nhiều niềm vui lớn, đâu phải đã hết cần đến tiếng cười phê phán. Cái lý đó và sự thật đó, phải chăng ta nhận ra khá muộn, khiến cho một người biết cười, một người dám cười như Nguyễn Công Hoan thật đáng giá, thế nhưng lắm lúc ông đã phải nghiêm trang. Nguyễn Công Hoan, trong cả đời văn nói chung là một người may mắn, nhưng ông cũng có đôi lúc không may. Dẫu thế, trong di sản của ông, bên nhiều thứ đã bị quên, có một bộ phận sẽ là bất tử.


GS. Phong Lê